Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tác động của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.87 KB, 20 trang )



Tác động của các khu công nghiệp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên

Trần Tiến Dũng

Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng Giảng viên LLCT
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: TS. Đinh Quang Ty
Năm bảo vệ: 2007

Abstract: Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về khu công nghiệp (KCN) và bước đầu
nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong nước về việc hình thành, phát triển các KCN.
Khảo sát quá trình hình thành, phát triển và phân tích những tác động chủ yếu đến phát
triển kinh tế - xã hội ở Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2005. Đề xuất một số định hướng và
giải pháp về sửa đổi, hoàn thiện văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách phát triển của tỉnh;
giải pháp về quy hoạch và kêu gọi đầu tư; có chính sách và biện pháp phù hợp để quản lý
các KCN theo hướng phát triển bền vững.

Keywords: Hưng Yên; Khu công nghiệp; Kinh tế; Phát triển kinh tế


Content
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất được ở Việt Nam được bắt đầu đặt ra
từ năm 1986. Đây là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ Đại hội lần thứ VII của Đảng, tiếp đến Đại hội
VIII và IX, định hướng chiến lược xây dựng và phát triển các khu công nghiệp đã được triển
khai trong cả nước, từng bước được bổ sung, hoàn thiện và chứng tỏ tính đúng đắn qua sự kiểm


chứng của đời sống thực tiễn. Văn kiện Đại hội Đảng X của Đảng đã khẳng định: "Hoàn chỉnh
quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành vùng công nghiệp
trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm các điều kiện sinh hoạt cho người lao động
".
Tỉnh Hưng Yên, từ năm 1997 đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 và
một số định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ "Hưng Yên không thể làm giàu nếu chỉ
dựa vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, do đó phải tập trung cao độ để phát triển nhanh
mạnh vững chắc công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp làm động lực cho phát triển nông nghiệp,
dịch vụ và các lĩnh vực khác". Ngay sau khi tái lập, Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp,
các ngành tiến hành quy hoạch các khu, cụm công nghiệp. Sự hình thành và phát triển các khu
công nghiệp đã tạo ra động thái phát triển mới của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh, với mức


tăng trưởng cao, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện gặp
phải không ít những vướng mắc về cơ chế chính sách và tồn tại nhiều khó khăn, thách thức gây
ảnh hưởng bất lợi đến hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài " Tác động của các khu
công nghiệp đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hưng Yên " để thực hiện luận văn thạc sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị với hy vọng có những đóng góp nhất định vào công cuộc
đổi mới và phát triển của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề phát triển các khu công nghiệp, trong những năm gần đây ở nước ta
đã có một số đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo khoa học và các bài viết được công bố trên các tạp
chí, kỷ yếu khoa học.
ở đây, xin điểm qua một số công trình có liên quan đến luận văn.
Luận án PTS kinh tế của Nguyễn Xuân Thu (thực hiện năm 1992), với đề tài “Xây dựng
phương pháp đồng bộ hoá một khu công nghiệp ở Việt nam khi chuyển sang nền kinh tế theo cơ
chế thị trường (lấy khu công nghiệp Hưng Yên làm đối tượng thể hiện)”;

Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Ngọc Hưng, với đề tài “Các giải pháp hoàn thiện và phát
triển khu công nghiệp ở Việt nam”;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Tuyển Cử (thực hiện năm 2004), với đề tài “Những biện
pháp phát triển và hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp ở Việt nam”;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Xuân Hinh (thực hiện năm 2003), với đề tài “Quy
hoạch và phát triển khu công nghiệp Việt nam trong thời kỳ đổi mới”;
Sách chuyên khảo “Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực pháp lý quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của Trương Thị Minh Sâm,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004;
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hương về đề tài “Hoàn thiện công tác xúc tiến đầu
tư nhằm phát triển các khu công nghiệp ở Việt nam”;
Các bài viết “Khu chế xuất, khu công nghiệp với cơ hội đầu tư ở Việt Nam”, đăng trên
Tạp chí Kinh tế và Dự báo của TS Phạm Quang Châu; và “Đầu tư vào Hưng Yên - tiềm năng và
cơ hội”, đăng trên Tạp chí Kinh tế - Hội nhập của tác giả Hà Thuỷ; v.v…
Các công trình nói trên có giá trị tham khảo rất bổ ích đối với tác giả luận văn, tuy nhiên chưa
đi sâu vào việc đánh giá, phân tích tác động của các khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ tác động của các khu công nghiệp hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy và nâng cao tác dụng của các khu công
nghiệp của tỉnh Hưng Yên theo hướng có hiệu quả hơn trong giai đoạn sắp tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đã tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về khu công nghiệp và một số kinh nghiệm thực
tiễn trong nước về việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp;
- Tập hợp, xử lý, phân tích các tài liệu, các số liệu thống kê để làm rõ những tác động chủ
yếu của các khu công nghiệp hiện có ở tỉnh Hưng Yên đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
những mặt được, chưa được và các nguyên nhân tương ứng.
- Làm rõ căn cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng các giải pháp.



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các khu công nghiệp hiện đang hoạt động tại tỉnh Hưng Yên và những tác động chủ yếu
của chúng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khảo sát quá trình hình thành, phát triển và phân tích những tác động chủ yếu của các
khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005;
bàn các giải pháp tương ứng cho giai đoạn 2006 - 2010 và đặt trong tầm nhìn đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, luận văn áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch
sử, khảo sát thực tế, sử dụng số liệu thống kê của Trung ương và địa phương; chắt lọc, tham
khảo các kết quả nghiên cứu đã có về các khu công nghiệp.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn khái niệm, vai trò của khu công nghiệp trong nền kinh tế thị
trường; bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, thành phố trong nước
về phát triển các khu công nghiệp.
- Làm rõ những tác động chính của các khu công nghiệp hiện có tại tỉnh Hưng Yên đến
sự phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn 1997 - 2005.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp thúc đẩy các khu công nghiệp của
tỉnh Hưng Yên phát triển hợp lý và tác động có hiệu quả hơn trong giai đoạn 2006 - 2010 và các
năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương:
Chương 1: Khu công nghiệp: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn;
Chương 2: Các khu công nghiệp hiện có tại tỉnh Hưng Yên - lịch sử hình thành, phát triển
và những tác động chủ yếu của chúng;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát huy tác động của các khu công nghiệp ở tỉnh

Hưng Yên trong giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020.


Chương 1
khu công nghiệp: một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn trong nước
1.1. Khu công nghiệp nhìn dưới góc độ lý luận
1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II vào những năm của thập kỷ 60, từ những thay đổi
trong môi trường kinh tế, kỹ thuật của nền kinh tế toàn cầu, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư.
Với mục đích chuyển mạnh nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài,
tạo công ăn việc làm, tiếp thu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tại các nước
đang phát triển; mô hình khu chế xuất được thành lập nhằm tạo ra một khu vực chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của nước sở tại. Đây chính là điểm
gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tuy
nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, không phải tất cả các khu chế xuất tại các
nước đều hoạt động thành công. Nhận thức được những hạn chế của mô hình khu chế xuất và để


khắc phục, nhiều nước đã chuyển sang xây dựng một loại hình khác năng động và uyển chuyển
hơn - đó là khu công nghiệp (KCN). Với mô hình này, thị trường trong nước được tính đến như
là một yếu tố hấp dẫn; đây là yếu tố kích thích cạnh tranh, nâng cao khả năng sản xuất, cùng với
những điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn nên mô hình kinh tế KCN cũng được các nhà đầu tư
trong nước đặc biệt quan tâm.
Đối với Việt Nam, chủ trương xây dựng và phát triển KCN, khu chế xuất đã được Đảng
và Nhà nước ta đề ra trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng lý luận chung, kinh nghiệm của các nước
trong khu vực và xuất phát từ thực tiễn nước ta. Về khái niệm KCN và một số thuật ngữ có liên
quan, đã được quy định tại Nghị định số 36/NĐ-CP; theo đó: "Khu công nghiệp là khu tập trung
các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ

hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp
chế xuất". Thực tiễn hơn 15 năm phát triển các KCN đã cho thấy, đây là một loại hình kinh tế
đặc biệt, có tính đặc thù là sử dụng nhiều đất đai, thời gian tồn tại lâu dài, có ảnh hưởng sâu rộng
đến kinh tế - xã hội và đặc biệt là môi trường. Vấn đề xây dựng các KCN thân thiện với môi
trường, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết. Điều đáng chú ý, gần đây trên thế giới đã xuất hiện thuyết sinh thái công nghiệp và được
nhiều nước đã coi trọng, áp dụng. Từ việc nghiên cứu và tham khảo các tài liệu trong nước và
của nước ngoài, trong luận văn, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một khái niệm mang tính tổng quát
về KCN, phù hợp với điều kiện của Việt Nam: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, phục vụ cho tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập, được
hưởng những ưu đãi thích hợp về sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, có cơ sở hạ tầng thuận lợi đảm
bảo phục vụ cho việc sản xuất và cung cấp các dịch vụ liên quan, bảo đảm sự phát triển bền
vững.
1.1.2. Những tiêu chí cơ bản của một khu công nghiệp trong nền kinh tế thị trường
hiện đại
Quy hoạch, lựa chọn địa điểm xây dựng, phát triển các khu công nghiệp: Nguyên tắc tối
ưu để xây dựng KCN là phải ở gần sân bay, bến cảng, các trục giao thông chính, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất ;
trong các yếu tố này, vị trí của cảng biển là quan trọng nhất nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh. Địa
điểm xây dựng các KCN phải được hình thành trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế
- xã hội của các vùng, địa phương, lãnh thổ, gắn mục đích phát triển kinh tế của địa phương với
chuỗi liên kết kinh tế trong nước và đặt trong mối quan hệ với thương mại thế giới. Việc quy
hoạch phải đảm bảo quy hoạch vùng, ngành gắn với an ninh, quốc phòng, nhằm phát huy tốt lợi
thế so sánh và phù hợp với cơ cấu nguồn lao động; sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực, bảo
vệ môi trường, đồng thời lấy các KCN làm hạt nhân để hình thành các khu đô thị mới.
Cơ sở hạ tầng khu công nghiệp: Cơ sở hạ tầng KCN bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
cơ sở hạ tầng xã hội, trong đó kết cấu hạ tầng kỹ thuật là thành phần quan trọng, thúc đẩy sự phát
triển và phân bổ lực lượng sản xuất, trao đổi thông tin, giao lưu văn hóa giữa các vùng trong và
ngoài nước. Trong kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông là một bộ phận quan trọng, có vai trò đặc

biệt, là điều kiện, tiền đề tiên quyết đối với việc hình thành và phát triển các hoạt động, các mối
quan hệ ở trong KCN và ngoài vùng. Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các nhóm chức năng như
hành chính, chính trị, thương nghiệp, dịch vụ các loại, văn hóa xã hội, giáo dục đào tạo, dạy
nghề, các cơ sở nghỉ ngơi giải trí, với mục đích đảm bảo cho nguồn lao động được cung ứng
dồi dào, có chất lượng và bền vững. Đặc biệt, rất cần những thiết chế văn hóa, để đáp ứng nhu


cầu đa dạng cho cuộc sống của những lao động, đồng thời giải quyết tốt những vấn đề xã hội. Do
vậy, quy hoạch xây dựng KCN, phải đồng bộ với quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng
nhu cầu phục vụ hiện tại và tính đến tương lai.
Chất lượng của các nguồn lực bên trong khu công nghiệp
Trình độ khoa học công nghệ: Thực tiễn, việc tiếp nhận những thành tựu khoa học - công
nghệ trong các KCN, có nhiều ưu thế hơn so với các đơn vị sản xuất, kinh doanh khác. Do vậy,
các KCN phải là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả thành tựu của khoa học - công nghệ,
kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản lý của quốc tế vào quá trình sản xuất. KCN phải là nơi tiếp
nhận công nghệ mới, tập trung ngành nghề mới; những lĩnh vực mà các nước đang phát triển rất
yếu kém cần khuyến khích phát triển. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ công nghệ, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trình độ, cơ cấu nguồn nhân lực: Khi lựa chọn đầu tư tại KCN, các nhà đầu tư đặc biệt
quan tâm đến khả năng cung cấp lao động. Họ thường xem xét trên các khía cạnh như: số lượng,
chất lượng, giá cả và các quy định của nhà nước về lao động, Tuy nhiên, việc sử dụng lao động
của các doanh nghiệp KCN hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ công nghệ, ngành nghề sản xuất,
của bản thân các doanh nghiệp đó. Trong quá trình phát triển, khi các lợi thế so sánh dần mất đi,
các doanh nghiệp KCN sẽ áp dụng những công nghệ tiên tiến, sử dụng lao động có trình độ cao.
Điều này đặt ra cho hệ thống đào tạo, yêu cầu phải nâng cao chất lượng, cung ứng kịp thời nguồn
nhân lực chất lượng cao phù hợp với sự phát triển của các doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý, những chính sách đầu tư, ưu đãi
Cơ chế quản lý các khu công nghiệp: Một trong những điểm được các nhà đầu tư trông
chờ tại các KCN là độ thông thoáng, linh hoạt về các thủ tục hành chính so với khu vực khác

trong nước. ở hầu hết các KCN hoạt động thành công, mọi công việc liên quan đến đầu tư được
giải quyết thông qua cơ chế "một cửa". Theo cơ chế này, khi có nhu cầu các nhà đầu tư chỉ cần
đến Ban Quản lý các khu công nghiệp để giải quyết các thủ tục. Cơ chế quản lý "một cửa, tại
chỗ" do Ban Quản lý khu công nghiệp thực hiện theo nhiệm vụ và quyền hạn được Chính phủ
quy định và thông qua cơ chế ủy quyền.
Những chính sách ưu đãi, đầu tư các khu công nghiệp: Chính sách ưu đãi đối với nhà đầu
tư tại các KCN có ý nghĩa hết sức quan trọng; chính sách ưu đãi đầu tư tốt sẽ tạo ra môi trường
đầu tư có sức hẫp dẫn - nhân tố quan trọng để phát huy những lợi thế của các KCN.

1.2. Tác động của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội nhìn trên bình
diện tổng quát
1.2.1. Tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và tác động lan tỏa đối với
các doanh nghiệp trên địa bàn
Khu công nghiệp với hạt nhân là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
tác động đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp trong nước: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở các KCN là nhân tố tác động mạnh mẽ đến đổi mới công nghệ đối với doanh
nghiệp trong nước. Thực tế cho thấy, việc áp dụng mô hình kinh tế các KCN đã thúc đẩy hoạt
động chuyển giao công nghệ phát triển nhanh, cả về phạm vi và tốc độ. Chuyển giao công nghệ
của khu vực đầu tư nước ngoài tới doanh nghiệp trong nước có ảnh hưởng lâu dài, đóng góp tích
cực vào việc tăng năng suất trong ngành công nghiệp của nước sở tại.
Tác động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn: Sự hiện diện của
khu vực đầu tư nước ngoài là một tác nhân thúc đẩy cạnh tranh; nhiều trường hợp, có thể dẫn đến
tình trạng giảm sút sản lượng, thậm chí có thể buộc doanh nghiệp rời khỏi thị trường hoặc có thể


sống sót nếu vượt qua được giai đoạn điều chỉnh cơ cấu để thích nghi với môi trường cạnh tranh
mới. Tuy nhiên, nếu biết tận dụng quá trình sản xuất của mình, bằng việc sản xuất các hàng hóa
trung gian và các yếu tố khác của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước
có khả năng bứt phá để sau đó trực tiếp tiến hành xuất khẩu.
Về sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ: Mối quan hệ giữa khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài và công nghiệp phụ trợ trong nước có tính tương hỗ hai chiều và chỉ có thể phát triển
bền vững trên nguyên tắc "đôi bên cùng có lợi". Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, dù đặt cơ
sở sản xuất ở đâu, cũng đều cần một lượng lớn các yếu tố đầu vào. Rõ ràng là, nếu có thể sử
dụng các yếu tố này ở ngay nền kinh tế nước sở tại, thì họ sẽ giảm được đáng kể chi phí sản xuất.
Đối với lợi ích của nước chủ nhà: trước hết, mối liên kết với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
làm tăng sản lượng và việc làm của các nhà cung ứng địa phương. Thêm vào đó, những ảnh
hưởng gián tiếp có thể còn quan trọng hơn. Các liên kết có thể trở thành những kênh có sức
mạnh cho việc nhân rộng tri thức và kỹ năng giữa các công ty; đồng thời có thể kích thích hiệu
quả, tăng năng suất, năng lực công nghệ và quản lý, đa dạng hoá thị trường cho nhà cung ứng.
1.2.2. Tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực: Khu công nghiệp là môi trường tốt
nhất để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do
áp lực phải sản xuất ra các mặt hàng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, các nhà đầu tư buộc phải quan tâm
đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, đội ngũ cán bộ quản lý. Vì thế, người lao động sẽ
có cơ hội để tiếp thu tốt nhất công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ quản trị tiên tiến. ở đó,
nguời lao động biết cần phải tự giác tham gia vào quá trình đào tạo, tự đào tạo lại để luôn thích
ứng với yêu cầu phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, đây là địa điểm thuận lợi để đào tạo
nguồn nhân lực mới có chất lượng cao; là tác động cơ bản, động lực mạnh mẽ, góp phần thực
hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.3. Tác động đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn: Các khu
công nghiệp góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, đóng góp ngày càng lớn cho ngân
sách nhà nước. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu, sang cơ cấu kinh
tế công nghiệp và dịch vụ, với tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng tăng. Góp
phần làm chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
các doanh nghiệp tư nhân tại các KCN với sự tăng trưởng mạnh, năng động, hiệu quả đã tạo nên
sức cạnh tranh mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự mở rộng thị trường, tạo thế và lực mới cho nền kinh
tế, Góp phần quan trọng vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, với kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, các KCN thường có khả năng chuyển nhanh các khu vực thuần
nông, trở thành một thành phố công nghiệp với kết cấu hạ tầng phát triển nhanh và ổn định.
1.2.4. Tác động đến môi trường: Khu công nghiệp là nơi tập trung các doanh nghiệp
công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải để xử lý, góp phần khắc phục tình trạng

