Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Làng nghề ở hải phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.54 KB, 16 trang )

Làng nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế


Nguyễn Văn Tùng

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Huy Đường
Năm bảo vệ: 2009


Abstract: Trên cơ sở khái quát những lý luận chung về phát triển làng nghề, luận văn tập
trung nghiên cứu quá trình phát triền làng nghề ở Hải Phòng (Gồm 7 huyện và thành phố
là Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thụy, An Lão, An Dương, Thủy Nguyên, Cát Hải và thị xã
Đồ Sơn), trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. Làm rõ vai trò của làng nghề
trong phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng. Phân tích đánh giá thực trạng làng nghề,
đánh giá điểm mạnh, cơ hội và thách thức đối với làng nghề Hải Phòng trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế. Đề xuất các định hướng phát triển làng nghề, một số giải pháp
chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề Hải Phòng thời gian tới, như giải pháp về
quy hoạch, vốn đầu tư, thị trường và xúc tiến thương mại, phát triển nguồn nhân lực, có
chính sách tôn vinh nghệ nhân; xử lý ô nhiễm môi trường, xây dựng chiến lược thương
hiệu và gắn kết phát triển làng nghề với phát triển du lịch

Keywords: Hội nhập kinh tế quốc tế; Làng nghề; Hải Phòng


Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, kinh tế tăng trưởng với
tốc độ cao so với các nước trong khu vực và thế giới, cơ cấu GDP chuyển dịch tích cực, tăng tỷ


trọng công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tuy nhiên,
đến nay nước ta vẫn là nước nông nghiệp, trong những năm tới nông nghiệp nông thôn vẫn đóng
vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Khu vực nông thôn hiện nay, nơi
chiếm khoảng 70% dân số và 70% lực lượng lao động cả nước đang có biểu hiện tụt hậu so với
khu vực đô thị, nhất là về mặt thu nhập, điều kiện sống và cơ hội việc làm. Do vậy, phát triển
làng nghề là nội dung lớn của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hải Phòng nằm trong vùng Đồng bằng sông hồng và thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, với diện tích 1,52 nghìn km2, dân số gần 1,8 triệu người, mật độ dân số cao so với cả nước.
Hải Phòng có nhiều tiềm năng lợi thế phát triển kinh tế - xã hội, vừa là trung tâm công nghiệp
của cả nước, lại là cửa ngõ quan trọng bằng cảng biển để giao lưu thương mại với thế giới. Nông
nghiệp Hải Phòng không lớn, diện tích đất canh tác trong nông nghiệp thấp. Trong khi hiện nay
còn khoảng 60% dân số, lao động sống và làm việc ở nông thôn cùng với sự chuyển đổi 100 ha
đất nông nghiệp bình quân mỗi năm cho công nghiệp và mục đích sử dụng khác đang là sức ép
lớn về lao động và đời sống dân cư Hải Phòng. Do vậy, phát triển làng nghề gắn với thị trường
trong nước và xuất khẩu; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, bố trí lại lao động và
sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, xây dựng nông thôn, bố trí lại lao động và sử dụng hiệu quả
nguồn tài nguyên, xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay là một
đòi hỏi cấp thiết đối với Hải Phòng.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Làng nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế"
làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sỹ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Phát triển làng nghề là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam. Do vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu tiêu biểu như:
- Mai Thế Hởn ( 2000), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở vùng ven đô Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
- Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Viện Kinh tế học Hà Nội.

- Bộ Nông nghiệp và Nông thôn (2005), Phát triển ngành nghề nông thôn trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng (2006), Báo cáo khoa học: Đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp ngành nghề nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn Hải Phòng đến 2010.
- Một số công trình của GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS. Hoàng Kim Giao
Tuy vậy, mỗi tác giả có cách tiếp cận khác nhau về vấn đề phát triển làng nghề và chủ
yếu tập trung vào những vấn đề lý luận chung như: vai trò, sự cần thiết, các yếu tố tác động của
phát triển làng nghề trong điều kiện kinh tế quốc dân. Song cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào đề cập đến vấn đề "Làng nghề ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế"
một cách đầy đủ và hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
- Định hướng một số lĩnh vực ưu tiên phát triển làng nghề ở Hải Phòng trong thời gian tới;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề ở Hải Phòng thời gian tới.
*Nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Phòng;
- Đánh gía thực trạng làng nghề ở Hải Phòng trong thời gian qua (giai đoạn từ năm 2000 đến
nay);
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá điểm mạnh, cơ hội và thách đối với làng nghề ở Hải Phòng trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Trên cơ sở lý luận chung, luận văn đi nghiên cứu quá trình phát triển làng nghề ở Hải Phòng
(gồm 7 huyện và ở thành phố là: Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thuỵ, An Lão, An Dương, Thuỷ
Nguyên, Cát Hải và thị xã Đồ Sơn);
- Sự khảo cứu của Luận văn được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiện cứu
- Các phương pháp nghiên cứu cơ bản của môn kinh tế chính trị;
- Đặc biệt, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân tích, tổng

hợp, thống kê, so sánh, logic, xử lý số liệu.
6. Dự kiến đóng góp mới của Luận văn
- Làm rõ những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Hải Phòng đến quá trình
phát triển làng nghề;
- Các nhân tố tác động hoạt động phát triển sản xuất của làng nghề Hải Phòng;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng phát triển làng nghề ở Hải Phòng trong
thời gian qua và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế;
- Trên cơ sở này, Luận văn đề xuất định hướng và một số giải pháp phát triển làng nghề ở Hải
Phòng.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm: 3 chương, 9 tiết.

Chương 1: Làng nghề và kinh nghiệm phát triển làng nghề của một số địa phương đối với
Hải Phòng
1.1. Khái niệm làng nghề
- Theo www.vi.wikipedia.org “ Làng một tập hợp những người có thể có cung huyết thống,
cùng phương kế sinh nhai trên một vùng nhất định”
- Theo từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên: “ nghề là công việc chuyên làm theo sự
phân công lao động xã hội” như nghề dạy học, nghề nông, nghề mộc, nghề ngão, tay nghề, nhà
nghề.
Từ cách tiếp cận này ta có thể thấy khái niệm làng nghề liên quan đến các nghề thủ công cụ
thể. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc
đồng, khảm trai, kim hoàn, dệt vải, dệt tơ lụa.
Có thể khái quát khái niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là một không gian kinh tế nhất
định, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, chủ yếu liên quan tới các nghề thủ công và một
số dịch vụ, trong đó lao động và thu nhập từ làng nghề này chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị
sản phẩm của toàn làng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng có Thông tư số 116/2006/TT- BNN ngày
18/12/2006 đưa những tiêu chí cụ thể sau:
+ Số hộ làm nghề đó chiếm từ 25%;

