1
Vận dụng các giá trị trong tư tưởng về giáo dục
của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở
nước ta hiện nay
Đặng Hồng Hà
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Chuyên ngành: Triết học; Mã số: 60.22.80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Công Nhất
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng giáo dục của Nho giáo thông
qua một số triết gia tiêu biểu, từ đó đánh giá những mặt tích cực cũng như hạn chế trong tư
tưởng giáo dục của Nho giáo. Chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất một số định hướng vận
dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối với việc phát triển giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.
Keywords. Triết học phương Đông; Nho giáo; Tư tưởng triết học; Giáo dục
Content.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hóa lớn, rực rỡ và phong phú nhất của
nền văn minh phương Đông. Tư tưởng triết học Trung Quốc từ lâu đã khẳng định được vị
trí của mình trong tiến trình phát triển chung của lịch sử tư tưởng nhân loại với những tên
tuổi của các nhà triết học nổi tiếng. Nho giáo là một trong những học thuyết triết học và
chính trị xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại. Mặc dù ra đời từ rất sớm
nhưng Nho giáo đã dành sự quan tâm đặc biệt đến con người, đặc biệt là vấn đề giáo dục
con người. Đây là một trong những nội dung triết học chủ yếu và nổi bật nhất của Nho
giáo. Vì vậy, những tư tưởng triết học của Nho giáo nói chung và tư tưởng về giáo dục con
người nói riêng có một ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị - xã hội của Trung
Quốc.
Nho giáo du nhập vào nước ta được khoảng 2000 năm và đã có những ảnh hưởng to
lớn đối với xã hội và con người Việt Nam. Với hơn nghìn năm Bắc thuộc, tư tưởng giáo
dục Nho giáo đã để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống chính trị - xã hội, đặc biệt là trong
cách thức giáo dục của nước ta suốt chiều dài lịch sử. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng
giáo dục của Nho giáo có ý nghĩa lý luận to lớn đối với những người nghiên cứu và giảng
2
dạy triết học ở Việt Nam hiện nay. Đó là cách mỗi chúng ta học tập, kế thừa những giá trị
trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng và kế thừa những tinh hoa tinh thần của
nhân loại nói chung.
Cho đến nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đó trải qua hơn hai mươi năm và đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước ta hiện nay, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; công tác giáo dục và đào
tạo đã và đang được đặt lên hàng đầu bởi việc phát triển giáo dục - đào tạo trực tiếp giúp
con người nâng cao trí tuệ, hiểu biết và khả năng vận dụng tri thức khoa học kỹ thuật vào
sản xuất để không ngừng phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân tiến tới thực hiện các mục tiêu cao cả mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Vì
vậy, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Kế thừa tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là
đầu tư phát triển”. Bởi vậy, giáo dục và đào tạo đang trở thành một trong những vấn đề
cấp thiết ở nước ta hiện nay. Trước thực trạng nền giáo dục Việt Nam trong những năm
gần đây đang gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc, cũng không tránh khỏi những thiếu
sót, bất hợp lý khiến nhiều người cho rằng nền giáo dục nước ta hiện nay đang gặp phải
“khủng hoảng trầm trọng”. Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là cần đưa ra những
giải pháp nhằm góp phần xây dựng và phát triển nền giáo dục nước ta. Để làm được điều
đó, một trong những việc không thể bỏ qua là cần phải nghiên cứu tư tưởng giáo dục của
các bậc tiền bối trong lịch sử để kế thừa những tinh hoa trong quan điểm giáo dục của họ.
Đứng trên quan điểm lịch sử - cụ thể, tư tưởng giáo dục của Nho giáo tuy có nhiều
điểm hợp lý, tích cực nhưng không tránh khỏi những yếu tố hạn chế, không còn phù hợp
với thực tiễn nước ta hiện nay. Với chặng đường khoảng 2000 năm du nhập vào nước ta,
tư tưởng giáo dục nói riêng và tư tưởng triết học của Nho giáo nói chung có nhiều bước
thăng trầm, thịnh suy. Có thời kỳ, Nho giáo được đề cao, độc tôn nhưng có những lúc,
Nho giáo đã bị bài xích, xóa bỏ. Thời gian gần đây có nhiều ý kiến trái ngược nhau khi
đánh giá về tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp phát
triển giáo dục ở nước ta hiện nay. Có ý kiến cho rằng cần khôi phục những tư tưởng giáo
dục của Nho giáo nhưng cũng có ý kiến cho rằng cần xoá bỏ nó trong thời đại ngày nay vì
nó đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp nữa. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá tư tưởng
giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta
3
hiện nay là một vấn đề cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn đáp ứng những yêu
cầu, đòi hỏi của thực tiễn phát triển giáo dục của nước ta hiện nay. Với những ý nghĩa như
vậy, chúng tôi chọn vấn đề: “Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài này, chúng tôi đã được tiếp xúc với một
nguồn tài liệu bằng tiếng Việt rất phong phú. Những tài liệu được chúng tôi đưa vào trong
danh mục tài liệu tham khảo dù ít dù nhiều đều liên quan đến nội dung của luận văn nên
được chúng tôi sử dụng ở những mức độ khác nhau. Nguồn tài liệu phong phú đó được
chúng tôi phân loại thành ba mảng đề tài nghiên cứu như sau:
Mảng thứ nhất: Những tài liệu nghiên cứu về triết học Trung Hoa cổ đại nói chung và
tư tưởng triết học của các nhà Nho nói riêng. Đây là một mảng đề tài có rất nhiều tài liệu,
là những công trình nghiên cứu công phu của các nhà nghiên cứu về triết học Trung Quốc
nổi tiếng ở Việt Nam như: Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung
Quốc, (tập 1 và tập 2); Doãn Chính (2002), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc; Cao
Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu…
Đây là những cuốn sách đã trình bày một cách rất cụ thể những điều kiện, hoàn cảnh ra đời
của triết học phương Đông nói riêng và triết học Nho giáo nói chung. Đây là nguồn tài
liệu rất quan trọng đối với chúng tôi trong khi nghiên cứu đề tài này vì nó giúp chúng tôi
có cái nhìn lịch sử - cụ thể về sự ra đời của những tư tưởng triết học thuộc trường phái
Nho gia. Bên cạnh những tài liệu có tính chất chung, ở mảng đề tài này, chúng tôi còn có
điều kiện tiếp xúc với những cuốn sách viết trực tiếp về những tư tưởng triết học của các
nhà Nho như: Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo; Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và
nay; Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam; Phạm Văn Khoái (2004),
Khổng phu tử và Luận ngữ; Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử; Nguyễn Hiến Lê (1993),
Mạnh Tử; Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1994), Tuân Tử… Đây là những cuốn sách đã bàn
đến một cách rất cụ thể những tư tưởng triết học của Nho giáo nói chung và tư tưởng triết
học của ba nhà triết học tiêu biểu của trường phái này là Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử.
