Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Triết lý nhân sinh nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống của người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.27 KB, 12 trang )

Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của
nó đối với lối sống của người Việt Nam


Nguyễn Văn Tặng


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS. ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Ngô Ngọc Thắng
Năm bảo vệ: 2011


Abstract. Luận văn hệ thống hoá những triết lý nhân sinh Nho giáo thông qua tư
tưởng Khổng – Mạnh. Phân tích, đánh giá và chứng minh những ảnh hưởng của triết
lý nhân sinh Nho giáo trong lịch sử ở nước ta. Đề xuất một số giải pháp nhằm kế
thừa, phát huy giá trị nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện
nay.

Keywords. Nho giáo; Người Việt Nam; Triết học; Triết lý nhân sinh

Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một nước lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời và ảnh hưởng sâu, rộng trên thế
giới. Nền văn hoá Trung Hoa cổ đại là chiếc nôi của nền văn minh phương Đông, nó còn hàm
chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn, độc đáo và hữu ích. Những giá trị tiềm tàng ấy đã, đang và sẽ
thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn hoá không những ở nước ta mà còn trên
phạm vi cả thế giới. Ngày nay, đã có nhiều cuộc Hội thảo bàn về triết lý nhân sinh Nho giáo
và ảnh hưởng của nó được tổ chức nhiều ở các nước, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo,
Việt Nam Các ấn phẩm về triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại được dịch và phát


hành rộng rãi ở nhiều quốc gia, như: Anh, Pháp, Nga, Mỹ Tựu trung lại, mục tiêu của việc
này là nhằm nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của triết lý nhân sinh
Nho giáo trong các học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại với quá trình phát triển nhân loại
trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, có những diễn
biến thuận, nghịch vô cùng phức tạp trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trước những vấn đề
lối sống, đạo đức đang diễn ra phức tạp trong xã hội ta hiện nay lại đặt ra những câu hỏi, phải
chăng chúng ta có một thời kỳ quá coi nhẹ những giá trị nhân sinh truyền thống; đã gạt bỏ đi
nhiều những nhân tố tốt đẹp mà nếu biết sáng tạo và phát huy đã có thể góp phần củng cố
cuộc sống gia đình, hoàn thiện các quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh cộng đồng để xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng rất lâu đời và sâu sắc của nền văn hoá Trung
Hoa cổ đại. Đặc biệt là triết lý nhân sinh Nho giáo đã được những nhà lãnh đạo, quản lý sử
dụng như là tư tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng xã hội suốt thời kỳ phong kiến và
cho đến hôm nay, nó vẫn còn tồn tại hiện hữu và tiếp tục tác động trên mọi mặt của đời sống
xã hội. Ngày nay, chúng ta tìm hiểu những triết lý nhân sinh Nho giáo không phải chỉ để thấy
được sự vĩ đại của những triết gia mà mục đích thiết thực hơn là để "Coi trọng giáo dục đạo
lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hoá, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì
tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá
trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại" [10, tr.55] trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng - văn hoá Việt Nam người ta thường nói đến sự du nhập và
vai trò của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư tưởng, văn hoá của dân tộc. Nhưng
về cội nguồn của sự gắn bó, giao thoa, ảnh hưởng của ba đạo mới chỉ là những nhận định,
nghiên cứu mang tính chất tổng quan. Vì vậy, nghiên cứu triết lý nhân sinh Nho giáo Trung
Hoa cổ đại để tiếp tục làm rõ những nhận định này sẽ giúp cho chúng ta có hướng tiếp thu, kế
thừa, phát huy văn hoá truyền thống một cách đúng đắn hơn.
Những năm gần đây, các học viên cao học ở Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị, phần lớn là giảng viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp Khi giảng dạy
cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc giảng dạy môn Lịch sử triết học, trong đó có

phần triết học phương Đông, cụ thể là những triết lý nhân sinh trong các học thuyết triết học
Trung Hoa cổ đại chưa được hệ thống hoá thành chuyên khảo và nghiên cứu ảnh hưởng của
nó đối với văn hoá nước ta, đặc biệt là đối với lối sống của con người trong thời kỳ hội nhập.
Các phạm trù: trung, hiếu, đức, nhân, tâm, lợi đã xuất hiện khá phổ biến trong cuộc sống
hàng ngày, trên nhiều lĩnh vực nhưng nội hàm những giá trị và sự tiếp biến của nó còn ít
người hiểu một cách tường tận và sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả nghiên cứu và giảng dạy phần lịch sử phương Đông, đánh giá đúng giá trị tiềm
ẩn trong kho tàng văn hoá truyền thống và để góp phần vào xây dựng lối sống, nếp sống mới
mang đậm đà bản sắc dân tộc. Cho nên, tôi chọn vấn đề triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với lối sống của người Việt Nam làm đề tài để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trung Quốc là quê hương của những tư tưởng đặc sắc, uyên thâm và bí ẩn mà cho đến
nay, nhân loại vẫn đầy ngưỡng mộ và khâm phục. Vì vậy, vấn đề tư tưởng - văn hóa Trung
Hoa cổ đại nói chung, triết lý nhân sinh Nho giáo nói riêng đã thu hút nhiều sự tranh luận,
quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả.
Trên thế giới một số nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng vẫn đạt được một số kết
quả khả quan về ổn định xã hội và phát triển kinh tế do biết phát huy những mặt tích cực của
Nho giáo, từ công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy
những truyền thống văn hóa của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu về Nho
giáo ở Việt Nam, nêu ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,
giáo dục… Và đặc biệt những vấn đề của Nho giáo được đem ra bàn luận, như: Vì sao Nho
giáo lại có sức sống dai dẳng hàng ngàn năm ở các nước Phương Đông; Nho giáo là học
thuyết chính trị - xã hội hay là học thuyết về đạo đức, nhân sinh; Về trung - hiếu - lễ và ảnh
hưởng của nó đối với lối sống như thế nào… Liên quan đến lĩnh vực này có các công trình
của những tác giả:
Cuốn: Triết lý nhân sinh của Lê Kiến Cầu. Tác giả đã trình bày một cách logic, khoa học,
phân tích khá cụ thể các vấn đề nhân sinh, ý nghĩa nhân sinh trên các bình diện khác nhau,
như ý nghĩa nhân sinh, vấn đề nhân sinh và nhân sinh quan, qua đó giúp cho độc giả có thể
rút ra những suy nghĩ, cách giải quyết vấn đề của bản thân một cách hiệu quả. Tuy nhiên, tác
giả đề cập vấn đề nhân sinh qua các câu hỏi nhỏ rồi tự trả lời các câu hỏi đó dưới dạng thảo