+ Thu nhập từ nghề đó chiếm trên 50%;
+ Gía trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của làng;
+ Thời gian phát triển ổn định từ 2 năm trở lên.
1.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế quốc dân
- Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá,
đó là việc góp phần làm tăng tỉ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ
trọng của nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất ông nghiệp có thu nhập thấp sang nghành
nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn;
- Tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hoá cho nền kinh tế: Với quy mô nhỏ bé được phân bố
rộng khắp ở các vùng nông thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng hàng
hoá khá lớn, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho Hải Phòng nói riêng.
Sản phẩm của làng nghề tạo ra hàng hoá xuất khẩu để thu ngoại tệ, vài năm gần đây, tính riếngản
phẩm của 300 làng nghề truyền thống đã có mặt ở trên 100 nước, giá trị xuất khẩu đạt trên 2,1 tỷ
USD/năm, chiếm 2,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (năm 2007);
- Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn: Những năm
gần đây hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp, trong đó bao gồm các nghề truyền thống đã thu
hút hơn 11 triệu lao động, chiếm 30,5% lực lượng lao động nông thôn. Nhiều làng nghề thu hút
trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề tăng thu nhập cho người lao động, thu
nhập từ ngành nghề ở các làng nghề có khi gấp từ 3- 5 lần so với lao động thuần nông và trở
thành nguồn thu nhập chính;
- Thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lượng lao động, hạn chế di dân tự do:
Khác với sản xuất công nghiệp và một số ngành khác, đa số các làng nghề không đòi hỏi số vốn
đầu tư quá lớn, bởi rất nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ mà những người thợ trong
các làng nghề đều có thể tự sản xuất hoặc chế tạo được. Hơn nữa, đặc điểm của sản xuất trong
các làng nghề là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và cơ cấu lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy
động vốn và các nguồn lực vật chất của các hộc gia đình; cùng với việc tận dụng thời gian và lực
lượng lao động, sự phát triển của làng nghề đã có vai trò tiách cực trong việc hạn chế di dân tự
do ở nông thôn;
- Nâng cao giá trị sử dụng các nguồn tài nguyên: Những điều kiện tự nhiên và nguyên
liệu thô chỉ có giá trị khi được khai thác sử dụng đúng mục đích, khi chúng thành những sản

phẩm hữu ích phục vụ cho con người. Làng nghề có vai trò lịch sử to lớn trong vấn đề này, các
làng nghề đã biến các nguyên liệu thô trở thành những sản phẩm hữu ích phục vụ con người.
Ngày nay, giá trị này không đổi, mà ngượic lại còn đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc
dân nói chung, góp phần làm thay đổi các vùng nông thôn nói riêng;
- Hỗ trợ phát triển dịch vụ du lịch, bảo tồn văn hoá truyền thống: Sản phẩm của nghề thủ
công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh thần, nó được tạo nên bởi
bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ thủ công. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ
thuật cao, mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc của
văn hoá dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi làng nghề. Với
những đặc điểm ấy chúng không chỉ đơn thuần còn là hàng hoá thông thường mà đã trở thành
sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng nghề truyền thống của dân
tộc Việt Nam nói chúng và Hải Phòng nói riêng.
1.3. Các điều kiện phát triển làng nghề
Qúa trình phát triển của làng nghề cần có nhiều điều kiện, những điều kiện này có sự biến
đổi trong từng thời kỳ và tác động theo chiều hướng khác nhau, điều kiện này làm tiền đề cho
điều kiện kia. Chúng có thể là điều kiện thúc đẩy nhưng cũng có thể là những điều kiện kìm hãm
sự phát triển. ở mỗi vùng, mỗi đại phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau về
các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và văn hoá nên những điều kiện nay là không giống nhau.
Tuy nhiên ta có thể tìm hiểu và khái quát những điều kiện cơ bản sau:
- Cơ chế chính sách phát triển làng nghề;
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ;
- Nguồn vốn;
- Nguồn nhân lực;
- Nguồn nguyên liệu;
- Thị trường.
1.4. Kinh nghiệm phát triển của Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ)
- Các cấp, các ngành và chính quyền biết vận dụng linh hoạt các chính sách của Nhà
nước tạo điều kiện cho chủ cơ sở của làng nghề rễ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho vay các nguồn tín dụng như là không phải thế chấp mà chỉ cần tín chấp;
- Gắn phát triển làng nghề cùng với các chương trình hành động khác để hỗ trợ quảng bá

thương hiệu cho làng nghề, cho sản phẩm như các chương trình du lịch làng nghề;
- Biết phát huy lợi thế truyền thống làng nghề của ông cha để lại, người dân cần cù, chịu
khó và rất tài hoa, năng động, sáng tạo, sớm thích nghi với cơ chế thị trường, do vậy các làng
nghề nhanh chóng được khôi phục và phát triển;
- Bước đầu đã lập quy hoạch và giải quyết mặt bằng cho sản xuất cho các làng nghề như
quy hoạch khu, cụm, điểm tách ra khỏi khu dân cư để có điều kiện xử lý ô nhiễm môi trường
đảm bảo cho làng nghề phát triển bền vững;
- Có chính sách khuyến khích thành lập các trung tâm thương mại, giao dịch, giới thiệu
sản phẩm làng nghề để hỗ trợ tìm kiếm thị trường;
- Công tác đào tào nguồn nhân lực cũng được quan tâm nhưng chưa đạt được kết quả cao;
- Có chính sách đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, khuyến khích, tạo điêu kiện cho các
doanh nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học.
1.5. Kinh nghiệm phát triển của Bắc Ninh
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện các giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 04 – NQ - TW của
Tỉnh uỷ Bắc Ninh về phát triển các làng nghề TTCN; trong đó, có giải pháp về quy hoạch tạo
mặt bằng cho sản xuất, thí điểm xây dựng mô hình khu công nghiệp làng nghề đạt tiêu chuẩn
môi trường, kết hợp được cả hai yếu tố làng và nghề ( vừa sản xuất – kinh doanh vừa có dân cư
sinh sống).
Thứ hai: Triển khai cụ thể hoá các quyết định ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư đối với các
cơ sở sản xuất công nghiệp theo Quyết định số 60/2001/QĐ- UB ngày 26/6/2001 và Quyết định
số 104/2002/QĐ - UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh đã ban hành;
Thứ ba: Hướng các hoạt động khuyến công, ưu tiên sử dụng quỹ khuyến công cho các cơ sở
sản xuất trong các làng nghề, nhất là chương trình triển khai nhân cấy nghề mới;
Thứ tư: Các ngành chức năng tập trung nghiên cứu chương trình hỗ trợ cho các làng nghề về
các lĩnh vực quản lý vốn, thị trường, khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực;
Thứ năm: Thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ theo Quyết định số 193/2001/QĐ - ttg của Thử tướng Chính phủ để đáp ứng được nhu cầu
vay vốn của các doanh nghiệp, hộ sản xuất trong các làng nghề đối với thế chấp không đủ điều
kiện theo yêu cầu của các ngân hàng thương mại nhà nước;
Thứ sáu: Tiếp tục thành lập và tạo điều kiện cho hoạt động các hội, hiệp hội nghề nghiệp

theo nhóm sản phẩm, tạo điều kiện liên kết giữa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất với nhau, giữa
người sản xuất, cung ứng nguyên liệu với những người chế biến, tiêu thụ để thống nhất định
hướng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tránh cạnh tranh không lành mạnh gây khủng hoảng thừa,
thiếu, sốt giả;
Thứ bảy: Tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương và các tổ chức nước ngoài, huy động
nguồn vốn đóng góp của các tổ chức kinh tế trong nước hỗ trợ các chương trình, dự án giải quyết
ô nhiễm môi trường trong các làng nghề, bao gồm cả xử lý riêng lẻ trong các doanh nghiệp và
xử lý tập trung ở các khu và cụm công nghiệp.
1.6. Bài học cho phát triển làng nghề ở Hải Phòng
Từ thực tiễn phát triển làng nghề của một số địa phương trong nước có đặc điểm gần
giống với Hải Phòng, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau cho Hải Phòng:
Thứ nhất: Phát triển làng nghề phải gắn với quá trình CNH, HĐH nông thôn, kết hợp thủ
công với kỹ thuật cơ khí hiện đại tuỳ điều kiện cơ sở vật chất của Hải Phòng mà áp dụng công
nghệ cổ truyền hay công nghệ hiện đại. Đồng thời tổ chức các cơ sở sản xuất gần vùng nguyên
liệu và đặt tại làng xã có nghề truyền thống để cho việc phát triển sản xuất, giao lưu hàng hóa;
Thứ hai: Cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng cách đa dạng hoá
các hình thức đào tạo như: Bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng ngắn hạn theo
phương châm thiếu gì huấn luyện nấy và có chiến lược đào tạo lâu dài bằng cách có hệ thống mà
cac cơ sở và các địa phương có nhu cầu;
Thứ ba: Phát triển các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như : thông tin thị trường, vốn, hỗ trợ về
thủ tục hành chính khi các cơ sở tham gia vào sản xuất hàng xuất khẩu;
Thứ tư: Khuyến khích sự kết hợp giữa các khu công nghiệp, công ty, nhà máy liên kết với
các làng nghề;
Thứ năm: Xây dựng thương hiệu của tỉnh, vùng, làng và sản phẩm;
Thứ sáu: Gắn chương trình tour du lịch của Hải Phòng kết hợp quảng bá sản phẩm;
Thứ bảy: Chú trọng công tác quy hoạch các làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng như điện,
nước, và nhất là phải dành quỹ đất để quy hoạch các làng nghề thành cụm làng nghề để kết hợp
sử lý ô nhiễm môi trường ở các làng nghề.

Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề Hải Phòng từ năm 2000 đến nay

2.1.Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển sản xuất làng nghề Hải Phòng
* Các nhân tố tự nhiên, kinh tế – xẫ hội
- Trong lịch sử phát triển của các làng nghề (nhất là các làng nghề truyền thống) chủ yếu
được hình thành và phát triển ở những nơi có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, dân cư
sống tập trung tương đối đông đúc và nhất là thường gắn liền với những vùng nguyên liệu sẵn có
hoặc rế khai thác, giao thông thuận lợi, thường năm bên cạnh các con sông lớn. Vì vậy, nếu xét
trên góc độ lợi thế so sánh thì Hải Phòng có lợi thế hơn các địa phương khác trong nước trong
việc phát triển các làng nghề vì nằm ở vị trí thuận lợi để giao lưu hàng hoá và có tiềm năng về
nguồn nguyên liệu. Với những điều kiện về vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản thì Hải Phòng có
thể hướng vào phát triển các làng nghề về chế biến nông, thuỷ sản, đóng mới và sửa chữa tàu
thuyền, phát triển các làng nghề gắn với du lịch sinh thái, thủ công mỹ nghệ như : gốm, chạm
khắc gỗ, sản xuất muối, nuôi trồng thuỷ sản.
- Với những ưu thế của sự phát triển công nghiệp và dịch vụ có thể tạo thuận lợi cho sự
phát triển làng nghề mới chuyên sản xuất những mặt hàng phụ trợ cho các ngành công nghiệp
đóng tàu; Dệt, may, giầy da, chế biến hải sản…Có điều kiện tiếp cận dần tác phong làm việc
công nghiệp góp phần thúc đẩy đào tạo nghề cho người lao động. Nhưng bên cạnh đó cũng là
một thách thức đối với sự cạnh tranh về vốn, nguồn nhân lực,quỹ đất đối với các làng nghề. Vì
vậy, Chính quyền Thành phố cần phải kết hợp phát triển công nghiện dịch vụ gắn với phát triển
làng nghề cùng phát triển mang tính hỗ trợ nhau.
* Cơ chế chính phát triển làng nghề Hải Phòng
Bên cạnh những chính sách vĩ mô của nhà nước, Chính quyền thành phố Hải Phòng cũng
đã có đề án cụ thể hoá như: Công văn số 1039/CV –UB ngày 12/4/2001 của UBND thành phố
Hải Phòng về việc triển khai Quyết định số 132/200/QĐ -TTg trên địa bàn Thành phố; Kế hoạch
triển khai thực hiện Quyết định số 132/2000/ QĐ - TTg; Quyết định số 74/QĐ - UBND ngày
12/01/2006 của UBND Thành phố về việc Phê duyệt đề cương qui hoạch phát triển ngành nghề
nông thôn HảI Phòng đến năm 2020.
Kết quả của những chính sách trên trong những năm qua, làng nghề ở nhiều nơi được
khôi phục và phát triển khá nhanh như: Nghề tạc tượng gỗ ở Đồng Minh – Vĩnh Bảo, nghề chạm
khắc đá ở An Lão, làng đúc gang ở Thủy Nguyên, Nghề trồng hoa cây cảnh ở An Hải, sản xuất
mây tre ở Hàng Kênh, nghề đan lát dần sàng ở Thủy Nguyên, phố nghề mộc ở Kha Lâm – Kiến

An, Nghề nuôi tôm sú, cua cá, thuỷ sản ở Đồ Sơn, Tiên Lãng, An Hải, Cát Bà, Kiến Thuỵ đang
từng bước ổn định, phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương rõ rệt.
Tuy vậy, chính sách phát triển làng nghề chưa theo kịp đòi hỏi thực tế, đôi khi chạy theo
tính tự phát như: công tác quy hoạch còn nhiều vướng mắc thiếu giải pháp cụ thể về cấp đất, vốn
xây dựng hạ tầng, ưu tiên giảm thuế, đào tạo nguồn nhân lực, thông tin thị trường, xử lý ô nhiễm
môi trường ở các làng nghề.
* Cơ sở vật chất, vốn, lao động phát triển làng nghề
Hệ thống giao thông khá đồng bộ, có đủ các loại hình đường sắt, đường bộ, đường sông
– biển, đường hành không, kho bãi. Đó là điều kiện thuận lợi cho hàng hoá nói chung và phát
triển làng nghề nói riêng lưu thông tiếp cận thị trường trong và ngoài nước tạo sự cạnh tranh
trong xu thế hội nhập.
Vốn: vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó những nguồn chủ yếu sau:
vốn tự có, vốn tín dụng chính thức, nguồn vốn bán tín dụng chính thức, nguồn vốn phi chính
thức.
Trong điều kiện mới hội nhập kinh tế quốc thì sự phát triển của các làng nghề đòi hỏi một
lượng vốn lớn để mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu của
hội nhập. Mặc dù được sự hỗ trợ từ phía nhà nước, song tình trạng thiếu vốn vẫn còn phổ biến,
có tới khoảng 70% số hộ và cơ sở làng nghề có nguyện vọng vay vốn để phát triển sản xuất. Sự
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức và bán chính thức còn khó khăn đối với các hộ và cơ
sở sản xuất.
Nhu cầu về vốn có sự khác nhau khá lớn giữa các nghề. Dựa vào đặc điểm sản xuất kinh
doanh và tình hình tiêu thụ ở các làng nghề, có thể chia nhu cầu về vốn thành hai loại: Thứ nhất
là các làng nghề cần nhiều vốn (vốn lớn) như các làng nghề đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, đồ
mỹ nghệ vì những nghề nay có quy mô lớn, trình độ chuyên môn hoá sản xuất cao, có sử dụng
nhiều máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại, có thị trường tiêu thụ rộng lớn, có giá trị sản
phẩm cao; Thứ hai là các làng nghề cần ít vốn (vốn không lớn) như các làng nghề thêu ren, đan,
dệt chiếu… những làng nghề này thường có đặc điểm là nguyên vật liệu hay dụng cụ sản xuất dễ
tìm, dễ mua hoặc có thể tự tạo ra, lao động thủ công là chính, giá thành sản phẩm thấp.
Lao động: Về chất lượng dân số và lao động, Hải Phòng được đánh giá là khá hơn so với
mức trung bình cả nước, trí lực của dân số cao, tỷ lệ huy động học sinh các cấp đạt 78,2% (chỉ