Đặc biệt là hai cuốn sách: Tứ thư tập chú của Chu Hi (1998) do Nguyễn Đức Lân dịch;
Luận ngữ (1950), Đoàn Trung Còn dịch đã diễn giải một cách cụ thể rất nhiều quan điểm
của Khổng Tử cũng như các nhà Nho về triết học nói chung và giáo dục nói riêng. Những
tài liệu này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong việc thực hiện đề tài.
Mảng thứ hai: Những tài liệu nghiên cứu về ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho
giáo với văn hóa Việt Nam nói chung và giáo dục nói riêng. Vì tư tưởng giáo dục của Nho
giáo có ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc đối với xã hội Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử
từ thời Bắc thuộc đến nay nên vấn đề này được rất nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng ở nước
4
ta quan tâm. Vì vậy, khi tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cũng có điều kiện được tiếp xúc
với rất nhiều cuốn sách, nhiều bài báo, tạp chí như: Lê Ngọc Anh (1999), Về ảnh hưởng
của Nho giáo ở Việt Nam; Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mối
quan hệ xã hội và ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay; Phan Đại Doãn
(1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam; Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt
Nam; Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử… Những công
trình nghiên cứu trên đã trình bày ở những góc độ khác nhau ảnh hưởng của Nho giáo đối
với văn hóa xã hội Việt Nam nói chung và nền giáo dục, thi cử trong thời kỳ phong kiến.
Ở mảng đề tài này, chúng tôi được tiếp xúc với ba công trình nghiên cứu một cách công
phu, kỹ lưỡng ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo đối với con người và việc đào tạo con
người Việt Nam như: Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Quan niệm nho giáo về con người,
về giáo dục và đào tạo con người; Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm
của Nho giáo về giáo dục con người; Nguyễn Xuân Tiệp (2009), Tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết
học… Những công trình này đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều trong việc nhìn nhận,
đánh giá ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo đối với việc giáo dục và đào tạo con người ở
Việt Nam. Tuy nhiên, cả ba công tình trực tiếp nghiên cứu ảnh hưởng của giáo dục Nho
giáo như chúng tôi vừa kể trên chủ yếu mới chỉ chú ý đến hưởng của giáo dục Nho giáo
với việc giáo dục nhân cách cho con người hoặc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện
nay chứ chưa chỉ ra những ảnh hưởng rõ nét đến giáo dục nói chung ở Việt Nam trong bối
cảnh đất nước đổi mới, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đó cũng là một cơ hội để chúng
tôi có thể có những đóng góp mới mẻ khi nghiên cứu về ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục
Nho giáo đối với giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Mảng thứ ba: Những tài liệu nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng
là mảng đề tài chúng tôi được tiếp xúc với với những công trình nghiên cứu của những nhà
khoa học hàng đầu, có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam hiện nay
như: Hoàng Chí Bảo (2001), Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cách mạng giáo
dục - đào tạo trong các nhà trường ở nước ta hiện nay; Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc
Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp; Phạm Văn
Đồng (1999), Vấn đề giáo dục - đào tạo; Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI; Phạm Minh Hạc (2003) Về giáo dục… Những công trình
nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng của nền giáo dục của nước ta trong thời gian qua,
phân tích một cách cụ thể và thấu đáo những mặt tích cực cũng như những hạn chế của
nền giáo dục nước nhà đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm chấn hưng nền giáo dục
nước ta, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, các Văn kiện
Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, nhất là Văn kiện Đảng VI (1986), Văn kiện Đảng X (2006)
và Văn kiện Đảng XI (2011) được chúng tôi coi đây là cơ sở của đường lối, chính sách
5
phát triển giáo dục ở Việt Nam. Những tài liệu trên đã giúp chúng tôi nhận thấy việc phát
triển giáo dục ở nước ta hiện nay cần thiết phải kế thừa tinh hoa trong tư tưởng giáo dục
của nhân loại nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng để phát huy những
mặt tích cực trong tư tưởng giáo dục của những bậc tiền bối.
Với nguồn tài liệu phong phú đó, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách cụ thể, tỉ mỉ ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối với nền
giáo dục ở nước ta hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì vậy, đề tài luận văn thạc sĩ
của chúng tôi tiếp cận ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo từ yêu cầu cần phải kế
thừa những mặt tích cực trong tư tưởng giáo dục của trường phái này trong việc phát triển
giáo dục ở nước ta hiện nay. Đó là một việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa đáp
ứng nhu cầu của thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng giáo dục của
Nho giáo trong lịch sử và ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp phát triển giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.
- Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng giáo dục của Nho giáo thông
qua một số triết gia tiêu biểu, từ đó đánh giá những mặt tích cực cũng như hạn chế trong tư
tưởng giáo dục của Nho giáo.
