Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



CHU THỊ DIỆP




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học














Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





CHU THỊ DIỆP




TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03 01





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Chương





Hà Nội - 2012

3

MỤC LỤC

Nội dung
Trang
MỞ ĐẦU
4
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
11
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
11
1.1.1. Tinh hoa văn hoá truyền thống của dân tộc
11
1.1.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
14
1.1.3.Cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
21
1.1.4. Nhân cách và phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
23
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
25

1.2.1. Quan niệm về con người
25
1.2.2. Con người là vốn quý nhất, yếu tố quyết định thành công
của cách mạng
31
1.2.3. Con người là mục tiêu và động lực của cách mạng và công
cuộc xây dựng xã hội mới
38
Chương 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CON NGƯỜI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
59
2.1. Vị trí, vai trò của việc củng cố xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt
Nam hiện nay
59
2.1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đại đoàn kết
dân tộc
59
2.1.2 Một số vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc hiện nay
62
2.2. Một số giải pháp củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam hiện nay
70

4

2.2.1. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho
nhân dân gắn liền với việc đảm bảo công bằng xã hội
70

2.2.2. Bảo đảm và thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ
của nhân dân
77
2.2.3. Đẩy mạnh việc giáo dục các giá trị tinh thần truyền thống
cho thế hệ trẻ
87
2.2.4. Thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước
92
2.2.5. Đẩy mạnh công tác giáo dục, đề cao cảnh giác với những
âm mưu lợi dụng, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình
đẩy mạnh công cuộc đổi mới
96
KẾT LUẬN
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102


5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

CNH : Công nghiệp hóa
HĐH : Hiện đại hóa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
Nxb : Nhà xuất bản
BCHTƯ : Ban chấp hành Trung ương


















6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tư tưởng
Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt
Nam.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ hơn nữa tính khoa học sâu sắc, những giá trị
to lớn, nhiều mặt của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam trước
đây cũng như trong giai đoạn hiện nay là đòi hỏi cấp thiết và có ý nghĩa thời đại
to lớn.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ý nguyện của Người từ khi ra đi tìm
đường cứu nước đến lời di chúc cuối cùng, Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề trồng
người, các công việc của con người là mối quan tâm thường trực, là trách nhiệm
hàng đầu trong cuộc đời của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về phát
huy sức mạnh con người, về xây dựng con người… đã góp phần to lớn vào việc

đào tạo cho dân tộc Việt Nam những con người ưu tú, và những lớp người đó đã
đưa dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi
to lớn đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt chú
trọng đến vấn đề phát huy nội lực. Nếu không xuất phát từ nội lực thì không thể
phát triển bền vững. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nội lực có vai trò
quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử
dụng có hiệu quả ngoại lực” [20, tr.179]. Một trong những yếu tố tạo thành sức
mạnh nội lực của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước là
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Nhờ có sức mạnh của khối đại đoàn kết
mà nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy
được nội lực của toàn dân tộc. Sức mạnh đó đã được chứng minh qua các sự kiện
trong lịch sử: đánh đuổi chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, cả nước hòa

7
bình, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế - chính trị - xã hội hiện nay, nhiều thế
lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá về mọi mặt, nhằm phá hoại
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các thế lực thù địch đã có
nhiều âm mưu và thủ đoạn để phá hoại, làm lung lay khối đại đoàn kết dân tộc.
Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam đang đứng trước những thách thức
của giai đoạn mới. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
đã khẳng định: “Khối đại đoàn kết dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới” [19,
tr.10]. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, tạo nhiều cơ hội cho người Việt Nam dễ dàng có thể giao lưu, tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Mặt khác, các thế lực thù địch cũng lợi
dụng công cụ đó gieo rắc những luận điểm để phá hoại về văn hoá, tư tưởng làm
mất lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân. Bên cạnh

đó, hoạt động của các Mặt trận và đoàn thể, tổ chức xã hội thu hút tập hợp nhân
dân còn nhiều hạn chế. Do đó, việc củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
có ý nghĩa vô cùng to lớn góp phần ổn định kinh tế - xã hội và quyết định xây
dựng thành công hay thất bại chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
nói riêng là một di sản không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn mang tính cập nhật
thời đại. Không chỉ có giá trị lý luận, thực tiễn trong các giai đoạn cách mạng đã
qua mà còn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta trong giai đoạn hiện
nay. Hơn 40 năm qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về với thế giới “người
hiền”, tư tưởng của Người vẫn là ngọn đèn soi sáng cho những ai yêu chuộng
công lý, hòa bình, yêu thương con người tiếp tục cuộc chiến đấu vì “độc lập, tự
do, hạnh phúc của nhân dân”.