sau Hà Nội, Đà Năng). Tỷ lệ biết chữ của người lớn 95,4%, chỉ xếp sau Hà Nội, thể lực của dân
số tốt, tuổi thọ trung bình 73,4 tuổi. Hiện tỷ lệ lao động trong công nghiệp – xây dựng là 25,6%;
trong dịch vụ 29,4%; còn lại trong nông – lâm – ngư nghiệp 45%. Cơ cấu lao động như vậy đặt
ra nhiệm vụ cho Hải Phòng những năm tới phải chuyển dịch mạnh mẽ hơn để giảm tỷ trọng lao
động nông – lâm – ngư nghiệp.
Đào tạo nguồn nhân lực: Công tác dạy nghề, trung bình hàng năm có trên 10 nghìn lượt
người tham gia học nghề, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 25%. Tuy vậy, lao động làm việc trong
các làng nghề, qua con số thống kê cho biết lao động có tay nghề cao, số lượng nghệ nhân đang
ít dần, đa phần lao động phổ thông không qua đào tạo chính qui, tay nghề có được là phần lớn do
truyền nghề. Ngay những làng nghề có thế mạnh như chế biến nông sản, thuỷ sản, gỗ gia dụng,
thủ công mỹ nghệ, đúc, cơ khí, dệt thảm, chiếu cói, lao động có tay nghề cao không nhiều. Đó là
một hạn chế lớn ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh trên
thị trường.
2.2. Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề Hải Phòng
Sự phân bố của làng nghề ở Hải Phòng nằm rải rác ở tất cả huyện của Hải Phòng và tập
trung nhiều nhất là huyện An Dương. Lĩnh vực ngành nghề tập ở một số lĩnh vực như chế biến
nông, hải sản, mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, dệt chiếu, đóng mới và sủa chữa tàu thuyền, gốm
sứ. Gần đây xuất hiện một số như chồng cây cảnh, du lịch sinh thái gắn với một số hoạt động của
các làng nghề đã bắt đầu xuất hiện ở một vài địa phương có lợi thế về du lịch. Số lượng làng
nghề ít, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2008, Hải Phòng chỉ có 31 làng nghề; tốc độ phát triển
các làng nghề mới rất thấp hầu như không xuất hiện các làng nghề mới, số các làng nghề đang có
cũng hoạt động cầm chừng như ở một số ngành như dệt chiếu, đan lát, thêu. Nhưng cũng có một
số làng nghề được khôi phục và phát triển như làng nghề truyền thống Minh Khai Minh Tân ở
Thuỷ Nguyên hay làng nghề đúc đồng của làng nghề Mỹ Đồng; Làng nghề đóng tàu thuyền ở
Lập Lễ.
2.2.2. Cơ cấu ngành nghề của làng nghề: Cơ cấu ngành nghề của làng nghề cũng khá
đa dạng và phong phú, được phân theo 7 nhóm nhành nghề cơ bản sau:
- Nhóm làng nghề sản xuất chế biến bảo quản nông, lâm, thuỷ sản:
- Nhóm các làng nghề sản xuất nghề mộc gia dụng;
- Nhóm làng nghề chuyên sản xuất đóng và sửa chữa tàu thuyền;

- Nhóm làng nghề chuyên về sản xuất Kim khí;
- Nhóm các làng nghề sản xuất mây tre đan;
- Nhóm các làng nghề dệt chiếu;
- Nhóm làng nghề chuyên sản xuất thủ công mỹ nghệ như : điêu khắc gỗ, sơn mài, làm gốm
sứ;
Trong 7 nhóm ngành nghề trên thì nhóm làng nghề sản xuất chế biến bảo quản nông, lâm,
thuỷ sản và nhóm làng nghề chuyên sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu thuyền là chiếm đa số
trong tỷ trọng lớn nhất vào ngân sách và cũng sử dụng nhiều lao động; nhóm chiếm tỷ trọng
trung bình là Nhóm làng nghề chuyên về sản xuất Kim khí và mộc gia dụng.
Với sự đa dạng hoá nhóm ngành nghề thì cũng ảnh hưởng đến công tác quy hoạch và đầu tư,
vì vậy cần có sự định hướng ưu tiên trong từng nhóm làng nghề phải dựa vào hiệu quả kinh tế -
xã hội.
2.2.3. Phương thức tổ chức hoạt động sản xuất của làng nghề
Thứ nhất, mô hình tự sản, tự tiêu: là mô hình sản xuất truyền thống, đã xuất hiện, tồn
tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của làng nghề truyền thống. Qua kết quả hoạch
toán của một số hộ kiêm nghề ở một số làng nghề trên cho ta thấy mô hình tổ chức hộ gia đình
vẫn đóng vai trò kinh tế đầu tàu ở các hộ trong các làng nghề và vẫn có xu thế tồn tại trong thời
gian tới. Hình thức hộ gia đình phổ biến trong các lĩnh vực, thủ công, chế biến nông sản, thực
phẩm. Uư thế của mô hình này là tận dụng được lao động nhà rỗi, không đòi hỏi vốn lớn, lấy nhà
làm mặt bằng sản xuất, nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế
sâu rộng như khả năng tiếp cận thị trường, kỹ thuật công nghệ, thương biệu. Vì vậy, rất cần được
sự trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức, hiệp hội để các hộ thích nghi với thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thứ hai, mô hình chuyên môn hoá:theo mô hình này thì quá trình sản xuất kinh doanh
ở làng nghề truyền thống được chuyên môn hoá theo ba giai đoạn: Cung ứng nguyên vật liệu –
Sản xuất sản phẩm – Tiêu thụ sản phẩm. Các hình thức tổ chức của mô hình này chủ yếu là các
doanh nghiệp tư nhân; Công ty TNHH; Công ty cổ phần; HTX. Với mô hình này, sự chuyên môn
hoá đã tạo ra hiệu xuất kinh doanh cao hơn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, mở rộng sản xuất và
là cơ sở quan trọng để phát triển làng nghề trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, mà ở đây
cần có sự chuyên môn hoá và phần công lao động ngày càng cao bằng việc xây dựng và phát

triển các vùng khai thác, cung ứng nguyên vật liệu tập trung, và các vùng sản xuất tập trung. Tuy
nhiên, hiệu quả kinh doanh có thể bị ảnh hưởng khi một khâu nào đó của quá trình bị ách tắc,
hoặc một mối liên hệ nào đó không được đảm bảo.
Thứ ba, mô hình cụm sản xuất công nghiệp làng nghề tập trung: Về thực chất bản
thân làng nghề cũng có thể coi là khu sản xuất tập trung. Tuy nhiên sự tập trung này chỉ mang
tính chất tự phát, và có nhiều vấn đề bất cập như: hạn chế khả năng mở rộng sản xuất, khó khăn
trong việc tiếp cận công nghệ mới, đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường rất nặng. Đến nay sự phát
triển của làng nghề đã đạt ở một trình độ cao hơn, đòi hỏi một mô hình tổ chức sản xuất phù hợp
với điều kiện mới.
2.2.4. Đóng góp cho ngân sách:
Bảng 2.6: So sánh giá trị kinh tế của làng nghề trong kinh tế nông thôn Hải Phòng.
Đơn vị tính: 1000 đồng
Năm
Tổng GTSX
ở nông thôn
Riêng Ngành nghề của làng nghề
So sánh với tổng
GTSX(%)
CN- XD
DV
Cộng
2000
3.160.706
728.000
633.000
1.361.000
43,06
2001
3.348.938
787.000

679.000
1.466.500
43,79
2002
3.631.615
869.000
730.000
1.599.000
44,03
2003
4.007.156
990.000
802.000
1.792.000
44,72
2004
4.459.370
1.130.000
895.000
2.025.000
45,41
2005
4.925.049
1.282.000
985.000
2.267.000
46,03
2006
5.422.000
1.356.000