khó kiểm soát chất thải của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. Tuy nhiên, trong
quá trình đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các KCN, ô nhiễm môi
trường sẽ ngày càng trầm trọng, nếu không được kiểm soát một cách chặt chẽ. Bảo vệ môi
trường ở các KCN vừa là điều kiện vừa là mục tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao
hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh. Bởi vậy, bảo vệ môi trường và giảm thiểu các tác động
tiêu cực về mặt xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả
kinh tế cao, bảo đảm cho sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước về xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp; bài học đối với Hưng Yên
- Kinh nghiệm của Thành phố Hà Nội
- Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh


- Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Những bài học rút ra đối với tỉnh Hưng Yên: Một là: Thống nhất nhận thức KCN là một
dự án đầu tư quy mô lớn, dài hạn; trong tổ chức thực hiện cần kiên trì và đặc biệt có sự quan tâm
chỉ đạo, phối hợp của chính quyền với các ban, ngành của tỉnh đặc biệt là Ban Quản lý khu công
nghiệp. Hai là: Phát triển KCN cần theo hướng gia tăng hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trong
sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Ba là: Ngay từ khâu xây dựng chiến lược đến khâu tổ
chức triển khai xây dựng KCN, phải luôn gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi
trường để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững. Bốn là: Trong quá trình xây dựng KCN, cơ sở
hạ tầng KCN phải đi trước một bước, gắn việc xây dựng hạ tầng trong hàng rào với xây dựng cơ sở
hạ tầng ngoài hàng rào đồng bộ, hiện đại nhằm phát huy tốt vai trò hạt nhân hình thành đô thị hiện
đại. Năm là: Quy hoạch KCN phải thường xuyên được rà soát, điều chỉnh phù hợp với tình hình
và điều kiện thực tế; trong triển khai phải linh hoạt, thông thoáng nhưng phải nhất quán. Sáu là:
Phải gắn liền với sự quan tâm chỉ đạo, dám chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; sự
phối hợp kịp thời, có hiệu quả giữa Ban Quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh với các sở, ban ngành.
Bảy là: Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ", tăng cường mối liên hệ giữa
Ban Quản lý với các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng và doanh nghiệp KCN theo hướng
đảm bảo một đầu mối giải quyết, đồng thời có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các đơn vị

trong phối hợp. Tám là: Cần kết hợp giữa khâu cấp phép và thanh tra, giám sát KCN theo hướng
giải quyết việc cấp phép nhanh gọn, đáp ứng kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư; đồng thời tăng
cường công tác thanh tra, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động của các doanh nghiệp lành mạnh,
đúng pháp luật. Chín là: Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, gồm cả cán bộ
quản lý KCN và cho người lao động.
Từ những vấn đề đã trình bày, phân tích ở chương 1, có thể đi tới kết luận: Vấn đề xây
dựng và phát triển các KCN ở nước ta được đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong giai đoạn 1991 - 2006, các KCN trong cả nước đã đạt được những thành tựu
quan trọng, có tác động tích cực đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Bên cạnh
những thành công, thực tiễn phát triển các KCN thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Để
đảm bảo tính hiệu quả, bền vững của các KCN, hạn chế những tác động tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế - xã hội, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm, tìm được những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển năng động của mô hình kinh tế
này, phát huy những ảnh hưởng tích cực của nó đến phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



Chương 2
Các khu công nghiệp hiện có tại tỉnh hưng Yên - lịch sử hình thành, phát triển
và những tác động chủ yếu của chúng
2.1. Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp tại tỉnh Hưng Yên
2.1.1. Tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Hưng Yên - môi trường đầu tư của các khu công
nghiệp
Tỉnh Hưng Yên được thành lập năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12). Năm 1968, Hưng
Yên và Hải Dương được hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng; sau đó lại được tách ra, và tái lập vào
ngày 01 tháng 01 năm 1997. Nằm ở giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, Hưng Yên là cửa
ngõ phía đông của Hà Nội, có 23 km quốc lộ 5A và trên 20 km tuyến đường sắt Hải Nội - Hải
Phòng chạy qua; ngoài ra còn có quốc lộ 39A, quốc lộ 38 nối từ quốc lộ 5 qua thị xã đến quốc lộ



1A (qua cầu Yên Lệnh) và đến quốc lộ 10 (qua cầu Triều Dương). Đây là trục giao thông quan
trọng nối các tỉnh tây nam Bắc bộ với Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bên cạnh đó, Hưng
Yên gần các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân; sân bay quốc tế Nội Bài, giáp ranh với Hà Nội và
các tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương. Hưng Yên vốn là một tỉnh nông
nghiệp, trước khi tái lập, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Có tổng diện tích 923,1 km
2
; dân
số 1.116 nghìn người (năm 2003), mật độ dân số 1.209 người/km
2
, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
1%/năm, bao gồm 10 huyện, thị, 161 xã, phường, thị trấn
Từ một tỉnh có điểm xuất phát thấp, sau 8 năm kể từ khi tái lập, đến năm 2005 Hưng Yên
đã đạt được những kết quả khá khả quan: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt kế hoạch 12,9%;
giá trị sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản tăng 4,7%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 30% và
các ngành dịch vụ tăng 17%; cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ: 30,5% -
38% - 31,5%; GDP bình quân đầu người đạt 550 USD; kim ngạch xuất khẩu đạt 210,5 triệu
USD; thu ngân sách đạt 1.250 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa gần 600 tỷ và thu thuế xuất, nhập
khẩu 650 tỷ. Giá trị thu được trên 1 ha canh tác đạt 39 triệu đồng. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên duy
trì ở mức 0,99%; tỷ lệ hộ nghèo còn 13,2% theo chuẩn mới; tạo thêm việc làm mới cho 2,2 vạn
lao động. Tỷ lệ trạm xá xã có bác sỹ 100%. Tỷ lệ làng văn hoá đạt 55%. Nhìn chung, Hưng Yên
có nhiều lợi thế về phát triển các KCN.
2.1.2. Sự hình thành của các khu công nghiệp
Ngay từ những năm đầu khi tái lập, Hưng Yên đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ " Phải tập trung cao độ để
phát triển nhanh mạnh vững chắc công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp làm động lực cho phát
triển nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác". Nhận thức rõ vai trò quan trọng của các KCN,
tỉnh đã chỉ đạo các cấp, ngành tiến hành quy hoạch các khu, cụm công nghiệp để bố trí các dự án
đầu tư. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có những văn bản cụ thể tạo cơ sở pháp quy cho việc
thống nhất quản lý hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ

XV và Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh hợp tác đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 tiếp tục khẳng
định đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh ngoài là nguồn vốn quan trọng để phát triển sản xuất, tạo
việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách, tạo điều kiện để chủ động hội nhập. Tỉnh đã dành các vị
trí thuận lợi nhất để quy hoạch 6 KCN: Như Quỳnh A, B; Phố Nối A, B; Minh Đức, Thị xã
Hưng Yên.
2.2. Tác động của các khu công nghiệp trên thực tế đến phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây
2.2.1. Thực trạng của các khu công nghiệp hiện có
2.2.1.1. Về quy hoạch, địa điểm, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội
a) Quy hoạch, địa điểm các khu công nghiệp: Dựa trên những điều kiện thuận lợi chung
về địa lý, các KCN của tỉnh nhìn chung được quy hoạch tương đối hợp lý, đặt ở vị trí thuận lợi;
đa số các KCN hiện có được đặt trên trục quốc lộ 5, có vị trí cách Hà Nội tối đa không quá 40
km; cách các cảng Biển, sân bay lớn của khu vực không quá 100km. Có quy hoạch gắn liền với
ngành nghề được phép đầu tư và thực hiện quy hoạch khá chặt chẽ. Bên cạnh những thành công
ban đầu các KCN hiện có hiện đang tồn tại một số mặt còn hạn chế. Trong quy hoạch chưa chú
trọng đến bảo vệ môi trường và cơ sở hạ tầng xã hội; cũng như đấu nối cơ sở hạ tầng kỹ thuật
bên trong với bên ngoài hàng rào. Về tổng thể 5/6 các KCN chủ yếu tập trung trên địa bàn các
4/10 huyện thị; thể hiện sự thiếu cân đối, hài hòa. Hiện vẫn tồn tại tình trạng sử dụng đất trồng
lúa, có khả năng sản xuất nông nghiệp vào xây dựng KCN. Đặc biệt, tình trạng "quy hoạch chạy
theo doanh nghiệp" là một trong những nguyên nhân chính, gây nên sự thiếu đồng bộ trong việc
bố trí các KCN gắn với quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội và bảo vệ môi trường.


b) Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Hưng Yên hiện được đánh giá cao bởi chính sách phát triển
cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp, nông nghiệp, theo mô hình liên kết và tương tác chặt chẽ.
Sau gần 10 năm tái lập và phát triển mô hình kinh tế các KCN, cơ sở hạ tầng các KCN đã có
những bước cải thiện đáng kể.
Quy hoạch đường trong các khu công nghiệp: Hệ thống đường giao thông đầy đủ bao
gồm hệ thống đường nội bộ và đường trục chính vào KCN đảm bảo giao thông an toàn và thuận
tiện.