Hai là, chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo đối với sự nghiệp phát
triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, bước đầu đề xuất một số định hướng vận dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của
Nho giáo đối với việc phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là: tư tưởng giáo dục của Nho giáo
và thực tiễn vận dụng tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong quá trình xây dựng và phát
triển giáo dục Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Về lý luận: Luận văn không trình bày toàn bộ nội dung của học thuyết Nho giáo nói
chung mà chỉ tập trung làm rõ tư tưởng giáo dục của trường phái này. Tuy nhiên, trong
giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả không khảo sát tư tưởng giáo dục của Nho
giáo trong suốt tiến trình phát triển mà chỉ đi sâu phân tích những tư tường giáo dục của
Nho giáo sơ kỳ qua tư tưởng của một số nhà triết học tiêu biểu như Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử.
Về thực tiễn, luận văn không trình bày ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Nho giáo với
toàn bộ tiến trình giáo dục của Việt Nam trong lịch sử mà chỉ tập trung làm rõ ảnh hưởng
6
của tư tưởng giáo dục của Nho giáo đối với việc phát triển giáo dục ở Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống những quan điểm có tính chất phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nghiên cứu lịch sử triết học
nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng
những quan điểm, đường lối cũng như những chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát
triển giáo dục trong thời kỳ đổi mới làm cơ sở lý luận để nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu, Luận văn chủ yếu dựa trên những phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời có sự kết hợp
với các phương pháp khác như phương pháp lôgic - lịch sử, phương pháp phân tích, tổng
hợp, khái quát… trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học của
học phái Nho giáo nói chung và tư tưởng giáo dục nói riêng cùng những công trình nghiên
cứu về phát triển giáo dục ở Việt Nam.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Về lý luận, luận văn trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng giáo dục của Nho
giáo sơ kỳ, đặc biệt tác giả luận văn có sự cố gắng trong việc đưa ra những đánh giá cá
nhân về những ưu điểm và hạn chế của tư tưởng giáo dục của Nho giáo và bước đầu có
những lý giải về nguyên nhân cùa những ưu điểm và hạn chế đó.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần tạo thêm cơ sở của việc kế
thừa những tinh hoa trong tư tưởng giáo dục của nhân loại nói chung và tư tưởng giáo dục
của Nho giáo nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho
việc học tập và giảng dạy lịch sử triết học ở Việt Nam hiện nay và những ai quan tâm đến
những vấn đề lịch sử triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành
2 chương với 5 tiết.
Chương 1: Bối cảnh và những nội dung tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Chương 2: Quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam và những giải pháp
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo vào sự
nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
7
Chương 1
BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CHỦ YẾU CỦA NHO GIÁO
1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội xuất hiện tư tưởng giáo dục của Nho giáo
Cũng như nhiều trường phái triết học khác trong lịch sử, tư tưởng triết học của Nho
giáo nói chung và tư tưởng giáo dục nói riêng được ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể, gắn với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc thời cổ đại.
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại khi Nho giáo xuất hiện
Tư tưởng triết học của Nho giáo ra đời chủ yếu trong thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc.
Đó là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, bắt đầu thời kỳ đang lên của chế độ
phong kiến sơ kỳ.
Về lịch sử, chế độ chiếm hữu nô lệ của Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều đại
nhà Hạ, qua nhà Thương đến cuối nhà Tây Chu thì bắt đầu bước vào giai đoạn khủng
hoảng và ngày càng đi tới suy tàn. Những năm đầu của nhà Chu, xã hội vẫn còn có trật tự
trên dưới, thứ bậc từ thiên tử cho đến thứ dân. Theo sử sách ghi lại, đây là một thời kỳ yên
ổn, xã hội có trật tự và quy tắc.
Về kinh tế, ở thời Xuân thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo cày đã bắt đầu trở nên phổ biến, góp phần từng
bước giải phóng sức lao động của con người. Thời kỳ này cũng có nhiều phát minh mới về
công cụ lao động, nhất là kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt, đã đem lại những tiến bộ
mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Đây là thời kỳ phát triển
của chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất. Cuối thời Xuân thu - đầu thời Chiến quốc,
thương nghiệp cũng phát triển. Điều đó được đánh dấu bằng sự ra đời của tiền tệ.
Về chính trị - xã hội, ở thời Xuân thu, chế độ tông pháp của nhà Chu không còn được
tôn trọng như ban đầu. Mối quan hệ về chính trị - xã hội giữa thiên tử và các nước chư hầu
ngày càng trở nên lỏng lẻo. Thời kỳ Xuân thu kéo dài khoảng 242 năm nhưng có đến hơn
480 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Trong thời kỳ này, xã hội Trung Hoa không chỉ xảy ra chiến
tranh liên miên giữa các nước mà trong mỗi gia đình, cha con, anh em, vợ chồng cũng
thường xuyên xảy ra tranh cãi, chia lìa. Tình cảnh đó khiến Khổng Tử gọi là sự băng hoại
những giá trị đạo đức tốt đẹp.
Sự thay đổi lớn lao của lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho mâu thuẫn
giữa các tầng lớp trong xã hội ngày càng tăng, những giá trị đạo đức bị xáo trộn, những
cuộc chiến tranh xảy ra liên miên trong xã hội Trung Quốc thời kỳ này đã đặt ra một vấn
đề cấp bách cho các nhà triết học: Cần phải có những quan điểm mới mẻ về con người và
giáo dục con người để giữ gìn đạo lý luân thường của xã hội, để đảm bảo trật tự xã hội. Tư
8
tưởng giáo dục của Nho gia ra đời trong thời kỳ này đáp ứng những yêu cầu, đỏi hỏi bức
thiết của lịch sử xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc và quá trình xuất hiện những tư tưởng giáo dục của Nho giáo
Sự xuất hiện tư tưởng giáo dục của trường phái Nho giáo không chỉ được bắt nguồn từ
những yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của thời kỳ Xuân thu -
Chiến quốc mà còn được bắt nguồn trực tiếp từ những tiền đề lý luận. Đó là quan điểm về
con người và bản tính con người của chính các nhà triết học thuộc trường phái này.
Trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại, có rất nhiều triết gia quan tâm đến vấn đề bản
tính con người nhưng có lẽ Khổng Tử là người đầu tiên đặt vấn đề về bản tính con người.
Tư tưởng về tính người của ông được trình bày chủ yếu trong cuốn Luận ngữ. Kế thừa tư
tưởng “tính tương cận” của Khổng Tử, Mạnh Tử đã phát triển học thuyết tính người của
Nho giáo lên một nấc thang mới khiến tên tuổi của ông gắn liền với học thuyết tính thiện.
Cũng là một nhà Nho nhưng tư tưởng về tính người của Tuân Tử lại hoàn toàn khác với
Mạnh Tử. Tuân Tử cho rằng bản tính của con người sinh ra đã ác. Điều đó bắt nguồn từ
bản năng sinh lý của con người khi sinh ra đã có lòng ham muốn như mắt ham muốn màu
sắc, tai thích âm thanh, miệng khoái mùi vị, tai chuộng lợi lộc, da thịt thú khoái lạc.
Như vậy, dù đứng trên những quan điểm khác nhau về bản tính của con người nhưng
điểm chung mà chúng ta có thể nhìn thấy ở ba nhà triết học thuộc trường phái Nho gia là
theo để giữ được tính thiện, tránh cho con người làm điều ác cần phải thi hành các biện
pháp giáo hóa, dưỡng dục. Đó là những tiền đề lý luận trực tiếp cho việc hình thành tư
tưởng giáo dục của Nho giáo.
1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
Nội dung tư tưởng giáo dục của trường phái Nho giáo là những quan niệm về giáo dục
nói chung, về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và vai trò của
người thầy trong giáo dục.
1.2.1. Về quan niệm giáo dục
Các nhà Nho đều quan niệm giáo dục là biện pháp để hướng con người tới những phẩm
chất cao quý như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đó là những giá trị chuẩn mực của con người
trong xã hội phong kiến.
Các nhà Nho mà tiêu biểu là Khổng Tử đã đưa ra những quan niệm rất cụ thể về giáo
dục. Giáo dục là cần thiết cho tất cả mọi người nên ai ai cũng có cơ hội được học tập. Giáo
dục là công cụ hữu hiệu nhất và là con đường ngắn nhất để đào tạo lớp người cai quản và
thống trị xã hội theo hệ tư tưởng phong kiến. Đó là lớp người quân tử. Thông qua giáo
dục, các nhà Nho còn muốn truyền bá hệ tư tưởng phong kiến của giai cấp thống trị thấm
sâu đến mọi tầng lớp trong xã hội (đặc biệt là đối với giai cấp bị trị) và chiếm địa vị độc
tôn để đảm bảo ổn định trật tự xã hội lúc bấy giờ.
9
1.2.2. Về mục tiêu giáo dục
Hầu hết các nhà Nho đều cho rằng mục đích bao trùm của việc giáo dục là nhằm tạo ra
những con người thích nghi với điều kiện xã hội và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức
trách, bổn phận của mình. Nho giáo đã đưa ra một số mục tiêu cụ thể của giáo dục như
sau: Thứ nhất, giáo dục là để hình thành nhân cách lý tưởng. Thứ hai, giáo dục là để đào
tạo ra đội ngũ quan lại nhằm giúp ích cho nước nhà. Thứ ba, giáo dục là để tỏ cái đức
sáng, đạt tới chỗ chí thiện. Như vậy, có thể nói mục đích chính của giáo dục theo quan
điểm của Nho giáo là nhằm đào tạo ra những con người lý tưởng, có sự hoàn thiện cả về
đạo đức, nhân cách cũng như tri thức, lối sống. Những con người đó chính là trụ cột lý
tưởng mà các nhà Nho vẫn kỳ vọng.
1.2.3. Về nội dung giáo dục
Tiền đề lịch sử - xã hội cho sự ra đời tư tưởng giáo dục của Nho giáo là bối cảnh lịch
sử, kinh tế - xã hội thời Xuân thu - Chiến quốc. Đó là giai đoạn lịch sử mà xã hội Trung
Quốc cổ đại có nhiều biến động với nhiều sự đảo lộn lớn, nhất là về mặt đạo đức con
người. Trước thực trạng đó, các nhà Nho đã chủ trương giáo dục “đạo làm người” cho tất
cả mọi người, tức là thông qua giáo dục mà đào tạo ra những con người cần có và phù hợp
với yêu cầu của giai cấp thống trị, những con người luôn luôn suy nghĩ và hành động theo
những chuẩn mực, quy phạm đạo đức. Nếu Khổng Tử chú trọng đến việc giáo dục: nhân,
trí, dũng, lễ… thì Tuân Tử - một nhà Nho sống chủ yếu ở thời kỳ Chiến quốc đã đề cao vai
trò của lễ, nhạc trong việc giáo dục con người, trong đó chữ nhân có nội hàm sâu rộng
nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản để quy định bản tính của con người và thiết
lập mối quan hệ giữa người với người trong gia đình và xã hội. Đây là nội dung sâu sắc, có
tác dụng giáo hóa cho con người, giúp con người hướng đến những giá trị tốt đẹp.
1.2.4. Về phương pháp giáo dục
Không chỉ đưa ra tư tưởng về mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, các nhà Nho còn
đưa ra nhiều quan điểm về phương pháp giáo dục. Các phương pháp ấy được thể hiện cụ
thể như sau: Một là, phương pháp biết phân loại học trò. Hai là, phương pháp kết hợp học
với hành, học tập với tư duy. Ba là, phương pháp coi trọng tinh thần tự giác, sự nỗ lực của
người học. Bốn là, phương pháp thiết lập các mối quan hệ trong quá trình học, là mối quan
hệ giữa những người học, giữa thày và trò, dạy và học. Năm là, phương pháp “ôn cố tri
tân” (ôn cũ để biết mới). Sáu là, phương pháp “nêu gương”. Có thể nói, Nho giáo đã đưa
ra những phương pháp rất cụ thể, thiết thực nhằm giúp cho học trò có thể lĩnh hội được tri
thức, không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Nó cũng làm cho những nội dung của tư
tưởng giáo dục trở nên phong phú, có ý nghĩa to lớn đối với không chỉ người học và còn
với cả người thầy và hoạt động giáo dục nói chung.