luận vấn đề.
Cuốn: Nho giáo, ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày xưa và ngày nay ở nước ta của cố
Phó Giáo sư Trần Đình Hượu. Trong đó tác giả đã hệ thống hoá quá trình hình thành và phát
triển của Nho giáo một cách khái quát, phân tích những giá trị truyền thống ảnh hưởng đến
cuộc sống của nhân dân, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo. Từ đó
đưa ra những nhận định đối với sự tồn tại của Nho giáo trong trong lịch sử.
Cuốn: Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam của Đào Duy Anh.
Đây là công trình nghiên cứu công phu, trong đó tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của
Nho giáo trên bình diện chính trị, văn hoá, xã hội và từ đó đưa ra nhận định riêng về ảnh
hưởng của những giá trị Nho giáo đối với văn hóa nước ta.
Cuốn Bàn về Nho giáo của Nguyễn Khắc Viện, trong đó tác giả đã nêu những mặt tích
cực cũng như hạn chế của Nho giáo; Bàn về những điều tâm đắc của mình khi nghiên cứu,
tìm hiểu Nho giáo, đánh giá cao đạo làm người và vấn đề đối nhân xử thế của Nho giáo.
Ngoài ra còn phải kể đến: Nguyễn Đăng Duy với Nho giáo với văn hóa Việt Nam; Vũ
Khiêu với Nho giáo và đạo đức, Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam; Nguyễn Tài Thư với
Nho học và Nho học ở Việt Nam và vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ; Nguyễn Hùng
Hậu với triết lý trong văn hóa phương Đông; Vũ Khiêu với Nho giáo và gia đình; Quang
Đạm với Nho giáo xưa và nay; Hà Thúc Minh với Đạo Nho và văn hóa Phương Đông; Trần
Thị Hồng Thúy với Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt nam truyền
thống.
Bên cạnh việc phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo, nhiều tác giả còn đặt ra vấn đề
kế thừa và phát huy những giá trị tích cực, khắc phục tiêu cực, góp phần xây dựng lối sống
của người Việt Nam hiện nay.
Bài viết của Tiến sĩ Cung Thị Ngọc (1997) "Vấn đề nhận thức trong triết lý nhân sinh
của Trang Tử" Tạp chí Triết học, số 11; "Một vài nét về triết lý nhân sinh của Trang Tử trong
văn hoá phương Đông" Tạp chí Triết học, số 5 (2001). Trong hai công trình trên tác giả đã
phân tích, đánh giá về bản chất, đạo đức, vai trò của con người trong xã hội, vũ trụ, qua đó
chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt giữa triết lý nhân sinh của Trang Tử với hệ thống triết học
đương thời nói riêng và phương Đông nói chung một cách khái quát.
Đề tài khoa học cấp Phân viện (2002): "Ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự nghiệp đổi