1.155.000
2.511.000
46,32
2007
5.980.025
1.580.000
1.260.000
2.840.000
47,49
6/2008
6.250.000
1.690.000
1.350.000
3.040.000
48,64
Nguồn: Tổng hợp số liệu thống kê các huyện năm 2007, giá cố định 1994
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy giá trị sản phẩm hàng hoá trong các làng nghề đạt được là
rất đáng kể và tốc độ của nó tăng đều qua các năm. Tỷ trọng gía trị sản xuất hàng hoá trong các
làng nghề cao hơn nhiều so với các làng thuần nông. Như vậy, rõ ràng là nơi nào có nhiều làng
nghề thì kinh tế hàng hoá ở đó phát triển hơn.
2.2.5. Thu hút lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
Vai trò của các làng nghề không thể phủ nhận khi thu hút tới 39,1% lao động toàn khu vực và
có chiều hướng tăng dần. Lao động tham gia vào các ngành nghề của làng nghề năm 2005 là
223.000 người, chiếm tới 53,6% trong tổng lao động; năm 2006 là 245.000 người, chiếm tới
53,35%; năm 2007 là 295.000 người, chiếm tới 53,93%.
2.2.6. Đào tạo nghề cho lao động
Tính đến 29/09/2008 hiện trên địa bàn thành phố Hải phòng có 51 cơ sở dạy nghề, bao
gồm 35 cơ sở do địa phương trực tiếp quản lý và 16 cơ sở dạy nghề trung ương. Chín tháng đầu
năm 2008, khối cơ sở dạy nghề địa phương đã tuyển mới 25.145 học sinh, đạt 95% kế hoạch
năm, trong đó tuyển mới hệ cao đẳng nghề 2955 học sinh, trung cấp nghề 4.630 học sinh và sơ

cấp nghề là 17.560 học sinh. So với 2005 có 41 cơ sở dạy nghề trong đó có 15 cơ sở do Trung
ương quản lý, như vậy trong ba năm số lượng cơ sở dạy nghề tăng 10%, chưa đáp ứng nhù cầu
đòi hỏi của thực tế. Lao động ở các làng nghề phần lớn được đào tạo qua các hình thức tự phát. ở
làng nghề phương pháp dạy nghề chủ yếu, từ đời nay sang đời khác, vì vậy các nghề truyền
thống luôn được bảo tồn trong từng gia đình với những bí quyết nghề nghiệp riêng. Theo phương
thức này, người thợ vừa học vừa làm, được các nghệ nhân hoặc những người thợ có kỹ thuật cao
kèm cặp, học cho đến khi thành nghề, có thể tự mình làm ra sản phẩm. Thời gian học mỗi nghề
là khác nhau, trung bình có thể là sáu tháng đến ba năm còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng
nghề. Những nghề đơn giản thuê ren, đan lát thì thời gian học cần từ ba đến sáu tháng. Những
nghề phức tạp vừa đòi hỏi kỹ thuật vừa đòi hỏi kỹ năng tinh xảo như các nghề chạm khắc gỗ,
điêu khắc đá mỹ nghệ… thì thời gian học phải từ 3- 5 năm. Ưu điểm của phương thức truyền
nghề này là giữ gìn được nghề trong các làng nghề, đào tạo được những thợ giỏi, tài hoa. Tuy
nhiên, mặt hạn chế của nó là kỹ thuật và bí quyết nghề không được phổ biến rộng rãi, không đào
tạo được một đội ngũ thợ lành nghề đông đảo nên khi cần phát triển nghề trên phạm vi rộng lại
gặp khó khăn, về sản xuất kinh doanh và hiểu biết về thị trường, pháp luật…
Đứng trước một đòi hỏi thực tế trên, Hải Phòng cần có một chính sách đào tạo nghề phù
hợp thích nghi trong điều kiện mới của làng nghề. Cùng với việc dạy nghề truyền thống như trên
thì phương thức dạy nghề và truyền nghề cần đa dạng hơn như : người lao động có thể tự học
nghề hay đến các hộ gia đình học nghề; mở các lớp dạy nghề do hợp tác xã, xã hay huyện mở
hay kết hợp với các trường nghề. Nhất là phải đặt công tác dào tạo nghề ở các làng nghề gắn với
chương trình phảt triển nguồn nhân lực chung của Hải Phòng.
2.2.7.Thị trường và cạnh tranh
- Thị trường các yếu tố đầu vào: thị trường cung ứng nguyên vật liệu, thị trường lao
động, thị trường công nghệ có sự phát triển khá rõ so với thời kỳ trước song còn mang tính tự
phát, sơ khai. Thị trường vốn đã phần nào đap ứng được yêu cầu sản xuất song còn hạn chế.
Nhìn chung thị trường đầu vào nguyên vật liệu gặp không ít khó khăn, vì nguyên liệu cho phát
triển làng nghề ngày càng cạn dần. Trong một thời gian dài nguyên vật liệu cho sản xuất ở làng
nghề chủ yếu là phế liệu, phế phẩm của công nghiệp, nguyên liệu truyền thống ngày càng cạn
kiệt, thêm vào đó là việc khai thác bừa bãi và chưa có sự quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Sản phẩm ở các làng nghề của Hải Phòng tiêu thụ chủ

yếu ở thị trường nội vùng, trong nước là chính. Với trên 17 triệu dân, vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ và Đồng bằng Sông Hồng là thị trường lớn nội địa của Hải Phòng.
Thị trường sản phẩm thuỷ sản: chủ yếu được tiêu thu ở các nước Nhật Bản, Châu âu, đặc
biệt là các nước Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Mỹ. Đối thủ cạnh trạnh lớn nhất là Thái Lan, Ấn Độ,
Trung Quốc;
Thị trường hàng nông sản: Các thị trường truyền thống nhất là Trung Quốc, các nước Tây
Âu Bắc Mỹ, các nước công nghiệp mới Châu âu. Để xâm nhập được thị trường cần nâng cao
chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng, sử
dụng công nghệ mới trong chế biến, bảo quản;
Thị trường hàng thủ công, mỹ nghệ: là thị trường cạnh tranh rất gay gắt. Với trình độ hiện
nay rất nhiều sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ khó cạnh tranh trên thị truờng quốc tế. Để
thâm nhập theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế xây dựng phương hướng phát triển kỹ năng quản
lý sản xuất và thị trường;
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện nay trong các làng nghề ở Hải Phòng chủ yếu là tại
chỗ, nhỏ lẻ và phân tán. Thị trường có tổ chức trong việc tiêu thụ sản phẩm ở làng nghề ngày
càng giảm thì vai trò của các chủ bao mua lại tăng lên đáng kể. Các chủ bao mua đứng ra làm
nhiệm vụ cung cấp vốn, kỹ thuật và nguyên liệu, nên đã khống chế các cơ sở sản xuất, các hộ gia
đình trong làng nghề về giá, về mặt hàng, về mẫu mã…Phương thức thanh toán chủ yếu được áp
dụng là (bán chịu và thanh toán một phần) tạo nên rủi ro rất lớn đối với các cơ sở sản xuất dẫn
đến không thu hồi được nợ, hoặc thu hồi rất chậm. So với thời hạn cam kết và phụ thuộc vào khả
năng tài chính của khách hàng. Hơn nữa vốn sản xuất bị khách hàng chiếm dụng, trong khi đó
các doanh nghiệp và hộ gia đình rất cần tiền vốn cho chu kỳ sản xuất tiếp theo.
2.2.8. Tình trạng ô nhiễm môi trường trong các làng nghề
Sự phát triển của các làng nghề được thúc đẩy không chỉ bởi nhu cầu tăng trưởng kinh tế,
bởi các quy luật của thị trường, mà còn mục đích theo đuổi lợi nhuận. Chính vì vậy trong sự phát
triển đó chứa đựng mâu thuẫn rất khó giải quyết. Đó là mâu thuẫn giữa phát triển sản xuất với
việc gia tăng ô nhiễm môi trường, sản xuất càng phát triển thì ô nhiễm môi trường càng gia tăng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Đó là - sản
xuất phát triển tự phát thiếu sự quy hoạch tổng thể; Công nghệ lạc hậu; Vốn ít; Mặt bằng sản
xuất chật hẹp; Cơ sở hạ tầng thấp kém; Trình độ và ý thức của người dân còn thấp.