10
1.2.5. Về vai trò và vị trí của người thầy trong quá trình giáo dục
Không chỉ bàn đến mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, chúng
tôi nhận thấy các nhà Nho còn bàn đến vai trò của người thầy trong giáo dục. Theo quan
điểm của Nho giáo, người thầy là người hướng dẫn cho học trò tự học. Quá trình dạy và
học là quá trình trao đổi giữa thầy và trò, giúp cho học trò có kiến thức, chủ động để có thể
ứng phó trong mọi hoàn cảnh.
Cũng theo các nhà Nho, người thầy không chỉ có kiến thức cao thâm để dạy học trò mà
muốn trò giỏi, người thầy cần phải có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt đẹp để làm gương
cho học trò noi theo. Nhân cách của người thầy có sức thuyết phục mạnh mẽ với người
học, người học sẽ nhìn vào tấm gương là thầy mà tin rằng những điều thầy giảng dạy
chính là chân lý, là những điều đúng đắn, tốt đẹp. Như vậy, theo quan điểm của Nho giáo,
người thầy đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục. Người thầy không chỉ
có vai trò định hướng cho học trò mà còn giúp cho học trò có thể bỏ ác, tích thiện, hướng
đến những giá trị tốt đẹp của đạo đức, nhân cách. Do đó, có thể nói, để việc giáo dục thật
sự có hiệu quả không thể thiếu vai trò của người thầy.
1.3. Một số nhận xét, đánh giá mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng giáo dục
của Nho giáo
Tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng đã từng có
một ảnh hưởng to lớn đến đời sống chính trị - xã hội không chỉ của Trung Quốc mà cả với
rất nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Nó đã để lại dấu ấn đậm nét trong đường lối
giáo dục của nhiều quốc gia trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài. Sở dĩ có được những dấu ấn
đậm nét đó là vì tư tưởng giáo dục của Nho giáo đã chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý, đã trở
thành công cụ hữu hiệu của nhiều triều đại lịch sử trong việc giáo hóa dân chúng để giữ
gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tư tưởng giáo dục của Nho giáo ra đời trong điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc nên cũng không tránh khỏi
những nhược điểm, hạn chế.
1.3.1. Những giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
Tư tưởng giáo dục của Nho giáo từ quan niệm chung về giáo dục, mục đích giáo dục,
nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục đều chứa đựng nhiều yếu tố tích cực.
Thứ nhất, về quan niệm giáo dục. Các nhà Nho cho rằng giáo dục là một việc làm cần
thiết vì mỗi con người dù thiện hay ác đều cần phải được giáo dục. Vì thế, Nho giáo đã
chủ trương “hữu giáo vô loại”. Có thể nói đây là chủ trương bình dân hóa trong giáo dục.
Quan điểm đó đã vượt qua đẳng cấp, danh phận trong xã hội để góp phần đưa sự nghiệp
giáo dục con người đến với mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Cũng từ quan điểm này,
Nho giáo đã phá vỡ đặc quyền của tầng lớp quan lại, quý tộc, làm cho giáo dục mang tính
chất phổ cập bình dân.
11
Thứ hai, về mục đích giáo dục. Mục đích giáo dục của Nho giáo như đã trình bày ở
trên là nhằm truyền bá sâu rộng tư tưởng nhân nghĩa vào trong nhân dân để đào tạo những
con người biết sống đúng với danh phận của mình nhằm ổn định trật tự xã hội. Điều đó
chứng tỏ Nho giáo đã nhận thấy vai trò quan trọng và quyết định của trong sự phát triển
chung của xã hội. Vì thế, mục đích của giáo dục theo quan điểm của Nho giáo là rất đúng
đắn, thiết thực.
Thứ ba, về nội dung giáo dục. Nội dung chủ yếu của giáo dục theo quan điểm của các
Nho giáo là giáo dục đạo làm người. Nho giáo hướng đến dạy đạo trị nước cho con người
với mục đích quan trọng là đào tạo ra những con người có đức, có tài để bổ sung vào đội
ngũ quan lại. Chính điều đó đã làm cho mỗi người học có tinh thần trách nhiệm, có ý chí
phấn đấu, luôn coi trọng tinh thần, danh dự, đạo đức, khí tiết.
Thứ tư, về phương pháp giáo dục. Nhìn chung, trong phương pháp giáo dục của Nho
giáo chứa đựng nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Các nhà Nho đã đưa ra những phương
pháp rất cụ thể như dạy từ xa đến gần, từ dễn đến khó, tùy theo từng đối tượng mà áp dụng
những phương pháp dạy học khác nhau, kết hợp giữa học tập và suy nghĩ, học và hành,
phát huy ý thức và tính sáng tạo của người học, kết hợp giữa thầy và trò trong giáo dục…
Đây chính là ưu điểm nổi bật nhất trong những phương pháp giáo dục của Nho giáo.
1.3.2. Những hạn chế, nhược điểm trong tư tưởng của Nho giáo
Bên cạnh những điểm tiến bộ, tích cực; tư tưởng giáo dục của Nho giáo cũng không
tránh khỏi một số điểm hạn chế, mâu thuẫn. Điều đó được thể hiện trong quan niệm của
các nhà Nho về giáo dục nói chung, về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục.
Thứ nhất, về quan niệm giáo dục nói chung. Mặc dù các nhà Nho đưa ra tư tưởng “hữu
giáo vô loại” nhưng tư tưởng của họ, đặc biệt là Khổng Tử lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Dù ông coi giáo dục là bình đẳng với tất cả mọi người nhưng trong giáo dục, Khổng Tử lại
phân biệt từng loại người khác nhau. Quan niệm có hạng người sinh ra đã biết trở thành
chỗ dựa cho giai cấp thống trị lợi dụng để đưa ra chính sách mị dân.