Hệ thống bưu chính viễn thông: Được đầu tư lắp đặt với trình tự ưu tiên hàng đầu, hệ
thống bưu chính, viễn thông, Internet ADSL của Hưng Yên, đảm bảo năng lực cho sự phát triển
chung của tất cả các nhà đầu tư, với mức phí theo qui định.
Nguồn lực lao động: Tổng dân số: 1,12 triệu; Số lao động: 0,57 triệu; trong đó tỷ lệ lao
động đã qua đào tạo 0,14 triệu, Số lao động bổ sung hàng năm: 20.000 với mức lương bình quân
khoảng 750.000 VND/tháng. Trên địa bàn tỉnh hiện có 10 trường đào tạo nguồn nhân lực, hàng
năm đào tạo được khoảng 15.000 công nhân và kỹ sư Trong tương lai, thị xã Hưng Yên được
quy hoạch thành Khu đô thị đại học sẽ cung cấp nguồn lao động dồi dào, có trình độ cao.
Chi phí thuê đất: Giá thuê đất: 25 - 27 USD/m2/50 năm (tuỳ theo vị trí và diện tích lô
đất, thanh toán một lần). Phí dịch vụ sử dụng cơ sở hạ tầng: 0,25 USD/m2/năm (thanh toán hàng
năm).
Tuy nhiên, các KCN Hưng Yên trong quá trình triển khai các dự án đầu tư ngày càng
nhiều, thì hạ tầng KCN đã bộc lộ những điểm hạn chế trong quy hoạch như trên đã trình bày.
Bên cạnh đó, do thu hút đầu tư theo phương thức "cuốn chiếu", nên quy hoạch đã không kịp với
phát triển; vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng đã và đang gặp nhiều khó khăn, phức tạp dẫn đến
cản trở tốc độ và sự nhiệt tình của các nhà đầu tư đã và đang tìm tới Hưng Yên.
c) Cơ sở hạ tầng xã hội: Theo thống kê của các ngành chức năng, tính đến cuối năm
2006, toàn tỉnh hiện có trên 300 doanh nghiệp với hơn 91 nghìn lao động đang làm việc. Con số
này tập trung ở các huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, nơi tập trung của các KCN. Sự tập trung
với số lượng lớn lao động KCN đã dẫn đến sự gia tăng dân số cơ học tới 150-170%, điều này đã
tạo ra nhiều vấn đề bất cập về an ninh và trật tự an toàn xã hội. Trong khi đó vấn đề cơ sở hạ
tầng xã hội tại đây đã không được quan tâm đúng mức khi quy hoạch phát triển; đặc biệt là vấn
đề nhà ở cho công nhân. Đồng thời, thiếu những thiết chế văn hóa cơ bản để đảm bảo đời sống
văn hóa, tinh thần cho công nhân; dẫn đến tình trạng "đói văn hóa" kéo dài, làm cho chất lượng
cuộc sống của một bộ phận công nhân ngày càng xuống thấp.
2.2.1.2. Quy mô đất đai, tỷ lệ diện tích đất được sử dụng và tình hình thu hút đầu tư của
các khu công nghiệp
a) Về quy mô và tỷ lệ sử dụng đất: Nhìn chung các KCN hiện có của tỉnh Hưng Yên có
quy mô thích hợp với diện tích trung bình 150 ha, phù hợp với mục tiêu tận dụng nguồn lao động
và thế mạnh tại chỗ của địa phương. Hưng Yên đã quy hoạch được 06 KCN; trong đó :

- 02 KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: Khu công nghiệp Phố Nối A, quy mô
390ha, đã cho thuê 169.2 ha; tỷ lệ lấp đầy đạt 62%. Khu công nghiệp Phố Nối B, quy mô 95ha;
giai đoạn I diện tích 20ha, đã cho thuê 15 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 75%; hiện đang chuẩn bị đầu tư
giai đoạn II. Bên cạnh đó KCN Phố Nối B - Thăng Long II, đang được tiến hành với 200ha, vốn
đầu tư 51 triệu USD, do chủ đầu tư trong nước liên doanh với tập đoàn Sumitomo - Nhật Bản,
hứa hẹn sẽ thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy mô lớn.
- 02 KCN trực thuộc tỉnh: Khu công nghiệp Như Quỳnh A với diện tích 50ha, Như Quỳnh
B với diện tích 45ha, đã được tỉnh quy hoạch, tuy chưa có quy hoạch chi tiết và chưa có chủ đầu


tư xây dựng cơ sở hạ tầng; nhưng do có nhiều lợi thế, từ năm 1996 đến năm 2003 đã cơ bản lấp
đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê với tỷ lệ 97%.
- Các KCN Minh Đức đã tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng và đã chính thức cho thuê với
tổng số diện tích 61 ha; KCN thị xã Hưng Yên đang tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng, thiết
kế, xây dựng.
Khi xem xét tỷ lệ lấp đầy các KCN hiện có tỉnh Hưng Yên, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ lấp
đầy của các KCN tỉnh Hưng Yên đạt tỷ lệ trung bình 64% so với tỷ lệ 50% của cả nước là tương
đối cao.
b) Tình hình thu hút đầu tư, của các khu công nghiệp hiện có
Về số lượng dự án đầu tư trong các khu công nghiệp: Tính đến hết ngày 31/12/2006, toàn
tỉnh hiện có 508 dự án có vốn đầu tư trong nước, trực tiếp từ nước ngoài với tổng số vốn đầu tư
đã đăng ký là 20.359 tỷ đồng và 435 triệu USD. Số dự án đăng ký đầu tư tại các KCN là 135 dự
án với 44 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm tỷ lệ 37,6% số dự án toàn tỉnh, thấp hơn so với
khu vực ngoài KCN.
Về tổng số vốn đăng ký đầu tư, tổng vốn đầu tư đã thực hiện trong các khu công nghiệp:
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 7.140 tỷ đồng, chiếm 35,1%; tổng vốn đầu
tư thực hiện đến hết năm 2006 đạt 4.558 tỷ đồng, chiếm 49,7%; tỷ lệ tổng số vốn đăng ký đầu
tư/tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt 63,8% (so với khu vực ngoài KCN đạt 34,9%). Khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 283,4 triệu USD, chiếm 65,1%; tổng vốn đầu
tư thực hiện đến hết năm 2006 đạt 153,8 triệu USD, chiếm 81,1%; tỷ lệ tổng số vốn đăng ký đầu

tư/ tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt 54,3% (so với khu vực ngoài KCN đạt 25,1%).
Về tiến độ thực hiện các dự án trong các khu công nghiệp: Khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư trong nước: Số lượng doanh nghiệp chưa tiến hành xây dựng, thiết kế là 6/91 dự án,
chiếm 6,6 %; trong khi đó khu vực ngoài KCN con số tương ứng là 79/333, chiếm tới 24,6%.
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Số lượng doanh nghiệp chưa tiến
hành xây dựng, thiết kế là 7/44 dự án chiếm 15,9%; khu vực ngoài KCN số dự án loại này là
5/40, chiếm 12,5%.
Qua phân tích các chỉ số nêu trên, chúng tôi cho rằng, môi trường đầu tư của các KCN
hiện có của Hưng Yên chưa thật sự hấp dẫn. Riêng những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thì
việc bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh tại các KCN được các chủ đầu tư đặc biệt quan tâm, tổng số
vốn đã thực hiện là tương đối khả quan. Nhưng nhìn chung, những dự án đầu tư được đăng ký tại
các KCN của tỉnh Hưng Yên có tiến độ thực hiện tương đối tốt, tổng mức vốn thực hiện đầu tư
luôn đạt mức cao so với các dự án đã được đăng ký ở ngoài các KCN.
2.2.1.3. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp
tỉnh Hưng Yên: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong KCN nhìn
chung đạt hiệu quả cao, luôn giữ tốc độ phát triển ổn định, điều này được thể hiện qua các chỉ
tiêu sau :
- Số lao động thu hút của các doanh nghiệp KCN chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số
lao động công nghiệp: Từ 2.335 người năm 2000, đã tăng lên 19.728 năm 2005; mỗi năm số lao
động mới làm việc tại các doanh nghiệp từ 2000 - 4000 lao động.
- Thu nhập bình quân trong các KCN tăng, đặc biệt của lao động KCN luôn cao hơn so
với cả tỉnh từ 10 - 15%/năm.
- Tổng doanh thu tăng qua các năm, giữ tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu công nghiệp
toàn tỉnh từ 50% - 54%; bên cạnh đó các chỉ số khác cũng không ngừng gia tăng về số lượng, tỷ
trọng trong tổng số doanh nghiệp công nghiệp.