mới ở nước ta hiện nay" do Tiến sĩ Vũ Trọng Dung làm chủ nhiệm, trong đó tác giả đã làm rõ
những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự tiếp biến tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam. Tác giả
cũng đã chứng minh những nhận định về ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta trong quá
khứ và hiện tại. Từ đó đưa ra một hệ thống các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận đối
với việc xây dựng con người mới, văn hoá mới trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Luận án tiến sĩ "Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt
Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)" của Nguyễn Thanh Bình, trong đó tác giả đã
phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị xã hội. Các vấn đề được tác giả bàn
đến như: con người, vai trò của con người trong xã hội, xã hội lý tưởng, chuẩn mực đạo đức
dưới góc độ chính trị - xã hội.
Đề tài khoa học cấp Cơ sở (2008): "Vấn đề con người trong các học thuyết Trung Hoa cổ
đại và một số ảnh hưởng của nó trong nền văn hoá Việt Nam" do Tiến sĩ Cung Thị Ngọc làm
chủ nhiệm, trong đó tác giả đã trình bày các tư tưởng về vấn đề con người trong các học
thuyết Trung Hoa cổ đại và đưa ra nhận định để chứng minh sự ảnh hưởng của tư tưởng đó
trong nền văn hoá Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp để kế thừa, phát huy
những giá trị truyền thống trong xã hội ngày nay.
Bài viết "Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị nhân sinh truyền thống Việt
Nam trong cuộc sống xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện
nay" (2008) của Phó Giáo sư, tiến sĩ Lê Bỉnh. Tác giả đã đưa ra một số các giải pháp nhằm kế
thừa và phát huy giá trị nhân sinh truyền thống Việt Nam một cách khái quát trên luận điểm
triết học Mác - Lênin, trong đó có sự kết hợp phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và công bằng
xã hội; chăm lo giáo dục, đạo đức cách mạng, giáo dục thẩm mỹ làm trọng tâm. Đây là những
giải pháp mang tính vĩ mô mà tác giả đề xuất trong bài viết của mình.
Bên cạnh đó cần phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả đánh giá rất cao
vai trò của Nho giáo cổ đại, trong đó đã đề cập ở mức độ khác nhau về triết lý nhân sinh và
ảnh hưởng của nó đến lối sống con người Việt Nam, như: Trần Văn Phòng, Nguyễn Trọng
Chuẩn, Nguyễn Lan Hương, Doãn Chính, Nguyễn Tài Đông, Lê Văn Quán, Nguyễn Bằng
Tường, Nguyễn Hữu Vui, Ngô Ngọc Thắng, Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thị Minh Tâm, Lê Thị
Thuỷ, Vũ Văn Hậu Các công trình nêu trên được tôi kế thừa và sử dụng như là chất liệu, là
những ý kiến gợi mở cho sự nghiên cứu của mình.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu của luận văn
Làm rõ những nội dung cơ bản triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy; Chỉ ra những giá
trị, hạn chế và ảnh hưởng của nó; Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá
trị nhân sinh Nho giáo trong quá trình xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
Một là, hệ thống hoá những triết lý nhân sinh Nho giáo thông qua tư tưởng Khổng –
Mạnh.
Hai là, phân tích, đánh giá và chứng minh những ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho
giáo trong lịch sử ở nước ta.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị nhân sinh Nho giáo đối với
lối sống của người Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Trải qua quá trình phát triển lâu đời, ở Trung Hoa cổ đại đã hình thành nên hệ thống triết
học với nhiều trường phái khác nhau, hàm chứa những giá trị triết lý nhân sinh rất sâu sắc.
Với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ triết học, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những nội dung
cơ bản về triết lý nhân sinh Nho giáo
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chủ yếu những triết lý nhân sinh trong Nho giáo nguyên thủy đến
thời Hán Nho.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá, chứng minh những triết lý nhân
sinh Nho giáo nguyên thủy và mức độ ảnh hưởng của nó.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó chủ
yếu vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp
khác, như: hệ thống, phân tích, so sánh, đối chiếu nhằm tái hiện lại một cách chân thực và

đánh giá khách quan những triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về triết lý nhân sinh Nho giáo một cách có
hệ thống.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc kế thừa, phát huy những giá trị
nhân sinh Nho giáo vào xây dựng con người, gia đình văn hoá ngày nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
về môn Lịch sử triết học - phần lịch sử phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương,
6 tiết:
Chƣơng 1: Quá trình hình thành và nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo.
Chƣơng 2: Ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt
Nam.
Chƣơng 3: Giải pháp phát huy những giá trị tốt đẹp của triết lý nhân sinh Nho giáo đối
với lối sống của người Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO
1.1. Quá trình hình thành và biến đổi của Nho giáo
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
- Về mặt xã hội: Xuân Thu - Chiến Quốc là hai giai đoạn lịch sử của xã hội Đông Chu.
Sau khi Chu Bình Vương lên ngôi do thế và lực không đủ sức chống cự lại sự xâm lược của
giặc ngoại tộc, nên đã dời đô từ Hạo Kinh về Lạc Ấp. Lúc này, nhà Chu không thể giữ được
chế độ cai trị như cũ. Các nước chư hầu không phục tùng vương mệnh, cống nạp mà còn lộng
quyền xưng danh nhà Chu để thôn tính lẫn nhau. Xuân Thu (770 - 403 tr.CN) có hơn một
trăm nước, đến thời Chiến Quốc (403- 221 tr.CN) còn có bảy nước, trong đó Tần là quốc gia
hùng mạnh nhất.
- Về mặt kinh tế: Trong nông nghiệp việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng rộng rãi;
Quan hệ trao đổi sản phẩm lao động xã hội được lưu thông; tiểu, thủ công nghiệp ngày càng