Thứ hai, về mục đích giáo dục. Nho giáo luôn đánh giá thấp khả năng nhận thức của
tầng lớp dưới so với bậc quan lại và quý tộc. Do vậy, mục đích của việc giáo dục họ là để
biết phục tùng, biết lắng nghe những người cầm quyền. Đây chính là bệ đỡ về mặt tư
tưởng cho tầng lớp thống trị trong xã hội. Ngoài ra, Nho giáo không nhận ra rằng sự sụp
đổ của nhà Chu là một tất yếu lịch sử nên các ông luôn muốn níu kéo, muốn khôi phục lại
chế độ tông pháp của nhà Chu, đề cao “pháp tiên vương”. Đây có thể coi là cách thức kéo
lùi lịch sử bằng ý muốn chủ quan. Chính điều đó đã bó buộc con người, đã tạo nên những
khuôn phép chật hẹp, hà khắc, không tránh khỏi sự giáo điều, cứng nhắc.
Thứ ba, về nội dung giáo dục. Mặc dù đề cao việc giáo dục đạo đức trong hoàn cảnh xã
hội lúc bấy giờ là rất quan trọng và cần thiết nhưng nội dung giáo dục đó chưa đủ, mang
tính lý tưởng nhiều hơn hiện thực. Khổng Tử đã từng khẳng định có ba thứ quan trọng đối
12
với một quốc gia như “thứ”, “phú”, “giáo” nhưng trong nội dung giáo dục, Khổng Tử lại
tách giáo dục ra khỏi hoạt động chính yếu, có tính chất quyết định sự tồn tại của xã hội là
hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Các nhà Nho đều đánh giá thấp hoạt động này.
Quan điểm đó đã cho thấy các nhà Nho định hướng con người theo một chiều, đề cao vai
trò của yếu tố tinh thần, xa rời các hoạt động vật chất, hoạt động cải tạo tự nhiên. Do đó,
nội dung của giáo dục Nho giáo chưa thật sự đầy đủ, chưa chú trọng đến việc giáo dục
những kiến thức về khoa học tự nhiên, kỹ thuật sản xuất, canh tác cho con người.
Thứ tư, về phương pháp giáo dục. Mặc dù các phương pháp giáo dục mà các Nho giáo
đưa ra chứa đựng nhiều điểm tích cực, mới mẻ, tiến bộ song cũng không tránh khỏi những
mâu thuẫn, hạn chế. Hạn chế rõ nét nhất là mặc dù đề ra chủ trương cần áp dụng phương
pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học nhưng các nhà Nho lại bó
hẹp sự sáng tạo trong khuôn khổ sẵn có của nhà Chu. Điều đó đã khiến cho những phương
pháp giáo dục của Nho giáo dù rất tiến bộ nhưng không thật sự triệt để.
Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG GIÁI PHÁP PHÁT HUY MẶT TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
MẶT TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC
CỦA NHO GIÁO VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam và sự cần thiết phải vận
dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái quát quá trình đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Quá trình đổi mới ở Việt Nam khởi xướng từ tháng 12/1986, được thông qua ở Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI. Đây được coi là một mốc son quan trọng trong tiến trình phát
triển của cách mạng nước ta, mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã được tiến hành hơn 20
năm, tuy không tránh khỏi những khó khăn, thử thách nhưng đã làm thay đổi toàn diện nền
kinh tế - xã hội, mang lại những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới giáo dục được Đảng ta coi là
một trong những nhiệm vụ trọng yếu, góp phần quyết định mọi thắng lợi. Việc đổi mới
giáo dục cũng xuất phát từ thực tiễn giáo dục nước ta đầu những năm 80. Trong bài “Đổi
mới tư duy giáo dục” (tháng 12/1986), bên cạnh việc phân tích những thành quả của nền
giáo dục nước nhà từ năm 1945, tác giả Phạm Minh Hạc đã chỉ ra một số những hạn chế,
mâu thuẫn, mất cân đối lớn. Những hạn chế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
13
của nền kinh tế - xã hội nước ta. Bởi vậy, việc đổi mới giáo dục trở thành một yêu cầu cấp
thiết, có ý nghĩa sống còn.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục xác định vai trò to
lớn của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và trong việc
phát triển nguồn lực con người nói riêng. Từ đó, Đại hội XI cũng đưa ra những chỉ đạo cụ
thể nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của nền giáo dục ở nước ta hiện nay và định
hướng phát triển giáo dục trong những chặng đường tiếp theo. Đảng đã chỉ rõ cần phải
“Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;
nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng
xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Có thể nhận thấy, cùng với việc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới giáo dục được coi
là một nhu cầu thiết yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Việc đổi mới giáo dục gắn liền với tiến trình đổi mới đất nước và cần phải tiếp tục đổi mới
2.1.2. Sự cần thiết phải vận dụng các giá trị tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong
sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Sự cần thiết cần phải vận dụng các giá trị trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo trong
sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay theo chúng tôi cần phải
được xét cả trên bình diện lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận, tư tưởng giáo dục của Nho giáo tuy ra đời từ rất lâu , không tránh khỏi
những hạn chế, mâu thuẫn do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội của Trung Hoa cổ đại chi
phối nhưng lại chứa đựng rất nhiều yếu tố hợp lý, tích cực, tiến bộ. Tư tưởng giáo dục của
Nho giáo chính vì thế đã trở thành đường lối chính trị - xã hội của Trung Quốc và Việt
Nam trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài.