8
Với tư tưởng vượt mọi tầm thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi chỉ đề
cập một trong những tư tưởng đó: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc” làm đề tài
nghiên cứu, mong có đóng góp làm sáng tỏ một trong nhiều vấn đề lý luận đang
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản lý luận quý báu của Đảng và nhân
dân Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nước ta nghiên cứu, phân tích.
Không chỉ vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh còn là đề tài thu hút sự quan tâm của
không ít nhà hoạt động chính trị, nhà khoa học trên thế giới. Nhiều cuộc hội thảo
khoa học về thân thế, sự nghiệp và tư tưởng của Người đã được tổ chức ở các
cấp độ, quốc gia, quốc tế.
Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được nghiên cứu từ
nhiều góc độ, với nhiều cách tiếp cận khác nhau nhằm khai thác những khía
cạnh, nội dung tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Ở phạm vi trong nước có các

công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Chương trình khoa học cấp Nhà nước
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH 04.01 năm 2005: "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa, xây dựng con người" do Giáo sư
Đặng Xuân Kỳ chủ nhiệm, đã khái quát hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa (vị trí, chức năng của văn hóa) và nghiên cứu một cách hệ thống các quan
điểm của Hồ Chí Minh về con người, xây dựng con người.
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX 02-05: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người” do PGS. PTS Lê Sĩ
Thắng, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia làm chủ nhiệm đề tài.
Đề tài trên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người.

9
Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
- Lê Quang Hoan (2001): Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc
phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay - Luận án tiến sỹ triết học.
Luận án trình bày một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
để từ đó vận dụng vào việc phát huy nhân tố con người trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nguyễn Thị Thủy (2009): Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vận
dụng vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay -
Luận văn thạc sỹ triết học.
Luận văn trình bày những quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về con
người và việc vận dụng nó vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
- Lê Thị Hải Hà (2010): Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương
pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay - Luận văn
thạc sỹ Khoa học Chính trị Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí

Minh.
Luận văn trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và phương pháp xây dựng con người từ đó vận dụng vào việc xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện hiện nay.
Các công trình nghiên cứu dưới dạng sách chuyên khảo, báo, tạp
chí…
Trong cuốn: "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
phát triển toàn diện", PGS. TS Thành Duy, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002.
Trong cuốn sách này tác giả Thành Duy đã đề cập tới những quan điểm cơ
bản về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người phát triển toàn
diện, phân tích khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và ý nghĩa của
giáo dục đối với việc đào tạo con người qua đó khẳng định giá trị tư tưởng Hồ

10
Chí Minh trong xây dựng con người mới XHCN đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới đáp ứng được nhu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam.
Trong bài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người về bản chất con
người” của Đặng Xuận Kỳ đăng trên tạp chí Triết học số 10 năm 2002, tác giải
đã phân tích và nhấn mạnh rằng, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
đặt trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng nhất định, quan hệ
với một xã hội nhất định, quan hệ với tự nhiên.
Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người”
của Nguyễn Văn Tài, tạp chí Triết học số 2 năm 2004, đã phân tích tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người với tư cách là một thực thể xã hội, bao hàm sự thống
nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội, sự thống nhất giữa con người
dân tộc, giai cấp và nhân loại; về con người với tư cách là chủ thể của lịch sử….
Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa” của PGS, TS. Bùi
Đình Phong, Tạp chí Lý luận Chính trị số 1 năm 2009, đã phân tích quan niệm
của Hồ Chí Minh về con người, con người vừa là con người xã hội vừa là con

người sinh vật, đó là con người lịch sử - cụ thể, con người có nhiều phạm vi khác
nhau: gia đình, họ hàng, bầu bạn, đồng bào cả nước, loài người, con người
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của cách mạng…
Về vai trò của con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng có rất nhiều
công trình nghiên cứu. Trong số các công trình nghiên cứu bàn đến nội dung
này, có thể nêu một số công trình tiêu biểu, như Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy
dân làm gốc của Phạm Bá Lượng, tạp chí Triết học số 2 năm 2005; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân của PGS, TS Lê Đại
Doãn, Tạp chí Lý luận Chính trị số 1 năm 2002; Một số vấn đề tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh của Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lịch sử Đảng số 1 năm
2004; Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển xã hội của Lê Thị Hương, Tạp chí Triết học số 9 (184) tháng 9 năm

11
2009…. Trong những công trình nghiên cứu đó, các tác giả đã tập trung nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước; coi quần chúng
nhân dân là lực lượng chính của cuộc cách mạng, là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn:
Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và rút ra một số ý nghĩa đối
với việc xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
Một là, hệ thống hoá, làm rõ khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Ba là, rút ra một số ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đối
với việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những
quan niệm của Hồ Chí Minh về con người chủ yếu qua các văn bản của Người

được tập hợp trong 12 tập bộ Hồ Chí Minh toàn tập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về con người.
Luận văn sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đã
được công bố có liên quan đến đề tài luận văn.
Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như sau: Vận dụng phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng các phương pháp cơ bản: Phân
tích - tổng hợp, logic - lịch sử, thống kê, so sánh…



12
5. Đóng góp
Một là, góp phần hệ thống hóa những tư tưởng của Hồ Chí Minh về con
người.
Hai là, góp phần luận chứng ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
6. Ý nghĩa của luận văn
Với những kết quả đạt được luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc học tập, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, xây
dựng con người, phát huy vai trò con người trong các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp Luận văn cũng có giá trị tham khảo, phục vụ công
tác hoạch định chính sách xây dựng, bồi dưỡng, phát triển con người và củng cố,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liều tham khảo, luận văn có
2 chương, 4 tiết.