2.3. Tồn tại và nguyên nhân
* Tồn tại:
Các làng nghề phát triển không đồng đều, nhìn chung còn mang tính tự phát mà chưa có
định hướng phát triển, qui hoạch tổng thể cả thành phố cũng như chi tiết các huyện, xã.
Các làng nghề còn rất phân tán và phát triển không đồng đều giữa các huyện. Những làng
nghề phát triển khá như chế biến nông, thuỷ sản, nghề kim khí, đúc, đồ gỗ gia dụng các dịch vụ
vận tải, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền. Còn lại một số nghề truyền thống đang gặp khó khăn
như mây tre đan, nghề thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, thêu ren, dệt thảm, tạc tượng;
Các cơ sở sản xuất của các làng nghề nhìn chung có quy mô nhỏ, trừ một số ngành nghề
(như đúc, cơ khí lắp ráp, như ngành phụ trợ cho công nghiệp, vận tải biển, chế biến thuỷ hải sản,
gỗ) đã hình thành các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoặc các HTX còn lại các làng nghề như
thủ công mỹ nghệ, dệt thảm len, chiếu cói, mây tre đan, làm bún, bánh…chủ yếu là hộ nhỏ lẻ;
Một số làng nghề có nguồn nguyên liệu khá dồi dào tại địa phương như chế biến lương
thực, thực phẩm, thuỷ hải sản nhưng tổ chức sản xuất còn bị phân tán, thiếu qui hoạch nên lượng
nguyên liệu cung cấp không ổn định, chất lượng, giá thành đầu vào cho chế biến bất cập. Một số
ngành nghề lại phụ thuộc vào các nguyên liệu nhập từ bên ngoài như đúc kim loại, chế biến gỗ,
tre, mây, nguyên liệu dệt, thêu ren;
Đa số các làng nghề hoạt động thủ công với kỹ thuật và công nghệ cũ, nguyên nhân chính
là khả năng đầu tư đổi mới công nghệ hạn chế do ít vốn, hơn nữa một số làng nghề vẫn hoạt
động như nghề phụ kiêm làm nông nghiệp, người lao động phần lớn là nông dân (như chế biến
nông sản, mây tre đan, dệt, thủ công mỹ nghệ. Tuy vậy đã có một số làng nghề tiếp cận được với
công nghệ kỹ thuật mới như đúc, cơ khí, mộc gia dụng, gốm nên năng suất và chất lượng sản
phẩm đã có nhiều tiến bộ;
Nhìn chung trình độ tay nghề của lao động ở mức trung bình và thấp vì chủ yếu tự đào
tạo thông qua lao động trực tiếp hoặc truyền nghề trong gia đình, rất ít công nhân được đào tạo,
qua trường công nhân kỹ thuật;
Địa bàn sản xuất phần lớn các cơ sở lấy nơi cư trú làm nơi sản xuất, một số địa phương
bước đầu đi vào qui hoạch cụm cơ sở làng nghề, nhưng còn rất ít (như Thuỷ Nguyên, Kiên An,
Vĩnh Bảo) những làng nghề có thể lập quy hoạch tập trung như kim khí, mộc gia dụng, dệt may,
sản xuất vật liệu xây dựng. Còn lại những làng nghề hoạt động chủ yếu ở địa bàn nơi cư trú như

thủ công mỹ nghệ, chế biến nông – thuỷ sản thủ công;
Sản phẩm ở trong các làng nghề chủ yếu tiêu thụ nội địa. Một số sản phẩm có năng lực
cạnh tranh khá như sản phẩm đúc cơ khí, cau sấy, bánh đa, bún, nước mắm Cát Hải nhưng sản
lượng xuất khẩu chưa nhiều, còn lại những làng nghề đang gặp khó khăn như mây tre đan, sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, muối
Tình trạng môi trường ô nhiễm ở một số làng nghề bắt đầu tăng đến mức cần quan tâm
xử lý (như chế biến nông sản, dệt, mộc, mỹ nghệ, đúc, cơ khí, nuôi cá lồng bè)
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển làng nghề còn những khó khăn
như: đất đai cho qui hoạch các cụm cơ sở làng nghề, vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng làng
nghề tập trung, nâng cấp công nghệ kỹ thuật, công tác đào tạo lao động có tay nghề, xúc tiến
thương mại mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu, quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu
chuẩn còn nhiều mặt hạn chế, rất cần sự quan tâm của các cấp chính quyền, cơ quan chức năng,
các ban ngành có sự chỉ đạo, phối kết hợp để ngành nghề nông thôn có điều kiện, cơ hội tốt hơn
cho phát triển, thực hiện tốt vị trí vai trò trong đời sống kinh tế – xã hội.
* .Nguyên nhân:
Từ những tồn tại thực tế trên ta thấy rằng sự phát triển làng nghề ở Hải Phòng đã đạt
được kết quả có ý nghĩa quan trọng, nhưng so với tiềm năng sẵn có của Hải Phòng thì phát triển
làng nghề ở đây chưa tương xướng với tiềm năng săn xó là do vẫn còn tồn tại những nguyên
nhân cơ bản cần được giải quyết đó là:
Thứ nhất: Giữa năng lực sản xuất còn bị hạn chế với sự phát triển tăng lên của thị trường.
Trong điều kiện mới, nhu cầu của thị trường không ngừng biến đổi, không ngừng tăng lên, còn
sản xuất của làng nghề đã không vượt qua được giới hạn của chính bản thân của các làng nghề
nên đã không đáp ứng được kịp thời và đầy đủ nhu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn nữa cạnh
tranh của các sản phẩm làng nghề còn đơn điệu yếu thế so với các sản phẩm tiêu dùng công
nghiệp;
Thứ hai: Giữa nhu cầu và khả năng phát triển sản xuất với sự hạn chế của các nguồn lực
cung ứng cho nó. Thực tế đã cho thấy, sự phát triển sản xuất mạnh hay yếu, một mặt phụ thuộc
vào điều kiện nhu cầu, song mặt khác lại phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện cung ứng. Đối với
làng nghề Hải Phòng các điều kiện cung ứng căn bản nhất để duy trì và phát triển sản xuất là :
vốn, lao động và nguyên vật liệu, cơ chế chính sách;