Trong năm 2006 theo Báo cáo của Ban Quản lý các khu công nghiệp tại các KCN Phố
Nối A&B đã có 06 dự án điều chỉnh tăng vốn; một số công ty ở ngoài KCN, hiện đã đề nghị
được chuyển vào KCN. Những động thái trên chừng nào đó cho thấy mô hình kinh tế các KCN

đã phát huy tốt chức năng là những hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp tỉnh
Hưng Yên.
2.2.1.4. Cơ chế quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên: Ban quản lý các khu công
nghiệp tỉnh Hưng Yên được thành lập theo Quyết định số 183/2003/QĐ-TTg ngày 08/9/2003 của
Thủ tướng Chính phủ. Dựa trên các văn bản luật và dưới luật được ban hành tỉnh Hưng Yên đã
xây dựng cơ cấu quản lý và phân cấp quản lý các KCN và quy định rõ nhiệm vụ, chức năng của
Ban Quản lý các khu công nghiệp cụ thể như sau: Thực hiện các chức năng nhiệm vụ theo quy
định của Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và theo ủy quyền của các
Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh. Ban Quản lý các khu công nghiệp là cơ quan chịu trách nhiệm trực
tiếp quản lý đối với các KCN tập trung trên địa bàn tỉnh được thành lập và quản lý theo Quy chế
Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao. Tiếp nhận dự án và tổ chức thẩm định,
cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép chứng chỉ theo nguyên tắc "một cửa, tại chỗ", theo
ủy quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh, của các Bộ, Ngành trung ương tạo điều kiện thuận lợi nhất
để nhà đầu tư triển khai dự án và sản xuất kinh doanh tại các KCN trên địa bàn tỉnh.
2.2.1.5. Về khuyến khích và ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên: Ngày 03 tháng 11 năm 2004 Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã Ban hành
kèm theo quyết định số 88/2004/QĐ-UB ngày 03/11/2004, của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên
quy định về khuyến khích và ưu đãi đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Tại quy
định này đã nêu rõ: Uỷ ban nhân dân tỉnh khuyến khích và dành ưu đãi đối với các dự án đầu tư
phát triển hạ tầng KCN và các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh vào các KCN trên địa bàn tỉnh.
Quy định này áp dụng đối với các dự án đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, được
thành lập và hoạt động theo Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã ban
hành kèm. Đối tượng áp dụng của quy định này gồm các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư vào
các KCN trên địa bàn tỉnh, theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước và Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
2.2.2. Những tác động chủ yếu của các khu công nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương
2.2.2.1. Tác động đến sự tăng trưởng GDP của tỉnh, thu nhập bình quân đầu người và
nguồn thu ngân sách qua các năm
Số liệu thống kê năm 2006 cho thấy, tỷ trọng nông nghiệp của Hưng Yên đã giảm từ 60%

năm 1996 xuống còn 27,7%, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ thương mại đã tăng từ
40% lên 72,3%. Thu ngân sách năm 2006 đạt 1.448 tỷ đồng (tăng 22 lần so với năm 1997). Thu
nhập bình quân GDP đầu người từ 180 lên 620 USD/năm (gấp 3,4lần so với năm 1997). Những
thành tựu kinh tế - xã hội kể trên có nguyên nhân chính là sự phát triển mạnh mẽ ngành công
nghiệp tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua, trong đó vai trò của các KCN là yếu tố quyết định. Cụ
thể:
- Tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP của tỉnh luôn đạt cao và có tốc độ tăng
nhanh và ổn định; năm 2006 cơ cấu GDP là: 27,7%-40,2%-32,1%(gần tương đương với cơ cấu
của cả nước là: 20%-40%-40%).
- Ngành công nghiệp luôn giữ vững tỷ lệ tăng trưởng bình quân trên 20%; trong đó vai
trò hạt nhân là các KCN.


- Tỷ lệ thu nộp ngân sách của doanh nghiệp KCN luôn đạt cao và chiếm tỷ lệ từ 35 - 37%
trong tổng thu. Năm 2005, lần đầu tiên thu ngân sách của tỉnh vượt ngưỡng 1.000 tỷ đồng, trong
đó có sự đóng góp đáng kể của các KCN(516,5 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 41%).
2.2.2.2. Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Năm 1996, giá trị công nghiệp chỉ đạt 355,5 tỷ đồng; với 11.281 cơ sở sản xuất công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; số lao động trong toàn ngành là 37.023 người; tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng trong GDP là 14,71%. Trong thời kỳ 1997 - 2005 tỷ trọng của ngành nông,
lâm nghiệp, thủy sản từ 51,87% trong GDP đã giảm xuống còn 30,5%; tỷ trọng công nghiệp -
xây dựng đã dần tăng lên từ 20,26% lên 38%; ngành dịch vụ cũng có chuyển biến tích cực từ
27,87% lên 31,5 %. Các KCN Hưng Yên đã phát triển vượt bậc, có đóng góp lớn vào giá trị sản
xuất công nghiệp toàn ngành, năm 1996 mới đạt 300 tỷ đồng, đến 2005 đạt trên 7.700 tỷ đồng
(tính theo giá thực tế); trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 26,7%/năm
và đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Số cơ sở công
nghiệp vào năm 2004 đã tăng lên 18.280, đóng góp gần 70% tổng thu ngân sách và trên 94%
tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, tạo việc làm thường xuyên cho trên 4 vạn lao động. Đây là
một mốc hết sức quan trọng, đánh dấu sự chuyển mình của Hưng Yên từ một tỉnh thuần nông
thành tỉnh công nghiệp, vươn tới mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng hiện

đại trước năm 2020. Từ xuất phát điểm rất thấp, công nghiệp Hưng Yên đã vượt lên đứng thứ 16
trong số 64 tỉnh, thành phố trong cả nước.
2.2.2.3. Tác động đến tốc độ phát triển ngành công nghiệp, cơ cấu ngành công nghiệp
của địa phương
a) Về giá trị, tốc độ phát triển ngành công nghiệp: Công nghiệp Hưng Yên ở thời điểm
tái lập quy mô nhỏ và lạc hậu. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh của Tỉnh ủy về phát
triển công nghiệp, bằng những cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển các KCN, toàn bộ ngành
công nghiệp Hưng Yên đã từng bước ổn định và phát triển. Cụ thể: Công nghiệp trên địa bàn
trong giai đoạn 1997 - 2000 có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt 60%/năm(công nghiệp cả
nước tăng bình quân 13,5/% năm). Năm 2000, giá trị sản xuất đạt 1.806,4 tỷ đồng, tăng gấp 5,6
lần năm 1996, tỷ trọng trong GDP đạt 27,8% (năm 1996 là 14,71%), giá trị sản xuất từ vị trí thứ
41 năm 1996 đã vượt lên xếp hạng thứ 19/61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đến năm 2005, toàn
tỉnh có 20.178 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; trong đó có 295 doanh nghiệp
công nghiệp; đã tạo việc làm cho trên 5 vạn người; giá trị xuất khẩu bình quân thời kỳ 1997 -
2000 là 27,5 triệu USD (năm 2000 là 28,36 triệu USD, chiếm 71% tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn tỉnh, tăng 2,04 lần so với năm 1996).
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế tham gia đóng góp vào tổng sản phẩm ngành công
nghiệp Hưng Yên không đồng đều, thể hiện sự phát triển chưa thực sự vững chắc. Bên cạnh sự
phát triển vượt bậc của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế ngoài nhà nước (kinh tế tư
nhân); kinh tế nhà nước do Trung ương và địa phương lại không thực sự ổn định cả về giá trị và
tốc độ phát triển.
b) Về quy mô, cơ cấu ngành công nghiệp, những ngành công nghiệp chủ đạo của tỉnh
Hưng Yên: Theo tiêu chí ngành cấp I, công nghiệp Hưng Yên có 3 ngành với ngành chủ đạo là
công nghiệp chế biến luôn chiếm tỷ trọng tuyệt đối. Sau gần 10 năm tái lập tỉnh Hưng Yên từ
một nền kinh tế với cơ cấu nông nghiệp chiếm 51,9%, hiện nay theo tiêu chí phân ngành cấp II,
công nghiệp Hưng Yên có 22 ngành sản xuất.
Về quy mô của các ngành công nghiệp: Đã hình thành được một số nhóm ngành chủ lực
ở quy mô tương đối lớn: Chế biến nông sản thực phẩm; Dệt, may, da, giầy; Cơ khí; Điện, điện
tử; Sản xuất phụ tùng và lắp ráp ô tô - xe máy. Các ngành này đều sự tăng trưởng mạnh mẽ, quy