mở rộng. Sự phát triển của các ngành, nghề này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở hữu
đất đai của nhà nước. Chế độ tư hữu ruộng đất được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
- Về mặt chính trị: Một lực lượng kinh tế tư hữu mới ra đời là một thế lực đối chọi với
chế độ công hữu đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là lực lượng chính trị
mới - Thế lực địa chủ ở các địa phương thuộc các nước chư hầu nhà Chu. Xu hướng chính trị
của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung uy quyền và mở rộng sự bành trướng
thống trị.
- Về mặt tư tưởng, văn hóa: Những tác phẩm có giá trị văn hóa lớn như: Kinh thi gồm
305 bài thơ mang tính tập thể của nhiều thế hệ, của nhiều tầng lớp khác nhau, nó phản ánh
các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó còn có bộ Sở từ. Đó là tác phẩm
của Khuất Nguyên (343 – 227 tr.CN) – là tập dân ca của nước Sở, trong đó thể hiện tình cảm
yêu nước thương dân, sự bình dị gần gũi với nhân dân lao động của Khuất Nguyên. Chính
những tác phẩm trên chứa đựng tri thức về văn hóa làm chất liệu xây dựng nên nền móng cho
sự nảy nở tư tưởng triết lý nhân sinh Nho giáo.
Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ của bách gia chư tử, bách gia tranh minh. Chính trong
quá trình trăm nhà cùng tranh luận, nó đã đẻ ra nhiều tư tưởng vĩ đại, trên các lập trường của
các giai tầng khác nhau. Đó là bối cảnh góp phần hình thành nên hệ thống lý luận của các nhà
tư tưởng Trung Hoa cổ đại.
1.1.2. Sự hình thành và biến đổi của Nho giáo
Trong bối cảnh loạn lạc, sự sa đọa của các thế lực cầm quyền khiến cho danh và thực
không chính và thuận, kỷ cương, phép nước, trật tự xã hội bị đảo lộn, nhất là nghi lễ truyền
thống của nhà Chu. Nhằm duy trì địa vị của giai cấp quý tộc thống trị và lễ nghĩa của nhà
Chu trong xã hội, Nho giáo ra đời mà Khổng Tử (551 – 479 tr.CN) là người khởi xướng. Đó
là một hệ thống học thuyết, đạo lý bảo vệ và củng cố sự phục hồi chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa của chế độ chiếm hữu nô lệ nhà Chu.
Dưới thời nhà Hán năm 206 tr.CN Nho giáo được lựa chọn và sử dụng như là vũ khí tinh
thần và nó có vị trí, vai trò cao nhất so với Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thời kỳ này được
nhấn mạnh ở tư tưởng thiên mệnh, nghĩa, lễ ở tinh thần phục tùng của bề dưới đối với bề trên.
Dưới triều đại nhà Đường thì Nho giáo không chiếm vị trí trọng tâm trong xã hội mà
nhường chỗ cho Phật giáo. Đến thời nhà Tống Nho giáo lại chiếm một vị trí cao nhất trong xã

hội. Hán Dũ kêu gọi các nhân sĩ trở về với tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử, đề cao Mạnh
Tử và trở thành ngọn cờ tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Từ thế kỷ XII, đời nhà
Tống, dòng tư tưởng này được các nhà Nho phát triển, nổi bật là hai anh em Trình Hạo (1032
- 1085), Trình Di (1033 - 1107). Nho giáo cho đến thời kỳ này đã trở thành một hệ thống triết
học, chính trị, đạo đức, xã hội hoàn chỉnh.
Dưới triều đại Nguyên Mông thống trị Trung Hoa, Nho giáo vẫn được suy tôn, được thể
hiện ở công việc giảng đạo và thi cử. Đến đời nhà Minh khoảng thế kỷ XVI thì Nho giáo
được phát triển và biến đổi theo hướng duy tâm cực đoan. Đến đời nhà Thanh, xã hội có
nhiều thay đổi, văn hóa Trung Hoa và văn hóa phương Tây có sự giao thoa, nên Nho giáo
không được đề cao trong xã hội.
1.2. Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo
1.2.1. Khái niệm về triết lý
Theo tác giả Nguyễn Tất Thịnh thì triết lý được hiểu: Là những điều được rút tỉa bởi trải
nghiệm, như một quan niệm nền tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn nhận điều gì là nguồn cội tâm
thế, giá trị tinh thần, sức mạnh ứng xử được phát biểu ngắn gọn, xúc tích - Như một tín điều,
làm kim chỉ nam cho cách xử thế, hành động hay lối sống của một cá nhân hay một cộng
đồng. Triết lý biểu hiện dưới khía cạnh:
- Con người có sự suy tư duy nhất trong mục đích của mình.
- Con người biết suy tư, đó là niềm tự hào của nhân loại.
- Sự bế tắc của con người trong suy tư.
1.2.2. Khái niệm về nhân sinh
Nhân sinh không chỉ bao gồm cuộc sống của con người và sinh mệnh của con người mà
gồm cả nhân tính nữa. Nhân sinh được biểu hiện ở khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là yếu tố cơ bản duy trì sự sinh tồn
của con người.
Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc sống không chỉ là làm tốt cho mình
mà còn làm cho cả nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội tâm và cuộc
sống ngoại tâm, cũng có thể gọi là đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
Thứ ba, phương hướng của con người, hướng về một mục tiêu nhất định.
1.2.3. Về cái sống và cái chết