13
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tuởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ chí Minh về con người nói
riêng được hình thành bởi hai nhân tố khách quan và chủ quan với bốn nội dung:
Tinh hoa văn hoá truyền thống của dân tộc; Tinh hoa văn hoá nhân loại; Cơ sở lý
luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; Yếu tố chủ quan - phẩm
chất cá nhân Hồ Chí Minh.
1.1.1. Tinh hoa văn hoá truyền thống của dân tộc
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử hàng nghìn năm, là
lịch sử vẻ vang đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, từ thời đại Hồng Bàng đến thời đại Hồ Chí Minh, nếu tính từ
nước Âu Lạc cho đến nay thì có hơn 13 thế kỷ, với 37 cuộc chiến tranh chống
xâm lược quy mô lớn và hàng trăm cuộc khởi nghĩa trong nội bộ đất nước.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm ấy, một nền văn hoá
dân tộc đã được hình thành và bồi đắp qua bao nhiêu thế hệ. Một nền văn hoá
với những nét đặc trưng nổi bật là: chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân
tộc, tinh thần nhân ái, ý chí tự cường, lòng tự hào dân tộc… Theo Giáo sư Trần
Văn Giàu: “tình cảm và tư tưởng yêu nước là tư tưởng và tình cảm lớn của nhân
dân Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt

Nam từ thời cổ đại đến hiện đại… yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân
sinh của người Việt Nam” [29, tr.100-101]. Những giá trị tinh thần truyền thống
đã trở thành động lực nội sinh của dân tộc, là tâm thức, là tiềm năng sức mạnh
của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh được sinh ra và thừa hưởng nền văn hoá
đó, đã kế thừa và tiếp thu toàn bộ tinh hoa văn hoá của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trước hết bắt nguồn từ việc tiếp thu,
chọn lọc, bổ sung và phát triển các giá trị truyền thống của con người Việt Nam
trong điều kiện mới của cuộc cách mạng vô sản. Nó biểu hiện ở chính cuộc đời,
tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh.

14
Thứ nhất, Hồ Chí Minh nhận thức được vai trò hết sức quan trọng của giá
trị truyền thống con người Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng. Sinh trưởng
trong một gia đình khoa bảng, ở một miền quê nổi tiếng là “địa linh nhân kiệt”
với tư chất và nhãn quan về lịch sử đã giúp cho Hồ Chí Minh hiểu biết sâu sắc
truyền thống về con người và đất nước Việt Nam. Theo cách nói của C.Mác,
muốn hiểu con người, sự vật phải hiểu lịch sử của nó. Chính sự hiểu biết sâu sắc
con người Việt Nam mà Hồ Chí Minh tìm thấy được sức mạnh của các giá trị
truyền thống. Vì thế, trong khi vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để vạch
ra con đường cách mạng cho Việt Nam, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải dựa trên
những giá trị truyền thống dân tộc, là động lực to lớn, động lực vĩ đại, thậm chí
là duy nhất của các nước thuộc địa. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, vừa có ý
nghĩa là một phương pháp cách mạng. Vì vậy, trong những sự kiện đặc biệt của
lịch sử, Hồ Chí Minh có những hoạt động thể hiện sự tôn trọng truyền thống quá
khứ như: thắp hương và dự lễ kỷ niệm Lý Bát Đế ngày 13 - 9 - 1945 khi nước
nhà vừa giành được độc lập, trên đường về Thủ đô đến thăm nơi thờ các vua
Hùng, thăm Côn Sơn - khu di tích lịch sử thờ các vị anh hùng dân tộc Nguyễn
Trãi… Những cuộc viếng thăm đầy ý nghĩa ấy thể hiện tình cảm trân trọng với
lịch sử vẻ vang của dân tộc. Sức mạnh của giá trị truyền thống là ở khả năng
điều chỉnh nhận thức, hành vi của con người, đó là động cơ bên trong, khả năng

tự ý thức, tự điều chỉnh của cả một cộng đồng người trước yêu cầu của sự phát
triển xã hội.
Thứ hai, kế thừa phát huy và nâng cao những truyền thống tốt đẹp của con
người Việt Nam đồng thời cải tạo, xóa bỏ những truyền thống lạc hậu tiêu cực
của quá khứ để lại.
Kế thừa và phát huy tất cả những giá trị truyền thống của con người Việt
Nam vào sự nghiệp cách mạng mà tiêu điểm của những giá trị ấy là chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết, đạo lý làm người.