mô năm sau lớn hơn năm trước; Cụ thể: Về số lượng các doanh nghiệp năm 2000 là 74 đến năm
2005 là 259(gấp 3,5 lần). Về nguồn vốn các doanh nghiệp năm 2000 là 1.866 tỷ đồng, đến năm
2005 là 9.354 tỷ đồng (gấp 5 lần). Về quy mô doanh thu năm 2000 tổng doanh thu thuần là 2.262
tỷ đồng, đến năm 2005 là 11903 tỷ đồng(gấp 5,3 lần). Về lao động các doanh nghiệp năm 2000
thu hút, tạo việc làm cho tổng số 13.373 người, đến năm 2005 tổng số lao động là 46.462 người
(gấp 3,5 lần).
Qua các chỉ tiêu trên, có thể khẳng định các doanh nghiệp công nghiệp tỉnh Hưng Yên đã
từng bước phát triển mạnh mẽ và khá vững chắc, với số lượng và tốc độ tăng trưởng năm sau cao
hơn năm trước. Nhân tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng là các doanh nghiệp KCN; thể hiện ở
nguồn vốn, doanh thu thuần, tỷ lệ đóng góp ngân sách nhà nước, thu nhập của người lao động và
ở số lao động mà các doanh nghiệp KCN đang sử dụng.
Về cơ cấu ngành công nghiệp: Qua các chỉ tiêu của các doanh nghiệp công nghiệp tỉnh
Hưng Yên, trong 22 ngành hiện có, với sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các KCN Hưng Yên, đã xuất hiện những ngành công nghiệp mới, có vai trò là hạt
nhân; Cụ thể: Ngành cơ khí - điện- điện tử (Mã số cấp II: D27, D28; D30; D31, D32). Ngành dệt
may (Mã số cấp II: D17). Ngành giầy dép(Mã số cấp II: D18, D19). Ngành chế biến lương thực,
thực phẩm(Mã số cấp II: D15).
Sau 10 năm tái lập Hưng Yên đã tạo dựng được một cấu trúc công nghiệp đa ngành với
những ngành chủ lực có quy mô tương đối lớn, trình độ khoa học công nghệ khá cao, đóng góp
rất lớn cho kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên. Những kết quả đã đạt được có sự đóng góp của các
doanh nghiệp hiện đang sản xuất kinh doanh tại các KCN. Các doanh nghiệp này bằng công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và tiềm lực tài chính mạnh đã cải thiện đáng kể ngành công nghiệp
của Hưng Yên.
2.2.2.4. Tác động đến giải quyết việc làm, nâng cao mức thu nhập và đào tạo nguồn
nhân lực
a) Đối với vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực: Cơ cấu lao động của tỉnh
Hưng Yên trong nông nghiệp từ chỗ chiếm đa số đã giảm dần năm 1997 là 84,4%, đến năm 2005
là 71,6%. Tuy nhiên, tác động của các KCN tỉnh Hưng Yên đối với vấn đề giải quyết việc làm
còn tương đối hạn chế. Nguyên nhân chính, Hưng Yên là tỉnh có xuất phát điểm thấp, kinh tế

nông nghiệp thường xuyên giữ tỷ trọng lớn; trong khi đó, trước thời điểm tái lập tỉnh, công
nghiệp Hưng Yên không được quan tâm đúng mức, bởi vậy từ khi tái lập đến nay mặc dù đã có
nhiều cố gắng, nhưng vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực là cả một quá trình lâu
dài.
Khi nghiên cứu cơ cấu lao động, chúng tôi nhận thấy đang tồn tại sự dịch chuyển lao
động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Số chỗ làm việc mới được tạo ra trong thời
gian qua chủ yếu là hai khu vực này, tuy nhiên chưa thật sự mạnh mẽ. Bên cạnh đó, tốc độ tăng
lên về quy mô nguồn vốn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn, doanh thu là rất nhanh, trung bình từ
28% đến 42%. Nguyên nhân, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là khá cao,
đang trong giai đoạn phát triển mở rộng quy mô, tăng sản lượng. Hiện tại nhiều doanh nghiệp
KCN vẫn đang tiếp tục đầu tư, mua sắm trang thiết bị chuẩn bị đi vào sản xuất kinh doanh.
Trong năm 2006 tỉnh đã giải quyết được 23.574 chỗ làm việc mới. Vì vậy, số lượng việc làm
mới sẽ gia tăng trong các năm tiếp theo. Điều này đang đặt ra thách thức rất lớn cho hệ thống đào
tạo nguồn nhân lực tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên hiện đang có hệ thống các trường đại học, trung học chuyên nghiệp dạy nghề
trong toàn tỉnh tương đối đầy đủ. Trên địa bàn tỉnh hiện có 10 trường đào tạo nguồn nhân lực và
16 trung tâm, cơ sở trên địa bàn tỉnh có tham gia dạy nghề, hàng năm đào tạo được khoảng


15.000 công nhân và kỹ sư, Tuy nhiên trang thiết bị, cơ sở thực tập còn thiếu, lạc hậu, chưa
bắt kịp với sự thay đổi của tình hình thực tế. Hệ thống các cơ sở đào tạo, dạy nghề vẫn hoạt động
chưa thật sự gắn kết chặt chẽ với nơi sẽ trực tiếp sử dụng. Do vậy, sinh viên tốt nghiệp, khi trực
tiếp làm việc tại các cơ sở sản xuất đã không thực sự đáp ứng được yêu cầu; dẫn đến thực trạng
tình trạng thừa lao động đã qua đào tạo, thiếu lao động có khả năng để trực tiếp sản xuất, kinh
doanh. Tuy nhiên, đòi hỏi của các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động đã tác động tích
cực đến hệ thống đào tạo và dạy nghề của tỉnh thúc đẩy các cơ sở đào tạo và dạy nghề điều chỉnh
lại mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo phù hợp với thực tiễn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của doanh nghiệp và xã hội.

b. Nâng cao mức thu nhập cho người lao động

Về thu nhập bình quân của ngành công nghiệp phân theo mã ngành cấp II: Những nhóm
có thu nhập từ 14,5 đến 20,1 triệu đồng cao hơn mức trung bình của toàn tỉnh; đều thuộc vào
ngành đã được triển khai và đi vào sản xuất tại các KCN: Như Quỳnh A, B, Phố Nối A, B.
Về thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp khu công
nghiệp với các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh: Luôn có mức thu nhập bình
quân cao hơn hẳn so với các lao động trên địa bàn toàn tỉnh; giai đoạn 2000-2005 là 15.7% cao
hơn mức tăng của toàn ngành là: 8,9%/năm. Gần đây mức chênh lệch thu nhập bình quân của lao
động trong các doanh nghiệp KCN và các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn ngày càng thu
hẹp dần: năm 2000 là 3,6 triệu đồng, đến năm 2005 chỉ còn 0,7 triệu đồng. Động thái này cho
thấy tác động tích cực của các doanh nghiệp KCN đến thu nhập bình quân đối với lao động toàn
ngành theo hướng tăng dần thu nhập bình quân.
Về thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp công nghiệp phân theo đơn vị
hành chính: 03 huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào-nơi tập trung đa số các KCN của tỉnh luôn có
mức thu nhập bình quân cao hơn; tổng mức thu nhập trong giai đoạn 2000-2005 của 03 huyện
này chiếm tỷ lệ trung bình 64,8% tổng thu nhập toàn tỉnh. Qua phân tích các chỉ tiêu như trên, có
thể khẳng định sự phát triển của các KCN tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua có ảnh hưởng tích
cực đến thu nhập của người lao động trong khu vực công nghiệp, theo hướng tăng dần thu nhập.
2.2.2.5. Tác động đến trình độ công nghệ và các hoạt động triển khai khoa học công
nghệ vào sản xuất, kinh doanh
Mức trang bị vốn và tài sản cố định của các doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp trong các KCN đạt trung bình 278.405tr.đồng/lao động, gấp 1,74 lần so với mức
trung bình toàn tỉnh; đối với tài sản cố định đạt trung bình 127.527tr.đồng/lao động, gấp 1,64 lần
so với mức trung bình toàn tỉnh, cao hơn gấp nhiều lần so với khu vực đồng bằng Sông Hồng. Tỷ
trọng của giá trị nhóm sản phẩm với hàm lượng công nghệ cao trong cơ cấu giá trị sản phẩm các
ngành chế biến tỷ lệ lớn từ 44% đến 87%; khẳng định công nghiệp Hưng Yên, đang đi đúng
hướng, môi trường đầu tư được cải thiện, hàm lượng công nghệ trong sản phẩm đầu ra không
ngừng tăng lên. Đặc biệt các doanh nghiệp KCN luôn có mức trang bị vốn, tài sản cố định tính
theo đầu lao động cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp công nghiệp trong tỉnh; đã thể hiện khá
rõ vai trò là động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp.
Tuy nhiên, hiện đang tồn tại sự suy giảm mang tính chất tạm thời của nhóm sản phẩm

công nghệ cao. Nguyên nhân, do sự thiếu ổn định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài. Vì vậy trong thời gian tới cần có những chính sách khuyến khích, ưu đãi cụ thể
hơn nữa để đẩy mạnh đầu tư, nâng cao trình độ công nghệ của các khu vực kinh tế tạo sự ổn định
chung cho sự phát triển của công nghiệp tỉnh Hưng Yên.
2.2.2.7. Tác động đến môi trường