Khổng Tử là người đã đặt cái sống trong quan hệ với cái chết. Đạo Khổng hướng về sự
sống chứ không phải hướng về cái chết. Tuy nhiên, khi phải đến với cái chết thì đạo Khổng
luôn khuyên người ta tìm cái bất tử, tìm cái vĩnh hằng trong cái chết.
Mạnh Tử cũng trình bày quan niệm của ông về sống - chết một cách hết sức rõ ràng:
“Sống là điều mà ta muốn, việc nghĩa cũng là điều mà ta muốn. Nếu không thể làm được cả
hai điều đó thì ta bỏ sống để theo nghĩa. Sống cũng là điều mà ta muốn, nhưng cái mà ta
muốn lại còn hơn cả sống, cho nên ta không tham sống một cách cẩu thả. Chết là cái mà ta
ghét, nhưng cái mà ta ghét còn hơn cả cái chết, cho nên gặp hoạn nạn ta không hề trốn tránh”.
1.2.4. Về bản tính con người
Khổng (551 - 479 tr.CN)- Mạnh (317 - 298 tr.CN) cho rằng, bản tính của con người do
trời sinh ra, nó vốn là thiện. Cái thiện được biểu hiện ở nhân - nghĩa - lễ - trí.
Còn Tuân Tử (298 – 238 tr.CN) cho rằng, bản tính con người là ác. Ông đã luận giải ác là
vì con người ta ai cũng có lòng ham lợi, ai cũng có dụng vọng. Đó là nguồn gốc của mọi tội
ác. Bản tính của con người cũng có thể thay đổi và cải tạo được. Đó là nhờ vào sự giáo hóa.
1.2.5. Về đạo đức
Các phạm trù nhân - nghĩa - trí - dũng - trung - hiếu luôn luôn xuyên suốt trong triết lý về
đạo đức Nho giáo. Trong đó, nhân là làm ơn cho người khác, là yêu người, yêu mọi người,
nghĩa là quyết đoán hợp lẽ phải, là nên làm, thích hợp là làm. Trí là tri nhân, dũng là hành
nhân, làm điều có nhân, có hậu. Trung là trung với vua, là sự bền vững của xã tắc. Hiếu là
kính thờ, phụng dưỡng cha mẹ, anh em có quan hệ tốt với nhau, hiếu cũng là nguồn gốc của
nhân luân. Nho giáo quan niệm, chỉ có hiếu thì mới hữu ái; Từ hiếu thảo với cha mẹ thì mới
có thể chuyển lòng hiếu thảo ấy thành lòng trung đối với vua, hòa thuận với anh em thì có thể
chuyển hết hòa thuận ấy thành lòng kính thuận đối với bậc tôn trưởng.
1.2.6. Về hình mẫu con người
Quân tử là mẫu người lý tưởng về phẩm chất đạo đức xã hội và tư cách của người cầm
quyền, ở họ hội tụ đủ nhân - nghĩa - lễ - trí - tín; Là người nắm được thời mệnh, sống theo
mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn, cẩn trọng. Họ có trách nhiệm kính
trên nhường dưới, sống thân ái, hòa đồng với mọi người.
1.2.7. Về sự tự học, trau dồi kiến thức cho bản thân
Nho giáo đề cao việc học tập, trau dồi kiến thức đối với bản thân. Theo Khổng Tử, con

người sinh ra vốn giống nhau, nhưng do việc học tập và tự rèn luyện khác nhau mà dẫn đến
sự phân biệt người này với người kia. Tuy nhiên, việc học ở đây là cải tạo “cái đạo” của con
người cho hòa thuận với tự nhiên.
Học để làm quan, tham gia gánh vác công việc đại sự của quốc gia, để được thực hành
những cái mà mình đã được học. Đặc biệt đối với người quân tử trước tiên là phải biết tu trí,
tu thân. Không tự tu được thân, không thể giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận của
mình với thiên hạ.
Như vậy, theo nghĩa nào đó học ở đây là đến gần với trí, nếu không học và tự học thì dù
có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, cuồng bạo làm biến bản chất
của con người, con người sẽ tự đánh mất mình và trở thành nô lệ của chính mình.
1.2.8. Về giáo dục, phương pháp giáo dục
Giáo dục ở đây theo Nho giáo là giáo dục tâm tính, giáo dục thực hành và giáo dục nhân
cách. Trong đó, giáo dục tâm tính và giáo dục nhân cách có quan hệ gần gũi nhau, chúng đều
thuộc về lĩnh vực giáo dục đạo đức phẩm cách cho dân chúng. Giáo dục điều thiện cho dân
để dân không làm điều ác, không phạm tội. Giáo dục theo phương pháp:
+ Người học phải ham hiểu biết, phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận
thức. Người dạy phải dạy phương pháp để người học tự mình tìm đến tri thức, học phải đi đôi
với hành.
+ Học trong sách vở, học thầy, học trong cuộc sống.
+ Học theo phương pháp tiên vương.

Chƣơng 2
ẢNH HƢỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM
2.1. Con đƣờng du nhập và sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo
2.1.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo vào Việt Nam bằng những con đường khác nhau: Thông qua con đường của
những đoàn quân xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo cổ đại; Thông qua con đường
truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan chức người Trung Quốc được các triều đình
phong kiến Trung Quốc phái sang thực hiện ách thống trị ở Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc;