15
Hồ Chí Minh đề cao truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do lên thang
giá trị cao nhất của con người. Đó là truyền thống quý báu, bắt nguồn và hình
thành qua các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước
là cội nguồn đời sống tinh thần của người Việt Nam. Truyền thống đó thể hiện ý
thức về chủ quyền đất nước, khẳng định bản sắc giống nòi, kinh tế, ngôn ngữ,
phong tục, tập quán…, đặt lợi ích dân tộc lên cao nhất, coi dân tộc, nhân dân,
quốc gia làm trọng. Truyền thống đó được Hồ Chí Minh nâng lên tầm cao mới:
yêu nước là “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”,
“không có gì quý hơn độc lập tự do”, yêu nước là yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa
xã hội, là tinh thần quốc tế cao cả.
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một đặc trưng cơ bản của con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Sử ta dạy ta bài học này: lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [49, tr.217]. Hồ Chí Minh nói, đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân ta. Đầu những năm 20
của thế kỷ XX, trong quá trình đi tìm con đường cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra một trong những nguyên nhân mất nước và dân tộc chưa được
giải phóng chính là sự yếu kém về tổ chức, không có sự đoàn kết rộng rãi. Muốn
giải phóng dân tộc thì cuộc cách mạng đó phải có tính chất quần chúng, phải
được chuẩn bị trong quần chúng, phải thành lập mặt trận nhằm tập hợp lực lượng

đánh kẻ thù. Những giá trị truyền thống đó là cơ sở hình thành tư tưởng và chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Những giá trị đạo đức nhân sinh hay đạo lý làm người của người Việt
Nam được hình thành từ rất sớm. Đó là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc đạo đức
trong lối sống, nếp sống của con người Việt Nam, được biểu hiện chủ yếu ở nền
văn hóa dân gian, truyền miệng những kinh nghiệm và hành vi đạo đức. Nội
dung đạo làm người rất phong phú: quan trọng nhất là đạo thờ tổ tiên, thờ những
người có công với nước, uống nước nhớ nguồn, nhân ái… tiết kiệm, cần cù, hiếu

16
học, hiếu thảo với cha mẹ, thuỷ chung tín nghĩa vợ chồng, trung thực, mưu trí,
dũng cảm… Tất cả những giá trị truyền thống đó được tiếp thu và phát huy trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Hồ Chí Minh thường trích dẫn tục ngữ, ca
dao để diễn đạt, đặc biệt là tấm gương lịch sử, những chuyện người thật, việc
thật, người tốt, việc tốt rất phong phú trong đời sống hàng ngày để giáo dục cán
bộ, đảng viên. Người quan tâm đến ý nghĩa thực tiễn của các nguyên lý đạo đức,
chú ý thực hành đạo đức, nêu gương không chỉ để giáo dục nhân dân mà con đối
với bản thân.
Bên cạnh việc kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến việc loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực, tàn tích lạc hậu, xấu xa của
xã hội cũ, con người cũ. Đó là: thói quen trọng nam khinh nữ, hội hè đình đám,
hiếu hỷ lãng phí, tâm lý cục bộ, phe phái dòng họ, địa phương, ngại đấu tranh, dĩ
hoà vi quý, thích những biện pháp nửa vời, trì trệ, bảo thủ… biểu hiện trong vô
số mà Hồ Chí Minh gọi là bệnh: quan liêu, hủ hoá, lãng phí, tham ô… bắt nguồn
từ chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra tất cả những tệ nạn đó. Vì vậy
muốn xây dựng thành công xã hội mới cần phải tiêu diệt thói hư, tật xấu của xã
hội cũ còn sót lại, những thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch, nó
ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ.
1.1.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Việt Nam là nơi tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa lớn từ bốn

phương Đông, Tây, Nam, Bắc bằng cả đường biển cũng như đường bộ. Người
Việt đã tiếp thu những giá trị tốt đẹp của các nền văn hoá Đông, Tây để phục vụ
cho mục đích và nhu cầu phát triển của mình.
Các nền văn hóa du nhập vào Việt Nam gần như cùng một lúc như Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Đến thế kỷ XVII, Thiên chúa giáo vào Việt Nam
thông qua con đường truyền giáo của các linh mục phương Tây. Việc tiếp xúc
với văn hoá Phương Tây của người Việt Nam diễn ra thực sự khi thực dân Pháp
xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta. Vì vậy, Nho giáo, Phật giáo, Đạo