Bên cạnh những tác động tích cực của các KCN, ô nhiễm môi trường ở các KCN tỉnh
Hưng Yên là tương đối trầm trọng. Hầu hết các KCN đều chưa xây dựng nơi đổ rác thải và xử lý
rác thải. Các dự án đầu tư tập trung tại các KCN Hưng Yên, trong quá trình sản xuất đã làm ô
nhiễm môi trường dẫn đến bức xúc của người dân sinh sống gần khu vực có dự án. Rác thải được
đưa đến bãi rác là bãi đổ tự nhiên, nước rác chưa được xử lý gây ra tình trạng mất vệ sinh. Ô
nhiễm về nước thải công nghiệp trong các KCN ngày càng trở nên nghiêm trọng. Đặc biệt là ở
KCN dệt may, thuộc da, hóa chất lượng nước thải đổ ra môi trường có tính độc hại cao, không
được xử lý, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Mức độ ảnh hưởng còn đáng ngại hơn do các KCN ở
Hưng Yên đều gần đường giao thông và gần khu dân cư.
Trong các KCN của tỉnh tình trạng ô nhiễm môi trường của KCN Như Quỳnh đã đến mức
báo động. Bên cạnh đó, các KCN ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nói chung và các KCN tỉnh
Hưng Yên nói riêng còn có một loại ô nhiễm khó kiểm soát và giải quyết, là ô nhiễm không khí,
bụi và tiếng ồn
2.3. Đánh giá chung về tác động của các khu công nghiệp
2.3.1. Những tác động tích cực của các khu công nghiệp hiện có đối với phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên
Tác động đến thu hút đầu tư và phát triển của toàn ngành công nghiệp tỉnh Hưng Yên.
Tác động đến sự tăng trưởng GDP, tăng thu nhập bình quân đầu người và nguồn thu ngân
sách, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tác động đến chuyển dịch cơ cấu ngành của
nền kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ - thương mại, giảm
dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP của tỉnh, và dần đạt tới cơ cấu chung của
cả nước.
Tác động đến tốc độ phát triển của toàn bộ ngành công nghiệp trong tỉnh về giá trị, quy

mô và cơ cấu, trình độ công nghệ theo hướng ngày càng tiến bộ.
Tác động tích cực đối với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đào tạo và nâng
cao trình độ cho người lao động.
Tác động lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các vùng, các ngành, lĩnh vực trên địa
bàn tỉnh.

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại của các khu công nghiệp hiện có ở tỉnh Hưng Yên
Thứ nhất, chất lượng quy hoạch còn thấp, thực hiện quy hoạch lại thiếu nhất quán.
Thứ hai, vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, phức tạp; quản lý và sử
dụng đất trong các KCN còn nhiều hạn chế, hiệu quả sử dụng đất KCN chưa cao.
Thứ ba, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập.
Thứ tư, còn thiếu lao động có trình độ cao.
Thứ năm, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội bức xúc xung quanh các KCN.
Từ những vấn đề đã trình bày và phân tích ở chương 2, có thể đi đến kết luận: Trong
mười năm qua, Hưng Yên là một trong những tỉnh phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
khá mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những kết quả đó bắt nguồn từ chủ trương,
đường lối và chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời là bằng chứng
cho thấy sự năng động của lãnh đạo và các tầng lớp nhân dân tỉnh Hưng Yên. Công nghiệp tỉnh
Hưng Yên, từ chỗ yếu kém, đã từng bước phát triển, đóng góp chủ yếu cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh. Trong đó các KCN tập trung đã thể hiện rõ vai trò là hạt nhân, động lực quan
trọng, có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh. Tuy nhiên, để thoát
khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu để đến năm 2020 trở thành tỉnh phát triển khá của cả
nước, trong thời gian tới các cấp, các ngành và nhân dân tỉnh Hưng Yên còn phải nỗ lực rất


nhiều. Đặc biệt là phải quan tâm đầu tư, phát triển công nghiệp, chú trọng đến phát triển bền
vững mô hình kinh tế các KCN trên địa bàn tỉnh, phát huy tốt những tác động tích cực, khắc
phục những hạn chế và ảnh hưởng tiêu cực của chúng, thúc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.




Chương 3
Quan điểm, định hướng và giải pháp phát huy tác động của các khu công nghiệp
ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020
3.1. Bối cảnh quan điểm và định hướng phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam
nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng
3.1.1. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Thuận lợi: Thứ nhất, những thay đổi trong quan hệ cạnh tranh theo diễn biến mới của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang tác động mạnh đến sự phát triển của hầu hết các nước
trên thế giới trong đó có Việt Nam. Thứ hai, toàn cầu hóa tiếp tục diễn ra sôi động hơn, tạo ra
một sự dịch chuyển mạnh mẽ dòng FDI sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam với
vị thế mới - thành viên thứ 150 của WTO. Thứ ba, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức,
trước hết ở các nước phát triển, đang ngày càng được khẳng định như là một xu thế tất yếu của
thời đại ngày nay. Bên cạnh những thuận lợi trên, những khó khăn mà các KCN Việt Nam sẽ
phải đối mặt, cụ thể: Một là, cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng tăng; Hai là, yêu cầu
ngày càng cao của các chủ thể đầu tư; Ba là, nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp và tụt hậu
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu.
3.1.2. Quan điểm chủ yếu về phát triển khu công nghiệp trong điều kiện hội nhập Tổ
chức thương mại thế giới
Trong điều kiện hội nhập WTO, Việt Nam phải đổi mới một cách triệt để về khu công
nghiệp, chấn chỉnh thật sự nghiêm túc và khoa học vấn đề quy hoạch, đặt các KCN hiện có và
sắp ra đời trong thế chủ động hội nhập và cạnh tranh với khu vực và toàn cầu. Khai thác triệt để
các cơ hội thuận lợi trong quá trình hội nhập WTO để đẩy mạnh phát triển các KCN tập trung
thật sự hiệu quả, bền vững. Cần có cả một hệ thống giải pháp tổng thể cả về phía ngành, vùng và
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển dài hạn để phát triển các KCN, trên
cơ sở đánh giá đúng vai trò có tính chất quá độ của các KCN trong quá trình thực hiện các
nguyên tắc và các cam kết hội nhập WTO.
3.1.3. Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 - cơ sở cho việc tiếp tục quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn

tỉnh Hưng Yên: Ngày 21 tháng 6 năm 2006, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số:
1107/QĐ-TTg, V/v phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020. Quyết định này đã đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, các điều
kiện và tiêu chí hình thành các KCN trên các địa bàn lãnh thổ, Về mục tiêu tổng quát: Hình
thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời
hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp. Đưa tỷ lệ
đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24% hiện nay lên khoảng 39
- 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công
nghiệp của các KCN từ 19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm
2010 và cao hơn vào các giai đoạn tiếp theo.