Thông qua con đường giao thương theo đường biển; Thông qua con đường của những cư dân
tự do người Trung Quốc bất mãn với triều đình phong kiến Trung Quốc, có hành động chống
lại triều đình, nên đã di cư vào Việt Nam sinh sống. Trong số các con đường trên thì truyền
giáo có tổ chức của đội ngũ quan lại người Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc là con đường
cơ bản và chủ yếu.
2.1.2. Sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo
Nho giáo – những tư tưởng nhân sinh của nó chính thức được đón nhận từ triều đại nhà
Lý. Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo được người Việt tiếp biến một cách sáng tạo, nó
được thể hiện trên các giá trị:
- Về đạo đức cá nhân, gia đình và các mối quan hệ làng xã, cộng đồng.
- Những vấn đề dựng nước và giữ nước.
- Vấn đề xây dựng nhà nước để tổ chức và điều khiển công cuộc xây dựng nhà nước và
giữ nước.
- Về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín…
2.2. Một số ảnh hƣởng của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của ngƣời Việt
Nam
2.2.1. Trong quan niệm về cuộc sống, tổ tông và con cháu
Xã hội Việt Nam từ xa xưa đã được kết cấu theo mô thức gia đình, họ hàng, làng nước.
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, người Việt đã có truyền thống cúng giỗ tổ tiên. Đó là
biểu hiện huyết thống, huyết thống càng đậm đà bao nhiêu thì vương triều càng bền vững bấy
nhiêu. Từ đó, huyết thống cũng là tiêu chuẩn để xác định mức độ đậm nhạt, xa gần của đạo
đức nhân ái.
Vấn đề trường tồn của dòng họ, của tổ tông nhỏ quan trọng thì vấn đề trường tồn của
dòng họ lớn, của đại tổ tông càng quan trọng biết nhường nào. Hầu như, đó là điểm đồng quy
của tất cả những tư tưởng, mong ước trong lịch sử Việt Nam. Từ Lý Công Uẩn, Trương Hán
Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu… Những nhà Nho đó dẫu
thuận hay nghịch cảnh, đều đã trở thành bất tử. Triết lý nhân sinh của Nho giáo mang màu
sắc Việt Nam đã hun đúc cho họ thêm sức mạnh để “cùng trời đất cửu trường” và “tính kế
muôn đời cho con cháu” mai sau có được cuộc sống bình yên. Cho nên, người Việt không hề
do dự hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn với tự nhiên cũng như chống giặc ngoại xâm

giành độc lập xây dựng cơ đồ cho muôn đời sau.
2.2.2. Trong quan hệ coi trọng sự ổn định cộng đồng, xã hội
Đối với Việt Nam thì từ thời dựng nước cha ông ta luôn mong ước sự ổn định để phát
triển. Chỉ trên cơ sở ổn định, người Việt mới có điều kiện cố kết với nhau để tạo nên sức
mạnh đoàn kết của cả cộng đồng trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, lũ lụt và chống giặc
ngoại xâm. Hơn nữa, những tư tưởng nhân sinh Nho giáo không những được dùng làm vũ khí
tinh thần để duy trì sự ổn định nơi triều đình mà còn vừa ổn định nơi dân cư tạo nên sự gắn
bó trung thành của tổ chức bộ máy cai trị với triều đình và sự gắn bó của từng cá nhân với
cộng đồng xã hội. Về lối sống thì coi trọng và trọng vọng những quan lại có lối sống, việc
làm có đạo đức, biết đề cao chuẩn mực đạo đức cao hơn chuẩn mực tài năng. Về quan hệ láng
giềng thì các triều đại phong kiến luôn thực hiện chính sách thân thiện, không xâm hại đến
nhau.
2.2.3. Trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội
Người Việt sống hài hòa cho nên trong quan hệ gia đình và xã hội luôn man tính mềm
dẻo linh hoạt thể hiện truyền thống coi trọng tình người, coi trọng quan hệ bình đẳng giữa các
thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. Thực tế, người Việt chỉ sử dụng chữ trung trong
những tình cảnh mà tôn vinh cho những ông vua anh minh hết lòng vì dân, vì nước chứ
không dung thứ cho những vị vua thiếu tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và không có khả
năng trị vì đất nước. Hiện nay, mối quan hệ cha – con, người Việt cũng không đề cao vị trí,
vai trò của người cha đến thái quá làm cho người cha biến thành gia trưởng mà luôn luôn đặt
vị trí, vai trò công lao của người cha và người mẹ ngang bằng nhau giúp đỡ lẫn nhau.
2.2.4. Trong tư tưởng lấy dân làm gốc
Triết lý coi trọng dân được tiếp biến trong điều kiện, hoàn cảnh của xã hội Việt Nam,
luôn được gắn với truyền thống yêu nước, thương nòi, coi trọng tính cộng đồng và luôn được
các triều đại phong kiến hưng thịnh hết sức quan tâm. Sự quan tâm đó được thể hiện ở mối
quan hệ gắn bó giữa triều đình với nhân dân như cá với nước và sức mạnh của nhân dân luôn
luôn được thể hiện thông qua những cuộc chiến tranh giữ nước, đồng thời sau mỗi thắng lợi
đã giành được, các triều đại phong kiến Việt Nam đều có chính sách khoan thư sức dân; miễn
thuế cho dân ở những nơi gặp khó khăn trong nhiều năm và tạo điều kiện cho dân phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần thông qua khai khẩn đất hoang, mở trường,