17
giáo và văn hoá phương Tây đều được người Việt Nam tiếp thu một cách có
chọn lọc và ít nhiều được Việt hoá. Nền văn hoá Việt Nam luôn tồn tại và phát
triển trong thế độc lập đan xen giữa ba yếu tố truyền thống - giao lưu - đổi mới.
Nó gắn chặt chẽ với truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, trong đó chủ
nghĩa yêu nước với tư cách là nhân tố cơ bản để đánh giá, chọn lọc, kế thừa và
phát huy những giá trị văn hoá nước ngoài.
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình có học thức, có tinh thần hiếu học và
đậm nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Thuở thiếu thời được hưởng sự giáo
dục của các nhà nho yêu nước, nhờ đó Người am hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc.
Khi lớn lên theo cha vào kinh thành Huế, được học Hán văn, Pháp văn tiếp thu
được những mặt tiến bộ của nền văn minh Pháp. Đồng thời, Hồ Chí Minh có
hơn 30 năm sống và hoạt động ở nước ngoài, biết nhiều ngôn ngữ, vì vậy Người
dễ dàng tiếp thu được những giá trị tốt đẹp của nhân loại nói chung và của các
dân tộc khác nói riêng. Do đó, có thể nói rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã
hội tụ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại.
Về văn hoá phương Đông
Đối với những giá trị văn hoá phương Đông Hồ Chí Minh tiếp thu chủ
yếu ở Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo - “tam giáo đồng nguyên” - đã thịnh hành ở
Việt Nam trong chế độ Phong kiến. Hồ Chí Minh tiếp thu văn hoá đó ngay tại
đất nước Việt Nam và cả khi hoạt động ở nước ngoài. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh

còn tiếp thu những tư tưởng dân chủ của Tôn Dật Tiên….
Về ảnh hưởng của Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Người được
học chữ Hán và các tri thức của Nho giáo từ rất sớm, vì vậy Nho giáo có ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành tư tưởng của Người nói chung và tư tưởng về
con người nói riêng.
Hồ Chí Minh coi trọng chữ “Nhân” của Nho giáo. Tuy nhiên, “Nhân”
trong quan niệm của Nho giáo chịu ảnh hưởng nặng nề của lập trường giai cấp

18
phong kiến nên còn mang nặng sắc thái của tình yêu thương của bậc bề trên,
tầng lớp thống trị với kẻ dưới, những người bị thống trị. Còn đối với Hồ Chí
Minh, Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào và rộng
hơn, Nhân là tình yêu thương giữa con người với con người, không phân biệt
giai cấp, dân tộc, quốc gia. Hơn nữa Nhân trong tư tưởng không dừng lại ở tình
yêu chung chung, trừu tượng mà được chuyển hoá thành hành động cách mạng
kiên quyết đấu tranh vì sự giải phóng con người thoát khỏi áp bức, nô dịch.
Có thể nói, Nho giáo, đặc biệt ở Khổng Tử, Mạnh Tử đã có những tiến bộ
nhất định khi coi dân có vai trò nhất định trong xã hội như họ là lực lượng chính
tạo ra của cải vật chất cho xã hội, duy trì sự tồn tại của chế độ phong kiến.
Nhưng nhìn chung trong tư tưởng của Nho giáo nhất là từ Đổng Trọng Thư trở
đi, đều không đánh giá đầy đủ, không thấy được dân với tư cách là người sáng
tạo và vai trò như động lực của sự phát triển lịch sử. Dân chỉ là những người bị
thống trị, có nghĩa vụ phải tuân theo một cách tuyệt đối ý chí, mệnh lệnh của
nhà vua và tầng lớp thống trị. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những điểm tiến bộ
đồng thời khắc phục những hạn chế trong tư tưởng về dân của Nho giáo. Đối
với Hồ Chí Minh trong bầu trời này không có gì quý bằng nhân dân. Trên cơ sở
đó, trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh
luôn chú ý đến việc khẳng định vai trò làm chủ cũng như bảo đảm lợi ích cho
nhân dân, mà xét đến cùng cũng là nhằm hướng tới sự giải phóng và phát triển

toàn diện con người[44, tr.61 - 62].
Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao lý tưởng xây dựng một xã hội đại đồng
như trong tư tưởng của Khổng - Mạnh. Người nói: “Khổng Tử vĩ đại (551 trước
C.N) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng
nói: thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu, chỉ sợ
không đều. Bình đẳng sẽ xoá bỏ nghèo nàn’’ [47, tr.16]. Thuyết đại đồng của
Khổng Tử có điểm tương đồng với lý tưởng xây dựng xã hội cộng sản, cùng