Về mặt thực tiễn, nền giáo dục Việt Nam sau hơn hai mươi năm đổi mới và phát triển
tuy đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhưng đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thử
thách rất lớn. Những hạn chế đó có thể từng bước được khắc phục nếu biết kế thừa những
ưu điểm trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo về nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục; đồng thời rút kinh nghiệm từ những hạn chế trong tư tưởng giáo dục của trường phái
này. Do đó, sự cần thiết phải kế thừa những giá trị trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
theo chúng tôi cần được hiểu từ hai góc độ: kế thừa những giá trị tích cực và rút kinh
nghiệm từ những tiêu cực, hạn chế.
2.2. Những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia ở Châu Á và những giải pháp
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo
vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
So với nhiều nước trong khu vực, Việt Nam là một nước đi sau trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, khoa học và giáo dục. Do hoàn cảnh đất nước nhiều năm có chiến tranh,
14
lại xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu nên nền kinh tế - xã hội
của nước ta bị tụt hậu khá xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó đã
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục ở nước ta. Vì vậy, để thật sự có chiến lược
phát triển giáo dục đúng đắn, khoa học, Việt Nam không chỉ cần phải kế thừa những tinh
hoa về giáo dục của nhân loại nói chung và tư tưởng giáo dục của Nho giáo nói riêng mà
cần học học kinh nghiệm của một số nước châu Á trong việc phát triển giáo dục.
2.2.1. Bài học từ các quốc gia ở Châu Á và kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc kế
thừa các giá trị tư tưởng tích cực về giáo dục của Nho giáo
Trong những năm qua, các nước châu Á đã có những bước phát triển lớn lao về kinh tế
- xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, làm cho vị thế của châu Á ngày càng được nâng
cao so với các nước khác trên thế giới. Một trong những nước có thành tựu đáng kể về
phát triển giáo dục phải kể đến Trung Quốc, Nhật Bản và Singapore. Sự phát triển giáo
dục của các nước này chính là những bài học kinh nghiêm quý giá cho Việt Nam trong
việc kế thừa những tinh hoa của nhân loại trong việc phát triển giáo dục.
Thông qua việc khái quát những thành tựu trong việc phát triển giáo dục của một số
nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore; chúng tôi nhận thấy Việt Nam cần
phải kế thừa một một số kinh nghiệm của các nước này trong việc phát triển giáo dục ở
một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, nền giáo dục của ba nước Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore tuy có những
đặc điểm khác nhau nhưng nhìn chung, cả ba nước này đều tổ chức được một nền giáo dục
khá quy củ, khoa học, có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Nhà nước hàng năm không chỉ
đầu tư rất lớn cho giáo dục mà còn có sự quản lý chặt chẽ. Điều đó giúp cho các nước này
có những chính sách phát triển hợp lý đối với từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Thứ hai, đứng trước nhu cầu phát triển không ngừng của thực tiễn, cả ba nước Nhật
Bản, Trung Quốc, Singapore đều tiến hành cải cách giáo dục, coi cải cách giáo dục là một
nhu cầu tất yếu cùng với quá trình cải cách nền kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Những cải cách giáo dục mà những nước này đưa ra không chỉ khắc phục những hạn chế,
yếu kém của nền giáo dục trước đó mà còn tạo điều kiện cho nền giáo dục của cả ba nước
không ngừng phát triển, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
từng bước tạo được vị thế vững chắc về phát triển giáo dục so với các nước trên thế giới.
Thứ ba, cả ba nước Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore đều tiến hành cải cách giáo dục
một cách toàn diện, cả về mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. Chính sự thay đổi
toàn diện đó đã làm cho nền giáo dục các nước này có sự đổi mới toàn diện và không
ngừng phát triển.
Thứ tư, cả ba nước Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore đều tiến hành chính sách mở cửa
trong chính sách phát triển giáo dục. Điều đó không chỉ gia tăng uy tín của các nước này
15
trong phát triển giáo dục mà còn góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội
của Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore.
Thứ năm, mặc dù đều là các quốc gia phát triển nhưng nội dung giáo dục của các quốc
gia này không vì thế mà quên đi những giá trị truyền thống. Điều dễ nhận thấy là ảnh
hưởng của Nho giáo đối với việc phát triển nền giáo dục ở các nước này là khá rõ.
Những bài học kinh nghiệm từ việc phát triển giáo dục của ba nước Nhật Bản, Trung
Quốc, Singapore như đã kể trên xét ở một góc độ nhất định có nhiều điểm tương đồng với
những bài học mà chúng ta có thể kế thừa từ những tư trưởng giáo dục của Nho giáo về
mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục. Điều đó chứng tỏ những tinh hoa tinh thần của
nhân loại tuy trải qua bao thăng trầm của lịch sử nhưng vẫn giữ được giá trị bền vững của
mình và cần được chúng ta kế thừa một cách biện chứng và khoa học.