mở lớp để nâng cao dân trí cho dân.
2.2.5. Trong quan niệm về nhân ái
Khi du nhập vào Việt Nam triết lý về lòng nhân ái đã thấm sâu trong các quan hệ từ quan
hệ trong gia đình đến xóm làng, cộng đồng xã hội. Trong nhân ái của người Việt thì chữ tình
và chữ nghĩa được đề cao Nhân ái không những chỉ biểu hiện trong đời sống vợ chồng, biểu
hiện trong quan hệ gia đình mà còn biểu hiện trong quan hệ làng xóm, láng riêng với nhau.
Hơn nữa, lòng nhân ái không chỉ bó hẹp trong cộng đồng người Việt mà cả với kẻ thù đi xâm
lược.
2.2.6. Trong quan niệm về giáo dục, nuôi dưỡng con người
Giáo dục để cho con người sống có nhân, sống một cách khiêm tốn, biết nhường nhịn,
không tham lam, không đòi hỏi, không cạnh tranh, chăm làm điều lành và khoan thứ. Giáo
dục và nuôi dưỡng con người để cho con người biết đạo làm người, thái độ ứng xử của con
người với gia đình, bạn bè và xã hội. Người Việt thừa nhận việc cần thiết giáo dục văn và hạnh,
lấy việc nêu gương từ nhân cách của người dạy làm cốt lõi. Giáo dục là đào tạo con người toàn
diện về văn, hạnh, mặt khác giáo dục là để xã hội có phong tục tốt đẹp, trật tự trên dưới ổn
định.
2.2.7. Những hạn chế và tiêu cực của triết lý nhân sinh Nho giáo
- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo lại quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương
nghiệp, quá chú trọng đến việc tự cung, tự cấp mà quên đi sự trao đổi mua bán, kìm hãm tính
năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị.
- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt
hơn dẫn đến cái mới ưu việt hơn bị tiêu diệt. Những tư tưởng nhân sinh đưa con người hướng
đến cái nội tâm, mà không hướng con người ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên và cải tạo thiên nhiên.
- Vấn đề trọng nam khinh nữ, hướng về với quá khứ và cho rằng đời này không bằng đời
xưa cả về kinh nghiệm lẫn tri thức.

Chƣơng 3
GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP
CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO ĐỐI VỚI LỐI SỐNG

CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Hƣớng tiếp cận kế thừa, phát huy những giá trị triết lý nhân sinh Nho giáo
Thứ nhất, kế thừa có chọn lọc để phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét về bản
chất, kế thừa có chọn lọc những giá trị nhân sinh Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới đất nước
chính là quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái truyền thống và cái hiện đại.
Cái truyền thống nói chung, trong đó có những giá trị nhân sinh Nho giáo, nó đóng vai trò là
hình thức trung gian quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội, là cái chứa đựng
trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Trong quá khứ cũng như hiện
tại, những giá trị nhân sinh không chỉ là cái phát sinh, phản ánh những điều kiện kinh tế xã
hội mà nó còn là động lực nội sinh của sự phát triển. Kế thừa có chọn lọc trước hết là để xây
dựng lối sống của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, sau đó là để phục vụ cho định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chúng ta cần phải có quan điểm biện chứng trong việc khai
thác các giá trị nhân sinh Nho giáo.
Thứ hai, kế thừa gắn liền với đổi mới phát triển, phát triển phải dựa trên những chuẩn
mực mới. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kế thừa trong lĩnh vực tự nhiên,
xã hội hay tư duy, bao giờ cũng gắn với những biến đổi về chất, vì nó là mắt khâu trong quá
trình phát triển, thể hiện mối liên hệ tất yếu giữa cái cũ và cái mới. Xã hội chủ nghĩa khác cơ
bản về chất so với xã hội phong kiến. Những giá trị nhân sinh mà có tác dụng thúc đẩy và ảnh
hưởng lớn đến định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó cần phải được xây dựng trên cơ sở chuẩn
mực mới - Tức là xuất phát từ những giá trị có ý nghĩa đối với cá nhân, dân tộc và cả loài
người.
Thứ ba, kế thừa phát triển, tiếp thu tinh hoa giá trị nhân sinh, là sự biểu hiện sâu sắc của
văn hóa, sự phát triển của tư tưởng nhân sinh Việt Nam không nằm ngoài quy luật phát triển
của văn hóa. Chúng ta đang sống trong thời đại của quá trình toàn cầu hóa, có sự tiếp biến về
những giá trị văn hóa nói chung và những giá trị nhân sinh nói riêng là tất yếu. Bao giờ cũng
vậy, sự tiếp biến đó là một quá trình có lọc bỏ và tiếp thu. Đây là vấn đề có tính quy luật. Để
kế thừa và tiếp thu những giá trị nhân sinh Nho giáo một cách hợp lý, chúng ta phải chủ động
xây dựng những chuẩn mực giá trị nhân sinh mới, có tính định hướng đúng trong các chính
sách kinh tế xã hội, tạo ra môi trường văn hóa, lối sống lành mạnh. Đó chính là động lực góp
phần xây dựng lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị triết lý nhân sinh Nho
giáo
- Đề cao tinh thần tự học, coi trọng hiền tài, coi trọng việc dạy và học theo tinh thần "học
không biết chán, dạy không biết mỏi"
- Đề cao sự tu dưỡng, rèn luyện và trau dồi đạo đức cá nhân
- Phát huy tư tưởng đề cao đạo đức, giáo dục từ gia đình
- Phát huy truyền thống yêu nước, thương nòi
- Cần phải nâng cao kỷ cương phép nước, trú trọng quy ước cộng đồng
- Xây dựng mẫu người lý tưởng làm mục tiêu phấn đấu cho mọi người
- Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở đảm bảo cho các thành viên trong gia đình bình
đẳng với nhau
- Nâng cao vai trò của pháp luật với việc giáo dục đạo đức trong đời sống xã hội