19
hướng tới một chế độ xã hội không còn áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, con
người sống với nhau đầy tình yêu thương.
Hồ Chí Minh còn tiếp thu tinh thần tiến bộ nhân văn trong học thuyết của
Nho giáo về đạo đức, đặc biệt là về những vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Người nói: “Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh
thần bằng cách đọc tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc tác
phẩm của Lênin”. Hồ Chí Minh sử dụng những thuật ngữ của Nho giáo nhưng
bổ sung sửa đổi, đem lại cho nó ý nghĩa mới. Những phạm trù đạo đức của Nho
giáo như: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; trung,
hiếu… được Hồ Chí Minh khai thác mặt tích cực, làm thay đổi về bản chất, nội
dung cho nó phù hợp với nội dung đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh trân trọng những mặt tích cực đồng thời phê phán những
hạn chế của con người Nho giáo. Mặt tích cực về con người của Nho giáo: đó là
những con người sống có lý tưởng, có sự rèn luyện công phu, sống trong sạch,
liêm khiết, kiên cường, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, con người có nghĩa vụ cao
không chỉ đối với bản thân mình mà có nghĩa vụ với người khác, gương mẫu,
say mê học tập trọng tài và trọng nghĩa… Mặt hạn chế trong con người của Nho
giáo: là con người có nghĩa vụ nên họ không thể bộc lộ hết cá tính, phát triển
được tài năng của mình, hy sinh cái tôi, tự do cá nhân và những lạc thú của con
người, rơi vào trạng thái bảo thủ, trì trệ, dễ bằng lòng với thực tại, thiếu những
hành động cải biến cách mạng. Nho giáo chia con người thành nhiều loại: thánh

nhân, quân tử, trượng phu, tiểu nhân… căn cứ vào đạo đức, nhân cách chứ
không dựa trên cơ sở kinh tế - chính trị. Hình mẫu lý tưởng của con người Nho
giáo là không tưởng vì nó không chú ý đến điều kiện hiện thực cho việc xây
dựng con người. Vì vậy, con người trong tư tưởng Nho giáo là con người trừu
tượng, phi lịch sử… đây là nội dung mà Hồ Chí Minh phê phán dưới nhiều hình
thức khác nhau.


20
Về ảnh hưởng của Phật giáo
Tư tưởng cơ bản của Phật giáo là giáo dục con người về lòng từ bi, vị tha
cứu khổ, cứu nạn. Đây là một trong những tư tưởng nhân văn sâu sắc của Phật
giáo. Nhưng là một tôn giáo nên trong giáo lý Phật giáo còn có nhiều điểm mang
tính chất duy tâm, thần bí: Quan niệm về luân hồi, nghiệp báo; bi quan yếm thế,
giải thích sai nguyên nhân nỗi khổ và con đường giải thoát… song có nhiều mặt
tích cực mà Hồ Chí Minh đã khai thác. Đó là:
Tư tưởng bình đẳng, bác ái của Phật giáo, phản đối chế độ bất công, phân
biệt đẳng cấp bằng thái độ phủ nhận trật tự xã hội đương thời đòi tự do, bình
đẳng cho mọi người.
Những tư tưởng “vô thường”, “vô ngã” của Phật giáo được Hồ Chí Minh
sử dụng để giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Người nói: “con người ta đẻ
ra, ai cũng lớn lên, già đi rồi chết. Chết rồi thì bảo người ta bầu làm sao được”
[56, tr.469]. Đó chính là luật vô ngã được Nguời sử dụng để phê phán những tư
tưởng tham quyền, cố vị “sống lâu lên lão làng” của một số cán bộ, đảng viên
mất phẩm chất.
Khuyên con người sống từ bi, hỷ xả, quan tâm cứu người khác, chăm lo
việc thiện, trong sạch, giữ giới…, nhân ngày Phật đản Hồ Chí Minh viết: “đời
sống của nhân dân ta dần dần được cải thiện cũng giống như tôn chỉ mục đích
của Phật giáo nhằm xây dựng cuộc sống thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng yên vui
và no ấm” [54, 290].

Về ảnh hưởng của Đạo giáo
Sự kế thừa tư tưởng của Đạo giáo được thể hiện trong triết lý sống, phong
cách sống bình dị, thanh tao, ung dung, tự tại của Hồ Chí Minh. Cuộc sống đời
thường của Bác thật giản dị, khiêm tốn phảng phất sự vô vi, tiêu dao của Đạo
giáo nhưng lại chứa đựng tinh thần lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, hết khổ lại
vui, hết mưa lại nắng ắt lẽ trời…