3.2. Các giải pháp phát huy tác động tích cực của các khu công nghiệp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn tới
Sửa đổi căn bản hệ thống văn bản pháp quy, cơ chế quản lý, chính sách phát triển theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư vào các KCN. Nâng cao hiệu quả của công tác
quy hoạch tổng thể, tạo khả năng liên kết giữa ngành và lĩnh vực, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế mũi nhọn và vấn đề xã hội, kết hợp quy hoạch KCN với quy hoạch đô thị. Đổi
mới, tăng cường công tác xúc tiến, tiếp thị đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp đầu tư vào
các KCN. Giải quyết tốt các vấn đề liên quan đối với lao động khu công nghiệp; đào tạo cán bộ
quản lý KCN và nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp KCN. Tích cực xây dựng, đầu tư, hiện
đại hóa và khai thác có hiệu quả cơ sở hạ tầng KCN. Nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh
quá trình chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp KCN. Đổi mới cách thức kiểm tra, giám
sát, đánh giá hoạt động của các KCN. Phát triển các khu công nghiệp bền vững và hoàn thiện hệ
thống tiêu chí đánh giá.
Từ những vấn đề đã trình bày ở chương 3, có thể đi tới kết luận: Thành tựu của các KCN
tỉnh Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung, cũng như những tác động tích cực của chúng đến
tình hình phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều mặt yếu
kém, thậm chí gây ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương và

của quốc gia, nhất là vấn đề môi trường. Từ những kết quả nghiên cứu thực trạng các KCN, phân
tích những tác động tích cực, tiêu cực của chúng và các nguyên nhân tương ứng, chúng tôi đã đề
xuất hệ quan điểm, một số định hướng và 8 nhóm giải pháp lớn như trên đã trình bày, nhằm khắc
phục hạn chế, tác động tiêu cực phát huy tốt hơn những tác động tích cực của các KCN đến công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên trong những năm tới.


Kết luận
Phát triển các KCN tập trung theo các tiêu chí hiệu quả và bền vững là một trong những
hướng đi quan trọng, nhằm góp phần tạo nền tảng để "đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại" như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã xác định. Và như vậy, có thể khẳng định đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược
then chốt của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khoảng hơn một thập kỷ
gần đây, các KCN trong cả nước nói chung và ở Hưng Yên nói riêng đã đạt được những thành
tựu quan trọng, có tác động tích cực tới tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều địa phương
và của đất nước. Các KCN sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản
xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế; có tác động tích cực vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng hoá ngành nghề,
nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng, mở
rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Là nhân tố quan trọng trong giải quyết việc làm, nâng cao dân
trí và thực hiện các chính sách xã hội; góp phần nhất định bảo vệ môi trường; có tác động lan toả
tích cực tới trình độ phát triển và mở rộng mối liên kết của các vùng, ngành. Chính sách về KCN
và mô hình quản lý - theo cơ chế "một cửa, tại chỗ" cùng với cơ chế ủy quyền trong thời gian
qua đã đạt được những chuyển biến tích cực.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các KCN trên địa bàn cả nước cũng như ở Hưng
Yên cũng còn không ít khó khăn, vướng mắc, hạn chế. Qua số liệu và phân tích thực trạng tác
động của các KCN tỉnh Hưng Yên đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh tại Chương 2, chúng
tôi đã đặc biệt nhấn mạnh hàng loạt vấn đề cần phải tập trung giải quyết, tháo gỡ. Sau khi nghiên
cứu có chọn lọc các định hướng, chính sách phát triển các KCN trên phạm vi cả nước, ở chương



3, chúng tôi đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế
những tác động tiêu cực của các KCN tỉnh Hưng Yên đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương trong giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020. Tuy nhiên, đối với nước ta, mô hình kinh
tế các KCN là một mô hình còn mới mẻ, đòi hỏi các nhà khoa học phải tiếp tục tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu sâu hơn nhiều khía cạnh mới có liên quan, nhất là trong điều kiện tình hình kinh
tế thế giới, bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước sẽ có nhiều thay đổi. Luận văn của chúng tôi
mới chỉ giải quyết được một số ít vấn đề có liên quan đến chủ đề lớn này, và chắc chắn không
tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Với sự cầu thị, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của các nhà nghiên cứu, các đồng nghiệp và bạn đọc./.


References
1.
Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tổng hợp tình
hình thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên năm 2006.
2.
Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình
phát triển các khu công nghiệp của tỉnh Hưng Yên (Báo cáo Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh về thăm và làm việc tại tỉnh Hưng Yên, đến thăm khu công nghiệp).
3.
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Hưng Yên (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVI.
4.
Chính phủ (1997), Nghị định số 36/CP, ngày 24 tháng 4 năm 1997, Về việc ban
hành Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
5.
Cục thống kê tỉnh Hưng Yên, Niên giám thống kê: 1997 - 2005.
6.

Cục thống kê tỉnh Hưng Yên (2006), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều
tra năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
7.
Mai Ngọc Cường (1993), Các khu chế xuất châu á-Thái Bình Dương, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
8.
Trần Thị Mỹ Diệu, Nguyễn Trung Việt (2003), "Khu công nghiệp sinh thái,
những khái niệm cơ bản", Tạp chí Bảo vệ môi trường, (11).
9.
Nguyễn Hữu Dũng (2006), "Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động và
việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và Xã hội, (291), tr.42-43.
10.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12.
Nguyễn Minh Đức (2003), "Chủ động và năng động Bình Dương", Trang tin
điện tử Tạp chí cộng sản, địa chỉ , (33).
13.
Đỗ Hữu Hào (2006), "Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất đối với việc


nâng cao trình độ công nghệ, quản lý doanh nghiệp và hiện đại hóa hệ thống kết
cấu hạ tầng", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

14.
Lê Văn Học (2006), "Thành tựu và những bài học kinh nghiệm qua 15 năm xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam", Trang tin

điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ
15.
Hiệp hội doanh nghiệp Hưng Yên (2006), "Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh(PCI)", Bản tin doanh nghiệp-Doanh nhân Hưng Yên.
16.
Lê Phương Hiếu (2006), "Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, (8),
tr.7, 8.
17.
Trần Ngọc Hưng (2007), "Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ
chức bộ máy quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế cho phù hợp với pháp luật về đầu tư", Trang tin điện
tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ
18.
Trần Ngọc Hưng (2007), "Một số vấn đề về công tác thanh tra, kiểm tra khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế", Trang tin điện tử Tạp chí khu công
nghiệp, địa chỉ
19.
Vũ Văn Hòa (2006), "Quy hoạch phát triển khu chế xuất, khu công nghiệp, cum
công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và giải pháp trong giai đoạn 2006 -
2010", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

20.
Lê Doãn Huyền (2006), "Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xúc tiến
đầu tư vào các khu công nghiệp", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp,
địa chỉ
21.
Nguyễn Thường Lạng (2006), "Quan điểm chủ yếu về phát triển khu công
nghiệp trong điều kiện hội nhập tổ chức thương mại thế giới", Trang tin điện tử
Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

22.
Trúc Lâm (2006), Vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

23.
Nguyễn Công Liêm (2006), "Khu công nghiệp và tác động lan tỏa đối với
doanh nghiệp Việt Nam", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

24.
Hồ Nga (2006), "Thực trạng về môi trường các khu công nghiệp, khu chế xuất


các tỉnh phía Bắc và bài học kinh nghiệm", Tạp chí Công nghiệp, Kỳ 1 tháng
8/2006, tr.12-14.
25.
Sở Công nghiệp tỉnh Hưng Yên (2005), "Những thành tựu công nghiệp Hưng
Yên", Công nghiệp Hưng Yên trên đường phát triển, Đặc san chào mừng kỷ
niệm 60 năm ngày truyền thống ngành công nghiệp (28/8/1945 - 28/8/2005),
tr.5.
26.
Chu Thành Thái (2006), "Khu công nghiệp, khu chế xuất với vấn đề bảo vệ môi
trường và các tác động về mặt xã hội", Trang tin điện tử Tạp chí khu công
nghiệp, địa chỉ
27.
Diệu Thúy-Hoàng Giang (2003), "Hưng Yên, điểm sáng phát triển các khu
công nghiệp", Tạp chí Công nghiệp, (12), tr.36.
28.
Bùi Sĩ Tiếu (2007), "Phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (7/127), tr.43, 47.
29.

Tỉnh ủy Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình thực hiện những nhiệm vụ kinh tế-
xã hội, xây dựng Đảng của Đảng bộ Hưng Yên (Báo cáo của Ban thường vụ
tỉnh ủy tại buổi làm việc với Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tại Hưng Yên, ngày
13, 14 tháng 4 năm 2007).
30.
Bùi Đức Tuấn, Vũ Thành Hưởng, Vũ Cương (2007), "Vấn đề phát triển bền
vững các khu công nghiệp", Tạp chí khu công nghiệp Việt Nam, (77), tr.26, 28
31.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2005), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội năm 2005 và mục tiêu, nhiệm vụ năm 2006.
32.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2006), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội năm 2006 và mục tiêu, nhiệm vụ năm 2007.
33.
Nguyễn Văn Việt (2007), "11 năm xây dựng các khu công nghiệp và chế xuất
Hà Nội", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

34.
Đỗ Hồng Yến (2006), "Đổi mới quan điểm quy hoạch khu công nghiệp, khu
chế xuất ở Việt Nam", Trang tin điện tử Tạp chí khu công nghiệp, địa chỉ

35.
Website Tổng cục thống kê, Trang tin điện tử Tổng cục thống kê, địa chỉ

36.
Website tỉnh Hưng Yên, Trang tin điện tử tỉnh Hưng Yên, địa chỉ


×