KẾT LUẬN
Khi tìm hiểu toàn bộ hệ thống triết lý nhân sinh Nho giáo trong một số học thuyết triết
học tiểu biểu Trung Hoa cổ đại, ta có thể thấy, vấn đề được các hiền triết quan tâm nhất, tập
trung nhất là vấn đề thuộc về con người. Tuy, nó có sự khác nhau về tính chất, nhưng tư
tưởng chủ đạo xuyên suốt từ đầu đến cuối thể hiện rõ ràng con người luôn luôn là trung tâm
của xã hội và vũ trụ.
Với tinh thần khách quan khoa học, chúng ta cần phải suy nghĩ sâu sắc hơn để khai thác
những giá trị nhân sinh Nho giáo trong cuộc sống hội nhập quốc tế. Vậy, chúng ta khai thác
như thế nào?. Ở đây, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa
quá khứ - hiện tại - tương lai. Truyền thống là cơ sở của hiện đại và hiện đại không xoá sạch
truyền thống; đồng thời cái truyền thống chỉ tồn tại khi nó được chọn lọc, kế thừa, phát huy
thông qua cái hiện tại.
Trong quá trình hội nhập, chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế đó là những giá trị
nhân sinh tốt đẹo của dân tộc đang có nguy cơ mai một dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc
văn hoá. Chính vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải chọn
lọc, kế thừa và phát huy những giá trị nhân sinh truyền thống của dân tộc nói chung của Nho
giáo nói riêng làm vốn trong thời kỳ hội nhập. Đây là yêu cầu bức thiết cần phải được các

ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là cách thức giáo dục của mỗi gia đình và ý thức của
mỗi cá nhân con người tự giác để góp phần xây dựng lối sống mới của con người Việt Nam.


References
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1950), Luận ngữ, Nxb. Sài Gòn.
3. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1950), Tứ thơ, Hạ Mạnh Tử, in tại nhà in Tứ Đức Tòng
Thơ, Nxb. Sài Gòn.
4. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1950), Tứ thơ, Thượng Mạnh Tử, in tại nhà in Tứ Đức
Tòng Thơ, Nxb. Sài Gòn.
5. Lê Kiến Cầu (2008), Triết lý nhân sinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Chú (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh từ truyền thống dân tộc và
nhân loại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Vũ Trọng Dung (2002), Ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay, Đề tài cấp Phân viện, Phân viện Hà Nội.
8. Hồ Ngọc Đại (1991), “Dám hỗn”, Tạp chí Thế giới mới, (6).
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V BCH Trung ương khoá
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Hiến Lê - Thiên Giang (1996), Lịch sử thế giới, Nxb. Văn hóa Thông tin.
12. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Phạm Minh Hạc (1997), “Giáo dục nhân cách - Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo
dục”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (6).
14. Chu Hi (1998), Tứ thư tập chú, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
15. Hồ Sỹ Hiệp (biên soạn, 1996), Luận ngữ thánh kinh của người Trung Hoa, Nxb. Đồng
Nai.
16. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn học, Hà Nội.

17. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb. Văn học,
Hà Nội.
18. Vũ Ngọc Khánh (1995), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng tám
- 1945, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
19. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Trần Trọng Kim (1992), Đại cương triết học Trung Quốc Nho giáo, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
21. Phạm Đăng Hùng, Lê Công Lai (1996), Lịch sử triết học Phương Đông, in tại xưởng in
trường Đại học Giao thông vận tải, Hà Nội.
22. Nguyễn Hiến Lê (1991), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa Thông tin.
23. Nguyễn Hiến Lê (dịch và giới thiệu, 1995), Luận ngữ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
24. Thanh Lê (2002), Xã hội học gia đình, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
25. Hồ Chí Minh (1981), Tuyển tập, Tập 4, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, Tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hà Thúc Minh, "Nho giáo Việt Nam và triết lý nhân sinh", www.hcmussh.edu.vn
34. Hà Thúc Minh (1995), “Khổng giáo và vấn đề gia đình”, Tạp chí Giáo dục sáng tạo,
(Xuân Ất Hợi).
35. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý hiện nay, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
36. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm (1978), Quyển 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Cung Thị Ngọc (2008), Vấn đề con người trong các học thuyết Trung Hoa cổ đại và
một số ảnh hưởng của nó trong nền văn hóa Việt Nam, Đề tài cấp cơ sở, Học viện

Chính trị - Hành chính khu vực I, Hà Nội.
38. Ngữ văn Hán Nôm (2002), Tứ thư, Luận ngữ, quý thị, 10, tập 1, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
39. Đoàn Quang Thọ, Phạm Văn Sinh (1997), Đại cương lịch sử triết học, Nxb. Thống kê,
Hà Nội.
40. Lê Sỹ Thắng (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
41. Lê Sỹ Thắng (1993), Nho giáo ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
42. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
43. Nguyễn Tất Thịnh (2010), Triết lý sống,
44. Từ điển (2001), Nho, Phật, Đạo, Nxb. Văn học, Hà Nội.
45. Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Thư dụ hàng thành Bình Than, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
46. Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Bình Ngô đại cáo, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Hữu Vui (1991), Lịch sử triết học, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
48.



×