21
Tư tưởng cơ bản của Đạo giáo là vô vi, khuyên con người sống theo lẽ tự
nhiên, mặc cho sự đời đen trắng, thay đổi thiện - ác, quý - tiện không phân
biệt… nên có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên vô vi cũng có những giá trị
thiết thực trong việc nâng cao nhận thức của con người về sự hoà hợp của con
người với tự nhiên, giáo dục con người tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc
sống. Trước sự biến đổi của hoàn cảnh con người hãy sống, hoạt động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không giả tạo, gò ép trái với bản tính tự nhiên của mình. Với
triết lý sống đó, Hồ Chí Minh có đầy đủ ý chí và nghị lực cần thiết để vượt qua
những khó khăn, nguy hiểm hay những cám dỗ vật chất thông thường trong mọi
hoàn cảnh. Trong chốn lao tù đầy gian nan, nguy hiểm nhưng vẫn không làm
người lung lạc ý chí. Người luôn lạc quan và tin tưởng vào con đường mà mình
đã lựa chọn. Những lúc ung dung thư thái, hoà mình với thiên nhiên, không
màng danh lợi, vinh hoa, phú quý… Người chỉ cần: “một cái nhà nhỏ, nơi có
non xanh, nước biếc để câu cá, trồng rau sớm chiều làm bạn với các cụ già hái
củi, em trẻ chăn trâu không dính líu gì với vòng danh lợi” [50, tr.161].
Tất cả những điều đó làm cho Người có cuộc sống thanh tao, thanh đạm,
tự tại hoà đồng với tự nhiên, có chừng mực mà không thoái quá, không hưởng
trước thiên hạ, không đứng trên mà luôn đứng sau thiên hạ. Nếu có sự ham muốn
thì “ham muốn tột bậc là làm sao để đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Về ảnh hưởng của văn hóa phương Tây
Hơn 30 năm sống và hoạt động ở nước ngoài Hồ Chí Minh có điều kiện

để tiếp thu được nhiều tinh hoa văn hoá nhân loại.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh thần dân chủ của phương Tây, coi trọng và
nắm bắt những tinh tuý của văn hoá phương Tây. Trong con người Hồ Chí Minh
khi ứng xử với người, với việc, nhất là đối với những người phương Tây, đều
toát lên nét tinh tuý sâu lắng của văn hoá phương Tây.

22
Nền văn minh phương Tây nói chung và chủ nghĩa nhân văn phương Tây
nói riêng đã có ảnh hưởng ít nhiều đến Hồ Chí Minh từ khi còn học ở trường
Tiểu học Pháp - Việt, trường Quốc học Huế. Ở đây Hồ Chí Minh đã được nghe
những khẩu hiệu: “tự do, bình đẳng, bác ái” và được tiếp xúc với những tờ báo
có khuynh hướng tự do. Sau này Người nhớ lại: “khi tôi 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
được nghe 3 chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái… và từ thuở ấy tôi rất muốn làm
quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu những gì ẩn sau những chữ ấy” [47,
tr.477]. Những khái niệm ấy cũng là một trong những động lực thúc đẩy Người
ra đi tìm đường cứu nước, trong lúc phong trào cách mạng ở nước ta đang gặp bế
tắc về đường lối, với cái đích đến là các nước phương Tây.
Chủ nghĩa nhân văn phương Tây xuất hiện trong thời kỳ văn hoá Phục
hưng, bắt đầu từ thế kỷ XIV và hoàn thiện vào thời kỳ Khai sáng thế kỷ XVII,
XVIII. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển, chủ nghĩa nhân văn phương
Tây đã trở thành một trong những thành tựu đặc sắc của tư tưởng nhân loại. Nó
là một trong những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Mặc dù còn nhiều
hạn chế do ý thức hệ tư sản nhưng nó đã đem lại cho tư tưởng nhân loại những
giá trị tốt đẹp: khẳng định giá trị cao quý của con người, sức sáng tạo vô hạn
của con người. Nó chống lại những học thuyết đề cao thần thánh, hạ thấp vai
trò của con người, chống lại sự phục tùng thượng đế, yêu cầu được hưởng vui
thú của đời người… khẳng định các quyền tự nhiên của con người: tự do, bình
đẳng, bác ái…
Hồ Chí Minh đi khắp năm châu, làm nhiều nghề để kiếm sống, gần 10
năm tận tâm học hỏi, suy ngẫm những thành tựu mới của nhân loại nhất là những

tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu: “nội dung
cốt lõi trong tư tưởng nhân văn phương Tây, chắt lọc những giá trị đích thực của
nó. Sau này, khi tuyên bố khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người đã
đưa vào phần mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta năm 1945 cái nội
dung tinh tuý trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, trong Tuyên ngôn

23
nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1789 để khẳng định quyền sống,
quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc cho tất cả mọi người,
cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới” [80, tr.534]. Đó là lý
tưởng và khát vọng cao cả của Hồ Chí Minh.
1.1.3. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như là một “cuộc hẹn hò lịch
sử”, “sự bắt gặp”, “sự tìm thấy” những chân lý của thời đại. Trước khi đọc “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin,
Hồ Chí Minh vẫn còn là nhà yêu nước với lập trường dân chủ tư sản và chịu ảnh
hưởng Phan Chu Trinh. Sự phát triển nhanh chóng về nhận thức do tích cực
tham gia hoạt động xã hội đã giúp Hồ Chí Minh thấy được các giá trị nhân văn
phương Tây chưa đem lại con đường thực sự cho giải phóng con người.
Luận cương của Lênin đã đem lại sự giác ngộ, xúc động, một khoảnh
khắc “vui mừng đến phát khóc lên” mà Hồ Chí Minh diễn đạt là sự tìm thấy ánh
sáng. Từ đó Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc Tế thứ ba. Đây là kết
quả của 10 năm đi khắp nơi, tiếp xúc với nhiều người, khảo sát các cuộc cách
mạng tư sản điển hình, những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều dân tộc, suy
ngẫm nhiều học thuyết nhưng chưa tìm ra con đường cách mạng cho Việt Nam.
Luận cương của Lênin chỉ rõ: chỉ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng
giải phóng dân tộc phải đi theo cách mạng vô sản, những người cộng sản phải
ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản
các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến sau khi hoàn thành xong
cách mạng dân tộc dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, luận