Thứ ba: Nguyên nhân tồn tại nữa là nhu cầu phát triển sản xuất với sự hạn chế trình độ kỹ
thuật công nghệ. Như phân tích ở trên đã cho thấy kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong làng
nghề còn hết sức thô sơ và lạc hậu. Việc áp dụng kỹ thuật và đổi mới công nghệ diễn ra còn
chậm., chưa có sự hỗ trợ từ phía nhà nước và hạn chế về vốn, cơ sở hạ tầng không đáp ứng được
nhu cầu hiện tại.
Thứ bốn: Sự vận động của cơ chế thị trường đòi hỏi khả năng thích ứng rất nhanh nhạy
của người sản xuất, đòi hỏi họ không chỉ có những kiến thức về chuyên môn mà còn phải nắm
bắt được những kiến thức về thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh. Thì ở đây những chủ cơ
sở hiện nay đều bị hạn chế về mặt này, hầu hết đều chưa qua trường lớp đào tạo, bồi dưỡng về tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh cũng như các lớp bồi dưỡng về thị trường.
Trên đây là bốn nguyên nhân chủ yếu đang tồn tại trong các làng nghề ở Hải Phòng hiện
nay. Đòi hỏi phải có những định hướng và giải pháp cụ thể và thích hợp để từng bước củng cố
thúc đẩy sản xuất ở các làng nghề hiện có phát triển nhanh chóng, ổn định, đáp ứng bối cảnh mới
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển làng nghề ở Hải Phòng trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đối với phát triển làng nghề Hải
Phòng.
Những quốc gia than gia hay không tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay đều
đứng trước những cơ hội và thách thức rất lớn, kể cả các nước phát triển cũng như đang phát
triển.
Thứ nhất là về thị trường: Cùng với quá trình hội nhập quốc tế phát triển, hàng rào bảo hộ
mậu dịch ngày càng giảm, quan hệ buôn bán giữa các quốc gia ngày càng mở rộng, do vậy mà
thị trường thế giới cũng ngày càng được mở rộng. Các Hiệp nghị thương mại song phương, đa
phương sẽ cho phép thị trường của một nước được khai thông với tất cả các nước đối tác. Chẳng
hạn nếu Việt Nam thực hiện đúng các cam kết của AFTA thị trường của các hàng công nghiệp
chế biến Việt Nam sẽ được khai thông tới tất cả các nước ASEAN; Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của WTO, thì sau khoảng năm năm, thị trường của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam

sẽ được khai thông với 149 nước thành viên WTO. Đây là một cơ hội rất lớn đối với Việt Nam vì
đã có một thị trường lớn.
Thứ hai là, các dòng vốn và công nghệ: Việt Nam, từ sau khi mở cửa chuyển dịch sang
kinh tế thị trường, do vậy các dòng vốn và công nghệ này đã ngày càng chảy vào nhiều hơn vì có
sức lao động tiền lương thấp, có tài nguyên thiên nhiên phong phú …nên có thể sử dụng những
nguồn vốn và công nghệ hiệu quả hơn. Nhưng đây cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam
nói chung, Hải Phòng nói riêng nếu như không tạo ra được một môi trường đầu tư có khả năng
sinh lợi hấp dẫn và bền vững, thì các dòng vốn và công nghệ không vào, hoặc có vào thì chỉ sau
một thời gian khi gặp chấn động chúng sẽ rút chạy như ở một số nước châu á khi xẩy ra khung
khoảng kinh tế năm 1997.
Thứ ba là về lao động: Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam nói chung, Hải
Phòng nói riêng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, phải tính tới việc sử dụng, đào tạo nguồn
nhân lực cho mình không chỉ địa phương, trong nước và cho cả ở nước ngoài. Nếu không tận
dụng được cơ hội này, chỉ đóng cửa tự đào tạo, tự sử dụng nguồn nhân lực trong nước thì cuối
cùng địa phương đó sẽ bị tụt hậu về giáo dục, về nhân lực, và khó có thể phát triển.
Thứ tư về văn hoá: Văn hoá ngày càng trở thành nguồn lực của sự phát triển, nhất là các
sản phẩm của các làng nghề truyền thống thường chứa đựng những yếu tố văn hoá, bản sắc riêng
của địa phương đó và đôi khi thương hiệu của sản phẩm thường gắn với tên làng, xã của nơi sản
phẩm đó được sản xuất ra. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, tất cả các nền văn hoá sẽ được phổ biến
rộng rãi toàn cầu, do vậy sẽ chỉ có những yếu tố văn hoá nào tiến bộ, có sứ thuyết phục và quyến
rũ mới có sức mạnh phát triển.
Mặc dù gia nhập WTO, hoà mình vào kinh tế thế gới đặt ra cho Hải Phòng nói riêng và
cả nước nói chung, nhất là những sản phẩm của các làng nghề những khó khăn về cạnh tranh
quốc tế về thị trường tiêu thụ những sản phẩm của những nước có gần văn hoá giống mình, và
những sản phẩm thay thế khác; cạnh tranh về nguồn nhiên liệu; cạnh tranh về vốn, kỹ thuật công
nghệ, nguồn nhân lực. Vấn đề đặt ra là Hải Phòng cần có những định hướng đúng và có những
giải pháp để giúp cho làng nghề Hải Phòng hội nhập và phát triển bền vững.
3.2. Định hướng phát triển làng nghề Hải Phòng trong bối cảnh mới của đất nước
Thứ nhất: Phát triển làng nghề hướng vào sản xuất các nhóm sản phẩm phụ trợ cho ngành
công nghiệp mũi nhọn của Hải Phòng;

Thứ hai: Phát triển làng nghề phải gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy
mạnh xuất khẩu;
Thứ ba: Phát triển làng nghề phải được thực hiện bởi nhà nước và nhân dân cùng làm;
Thứ tư: Phát triển làng nghề hướng vào sản xuất chuyên môn hoá một công đoạn của sản
phẩm tận dụng lợi thế so sánh của Hải Phòng.
3.3. Một số giải pháp phát triển làng nghề
* Nhóm giải pháp chủ yếu: Cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Giải pháp về công tác quy hoạch và kế hoạch: Cần có sự rà soát lại toàn bộ các làng
nghề về năng lực sản xuất, năng lực của mỗi làng nghề. Trên cơ sở đó xác định chính xác số
lượng, chất lượng, quy mô của từng làng nghề làm căn cứ cho lập các quy hoạch chi tiết các
huyện, xã, lập kế hoạch 5 năm và từng năm, lập các dự án phát triển các cụm cơ sở làng nghề
từng huyện.
- Giải pháp về vốn đầu tư: Tranh thủ các nguồn vốn vay ưu đãi từ các chương trình giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất, bảo tồn làng nghề. Đồng thời
cũng phải tranh thủ các nguồn vốn trong dân như cộng đồng dân cư, hiệp hội, dòng tộc, Hợp tác
xã tín dụng. Mặt khác nuồn vốn ngân sách chỉ đàu tư hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các cụm làng
nghề, đào tạo nguồn nhân lực.
- Giải pháp về tài chính, tín dụng: ưu đãi vè tín dụng đầu từ đối với các cơ sở làng nghề
có dự án đầu tư có hiệu quả bằng hình thức hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng, ưu đãi về thuế.
- Giải pháp về thị trường và xúc tiến thương mại: Tạo điều kiện để các cơ sở làng nghề
được tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm, hỗ trợ xuất khẩu, cung cấp thông tin thị trường sản
phẩm.
- Giải pháp về khao học và công nghệ: Khuyến khích các làng nghề đàu tư chiều sâu, đổi
mới công nghệ, thiết bị, kết hợp giữa công nghệ tiên tiến với công nghệ truyền thống bằng hình
thức ưu về thuế và tín dụng.
- Phát triển nguồn nhân lực: Đa dạng hoá các hình thức đạy nghề, truyền nghề bằng chính
sách miễn giảm học phí đối với học viên học nghề về làm việc trực tiếp ở các làng nghề. Đối với
con em thuộc diện chính sách học nghề truyền thống được cấp học bổng, được hỗ trợ vốn về mở
cơ sở sản xuất tại địa phương minh sinh sống.
* Nhóm giải pháp khác: Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế ở đại phương ưu tiên chọn các giải