cương của Lênin phản ánh tập trung tư tưởng về giải phóng con người của chủ
nghĩa Mác trong điều kiện mới. Hồ Chí Minh đến với học thuyết về con người
của chủ nghĩa Mác - Lênin, bắt đầu từ Luận cương của Lênin là nắm bắt được
nội dung bản chất của học thuyết đó. Bởi vì, vấn đề con người và giải phóng con
người phải được đặt trong mối quan hệ với giải phóng dân tộc, giải phóng giai

24
cấp và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể đi theo con đường cách mạng vô
sản. Cái đích của cách mạng vô sản là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, mới
giải quyết triệt để vấn đề giải phóng con người. Khi đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nắm bắt được linh hồn của chủ nghĩa Mác
- Lênin, đó là phép biện chứng duy vật, tiếp nhận lập trường, quan điểm,
phương pháp cách mạng và khoa học. Từ đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người mới có sự chuyển biến về chất và từng bước hình thành nên toàn bộ hệ
thống những luận điểm về con người một cách triệt để. Vì vậy, có thể khẳng
định: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người. Đó là bước ngoặt cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người. Nội dung đánh dấu bước ngoặt lịch sử đó chính là: Từ chủ nghĩa yêu
nước theo lập trường dân chủ tư sản trở thành người theo lập trường cộng sản
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh tự nhận mình là học trò của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác.
Do đó, có thể nói: tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sự tiếp thu sáng tạo
học thuyết mác-xít về con người trong hoàn cảnh Việt Nam. Nó được thể hiện ở
một số nội dung sau:
Dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết
vấn đề con người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Hồ Chí Minh đã xem xét con người, bản chất con người trong
quá trình vận động và phát triển của nó, trong những mối quan hệ hiện thực sinh
động và rất cụ thể. Điều này cho phép Hồ Chí Minh nắm bắt được quy luật hình
thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, từ đó, đề ra phương thức

đúng đắn nhằm phát huy sức mạnh của con người trong quá trình cách mạng.
Tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại trong đó cốt lõi
là chủ nghĩa Mác - Lênin cho phép Hồ Chí Minh tiếp cận con người với nội
dung toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Học thuyết đó chỉ ra tính
hạn chế trong ý thức hệ phong kiến và tư sản về con người và nâng các giá trị đó

25
đáp ứng yêu cầu của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa: từ con người bị áp bức, bóc lột, cùng khổ, thành con người có địa vị làm
chủ xã hội, làm chủ bản thân; từ tinh thần yêu nước phát triển thành chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vô sản; từ tinh thần cộng đồng, đoàn kết, tương
thân, tương ái thành khối đại đoàn kết dân tộc; từ những giá trị đạo đức cũ thành
những giá trị đạo đức mới, đạo đức cách mạng, hình thành con người mới xã hội
chủ nghĩa. Con người mới xã hội chủ nghĩa là tổng hoà các giá trị tốt đẹp giữa
truyền thống và hiện đại. Đó là con người phát triển toàn diện, vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, thì Hồ Chí Minh thể hiện là một nhà cách mạng. Người đã nhìn
thấy một lực lượng có thể làm thay đổi xã hội đó là giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo liên minh với giai cấp nông dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Những lực lượng đó đều có kẻ thù chung là đế quốc, phong kiến. Tiếp
thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về: “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, sự nghiệp giải phóng con người là sự nghiệp tự giải phóng của giai cấp
lao động, thì Hồ Chí Minh coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, của cộng
đồng dân tộc. Và, cuộc đấu tranh để giải phóng con người chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của nhân dân, kể cả xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa
là do tính tích cực tự giác và sáng tạo của nhân dân.
1.1.4. Nhân cách và phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, là mặt hoạt động tinh
thần, ý thức của con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở những nhân tố

khách quan. Do đó, tư tưởng còn phụ thuộc vào các yếu tố của nhân cách, phẩm
chất tinh thần của con người đã sản sinh ra nó, như tư chất, tính cách, bản lĩnh,
phẩm chất tư duy… có thể khái quát những phẩm chất tinh thần nổi bật của Hồ
Chí Minh như sau:

×