pháp sau:
- Chính sách ưu đãi tôn vinh nghệ nhân: Tổ chức các cuộc thi tay nghề, bình xét công
nhận các nghệ nhân, ưu tiên các nghệ nhân được mở cơ sở dạy nghề bằng hình thức miễn thuế
thu nhập cá nhân;
- Giải pháp về xử lý ô nhiễm môi trường: Gỉai pháp ô nhiễm trường cũng cần được quan
tâm hơn cả về đầu tư cơ sở hạ tầng, cán bộ quản lý, hỗ trợ cở sở làng nghề;
- Xây dựng chiến lược thương hiệu: Lập kế hoạch xây dựng thương hiệu một cách tỉ mỉ
và chu đáo về khâu thiết kế thương hiệu, bảo vệ thương hiệu, gắn kết thương hiệu với sản phẩm.
- Gắn kết phát triển làng nghề với phát triển du lịch: Đưa các cơ sở làng nghề vào các
điểm tham quan trong các tua du lịch.
Kết luận chung: Trên cơ sở xác định mục đính và nội dung nghiên cứu của đề tài, luận văn đã
cơ bản hoàn thành những vấn đề sau:
Làm rõ được vai trò của làng nghề đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, đối với Hải
Phòng nói riêng, đặc biệt là góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động nông thôn, góp phần đa dạng hoá kinh tế nông thôn, xây dựng nông
thôn mới, đồng thời bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần đa dạng hoá những sản phẩm
thúc đẩy xuất khẩu tăng giá trị đóng góp cho kinh tế.
Phân tích những điều kiện cơ bản thúc đẩy các làng nghề phát triển. Đặc biệt các điều
kiện về vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ là những điều kiện tác động đến sự hình thành và phát
triển của các làng nghề nói chung và ở Hải Phòng nói riêng. Nắm vững những điều kiện cơ bản
này làm cơ sở xây dựng chính sách và giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế của Hải Phòng.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển làng nghề của một số địa phương trong nước
có nét tương đồng với Hải Phòng cho thấy: Phải có sự hỗ trợ từ phía chính quyền thành phố bằng
việc cụ thể hoá và có những chính sách đồng bộ đối với làng nghề: coi trọng chính sách đào tạo
và bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề; phát huy vai trò của các tổ chức, hiệp hội làng nghề
trong việc hỗ trợ các vấn đề vốn, tiêu thụ sản phẩm, quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Qua phân tích những nhân tố tác động và đánh giá thực trạng làng nghề trong thời gian từ
năm 2000 đến nay đã làm rõ được vai trò của làng nghề đối với đời sống kinh tế xã hội của Hải
Phòng như đóng góp cho ngân sách; giải quyết việc làm, tạo thu nhập, tận dụng được vốn nhàn
rỗi trong dân chúng góp phần phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Tuy nhiên vẫn tồn tại những

bất cập như : cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ tay nghề của người lao động kém, trình độ quản lý
của các chủ cơ sở yếu về kỹ năng quản lý và tiếp cận thị trường, phần lớn không được đào tạo
bài bản, khó tiếp cận các nguồn vốn…Nguyên nhân chủ yếu là vẫn còn mâu thuẫn nội tại trong
các làng nghề và còn có những nguyên nhân khách quan, chủ quan.
Dưới tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế làng nghề ở Hải Phòng cũng có
nhiều thay đổi với sự xuất hiện nhiều yếu tố mới, nhưng vẫn đang duy trì vận động và thích nghi
trong điều kiện mới cần được quan tâm phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Được thực
hiện trên cơ sở định hướng phát triển trong bối cảnh mới dựa trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của
Hải Phòng như:
Từ những định hướng đó đề ra những giải pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy phát triển làng
nghề thực sự có hiệu quả, trong đó cần nhấn mạnh giải pháp tăng cường sự hỗ trợ của chính
quyền về vốn, kỹ thuật và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ
tầng. Đồng thời không được coi nhẹ những giải pháp ổn đinh và mở rộng thị trường, đặc biệt là
thị trường xuất khẩu và thị trường du lịch là những thị trường tiềm năng và đang có lợi thế so
sánh. Dần hoạch định chiến lược từng bước xây dựng thương hiệu của các địa phương gắn với
các sản phẩm của các làng nghề nhằm phát huy và nâng cao vị thế của làng nghề lên một tầm cao
mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.



References
1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam,
GS.TS. Tô Xuân Dân - TS. Nguyễn Thành Công - NXB Chính trị Quốc gia, 2006.
2. Một số chính sách về phát triển làng nghề nông thôn - Viện Chính sách và chiến lược phát
triển nông nghiệp nông thôn - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp,
2007.
3. Bộ Nông nghiệp và PTNN - năm 2005 - Phát triển ngành nghề nông thôn trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đến 2010.
4.Bộ Nông nghiệp và PTNT - năm 2005 - Phát triển ngành nghề nông thôn trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đến 2010.

5. Cục Thống kê Hải Phòng - NXB Thống kê 2006 - Niên giám thống kê Thành phố Hải Phòng
năm 2005.
6. Niên giám thống kê các huyện An Lão, Tiên Lãng, Cát Hải, Kiến Thuỵ, Thuỷ nguyên các năm
2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006.
7. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Hà Tây (năm 2003) - Quy hoạch và phát triển ngành nghề nông
thôn đến năm 2010.
8. Sở Nông nghiệp và PTNT Hải Phòng (năm 2006) - Rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch
nông nghiệp - nông thôn Hải Phòng đến năm 2010.
9. Sở Nông nghiệp và PTNT Hải Phòng (năm 2006) - Báo cáo khoa học: Đánh giá thực trạng về
đề xuất một số giải pháp ngành nghề nông rhôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn Hải Phòng đến năm 2010.
10.Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 13.
11. UBND Thành phố Hải Phòng (năm 2004)- Rà soát điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
12. Các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 các huyện, vùng dự án
(Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thuỵ, An Lão, An Dương, Thủy Nguyên, Cát Hải , Đồ Sơn).
13.Nghị định số 66/2006/NĐ -CP, ngày 07/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính
sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.
14. Thông tư số 116/2006/TT-BNV ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số nội dụng của
Nghị định số 66/2006/NĐ -CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn.
15. Thông tư số 113/2006/TT-BTC, ngày 28/12/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội
dung về ngân sách Nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số
66/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ.
16. TS. Nguyễn Xuân Chính (năm 2007) "Làng nghề Hà Tây thực trạng và giải pháp phát triển
bền vững", Tạp chí Công nghiệp, tháng 6/2007.
17."Phát triển làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh",, Tạp chí Quản lý Nhà nước, tháng 8/2004.
18. Mai Thế Hởn (2000), "Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở vùng ven đô Hà Nội", Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.

19. Trần Thị Hoa Lý (2007), "Phát triển làng nghề ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế", Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Trần Minh Yến (2003), "Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá
trình công nghiệp, hiện hoá", Viện Kinh tế học Hà Nội.
21. Việt Hùng (2007), " Phát triển du lịch làng nghề cần giải pháp đồng bộ", Tạp chí Công
nghiệp, tháng 6/2007.
22. Uỷ ban Quốc gia về Hội nhập kinh tế quốc tế (2007), Việt Nam - WTO Những cam kết liên
quan tới nông dân, nông nghiệp và doanh nghiệp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Sở Nông nghiệp và PTNT Hải Dương (năm 2006)- Rà Soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch
nông nghiệp - nông thôn Hải Phòng đến năm 2010.
24. Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Ninh (năm 2006) - Rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch
nông nghiệp - nông thôn Hải Phòng đến năm 2010.
25. Sở Công nghiệp Bắc Ninh, Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp các năm 2003, 2004,
2005, Bắc Ninh.
26. Cục Thống kê Hải Dương, NXB Thống kê năm 2006 - Niên giám thống kê Thành phố Hải
Dương năm 2005.
27. Cục Thống kê Hà Tây - NXB Thống kê năm 2006- Niêm giám thống kê Thành phố Hà Đông
năm 2005.

×