2.2.2. Những giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng
giáo dục của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Từ việc nghiên cứu tư tưởng của Nho giáo về giáo dục, chúng tôi mạnh dạn đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong tư tưởng giáo dục
của Nho giáo vào sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam. Khi nghiên cứu
những tài liệu về giáo dục ở nước ta hiện nay, chúng tôi nhận thấy đã từng có rất nhiều
giải pháp được đưa ra ở những góc độ khác nhau nhưng trong giới hạn của đề tài luận văn
thạc sĩ, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp dưới đây. Có thể coi đây là ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Một là, cần phải kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục tri thức và giáo dục lý tưởng;
Hai là, phải coi trọng tự giáo dục, phát huy sự tu dưỡng, học tập và rèn luyện cá nhân;
Ba là, phải kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội;
Bốn là, phải có sự kết hợp giữa học và hành
Có thể nói, những giải pháp trên được đưa ra trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực
của Nho giáo. Ngoài ra, chúng tôi còn đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế những mặt
tiêu cực của Nho giáo như: hạn chế lối giáo dục tuyên truyền một chiều; hạn chế nội dung
giáo dục chứa đựng nhiều yếu tố phiến diện. Những giải pháp trên có thể chưa thật sự đầy
đủ nhưng được rút ra từ việc kế thừa những giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của
Nho giáo, đồng thời rút kinh nghiệm từ những hạn chế trong tư tưởng giáo dục của trường
phái này. Với giải pháp này, chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé trong việc khắc
phục những hạn chế, bất cập trong nền giáo dục ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Tư tưởng giáo dục nói riêng và toàn bộ tư tưởng triết học của Nho giáo nói chung ra
đời từ thời Xuân thu - Chiến quốc của Trung Quốc. Đó là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm
16
hữu nô lệ và bắt đầu thời kỳ đang lên của chế độ phong kiến ở Trung Quốc. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã xác lập vị trí của giai cấp địa chủ phong kiến làm cho mâu thuẫn
giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội ngày một gia tăng, trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo
đức xã hội bị rối ren. Với tư cách là một bộ phận quan trọng của tư tưởng triết học, tư
tưởng giáo dục của Nho giáo ra đời đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội - cần phải có một
hệ tư tưởng, một nội dung và phương pháp giáo dục đúng đắn để duy trì trật tự xã hội. Vì
vậy, tư tưởng giáo dục của Nho giáo đã nhanh chóng trở thành hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị, đồng thời cũng trở thành động lực để rất nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội
tham gia học tập, không ngừng hoàn thiện nhân cách lý tưởng để hướng đến điều thiện,
hướng đến những giá trị đạo đức cao đẹp.
Mặc dù đã ra đời cách đây mấy ngàn năm lịch sử nhưng tư tưởng giáo dục của Nho
giáo đã có nhiều điểm tích cực, tiến bộ kể cả về quan niệm giáo dục, nội dung và phương
pháp giáo dục, mục đích giáo dục. Nho giáo đã quan niệm giáo dục là cần thiết đối với tất
cả mọi người nên ai cũng cần phải được giáo dục. Giáo dục là cách thức để duy trì trật tự
xã hội nên cần phải giáo dục đạo đức như nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng… cho người học;
người học sau khi được giáo dục cũng phải biết vận dụng những điều đã học trong cuộc
sống hàng ngày và cũng cần phải tham gia tòng chính (làm chính sự). Muốn cho việc giáo
dục có hiệu quả, theo tư tưởng của Nho giáo là cần phải biết phân loại học trò, tùy từng
đối tượng học trò mà áp dụng những phương pháp dạy học khác nhau; cần có sự kết hợp
giữa học và tập, giữa thầy và trò; người thầy có vai trò quan trọng với việc dạy học nhưng
cũng phải biết tôn trọng học trò; người học cần chủ động, tích cực trong học tập, thường
xuyên “ôn cố tri tân”. Có thể nói, với những mặt tích cực trên, tư tưởng giáo dục của Nho
giáo có tính vượt trước thời đại. Nó cũng thể hiện tâm huyết của các nhà Nho trong việc
dạy người và mong muốn xã hội được thịnh trị, thái bình. Cũng vì lẽ đó mà các nhà Nho
luôn được học trò kính trọng, nể phục; luôn được hậu thế tôn vinh là “vạn thế sư biểu”
(người thầy của muôn đời).
Bên cạnh những mặt tích cực trên, tư tưởng giáo dục của Nho giáo cũng không tránh
khỏi nhưng hạn chế, tiêu cực kể cả về quan niệm giáo dục, nội dung và phương pháp giáo
dục. Mặc dù đưa ra tư tưởng “hữu giáo vô loại” nhưng Nho giáo lại tỏ rõ sự khinh miệt với
tầng lớp bình dân, nhất là phụ nữ và cho rằng những người này học chỉ để biết phục tùng
tầng lớp trên. Hơn nữa, trong nội dung giáo dục của Nho giáo chứa đựng nhiều điểm phiến
diện, chưa hoàn chỉnh. Nho giáo mới chỉ chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho người
học, chưa chú ý đến việc giáo dục kiến thức về tự nhiên, về lao động sản xuất, mới chỉ chú
trọng đến hoạt động tinh thần mà chưa đánh giá đúng vai trò của những hoạt động sản xuất
vật chất - hoạt động đầu tiên và cơ bản tạo nên sự tồn tại của con người. Bên cạnh đó, các
phương pháp giáo dục lại chỉ bó hẹp trong khuôn khổ của nhà Chu - một khuôn khổ chật
hẹp, không còn phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội lúc bấy giờ. Có thể lý
17
giải những hạn chế trên là do ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến vốn mang tính bảo thủ,
trì trệ; đồng thời cũng xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Điều này hoàn toàn hợp lý, thể hiện tính giai cấp của triết học nói riêng và của tư tưởng
nhân loại nói chung.
Tuy nhiên, không vì những hạn chế đó mà tư tưởng giáo dục của Nho giáo trở nên mờ
nhạt. Tư tưởng giáo dục của trường phái này đã từng có một ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống chính trị - xã hội của Trung Quốc cũng như của một số nước chịu ảnh hưởng của văn
hóa Trung Quốc trong đó có Việt Nam. Ở nước ta, với hơn nghìn năm Bắc thuộc, tư tưởng
giáo dục của Nho giáo đã ăn sâu, bám rễ trong đường lối giáo dục của nước ta suốt từ thời
Bắc thuộc đến thời phong kiến và cả đến sau này.
Hiện nay, nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế. Đó là một xu thế tất yếu của thời đại, phản ánh quá trình
phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, đổi mới giáo dục cũng là một yêu cầu cấp thiết, có
ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Nhận thức được điều đó nên trong
những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều đường lối, chính sách đổi mới và
phát triển giáo dục. Vì vậy, nền giáo dục nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng
và chất lượng, hoạt động xã hội hóa giáo dục được tiến hành rộng rãi, góp phần đáng kể
trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói riêng và việc phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường vị thế của nước ta so với thế giới nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu to lớn đó, nền giáo dục nước ta cũng đang gặp phải những khó khăn, thử thách với
những yếu kém, bất cập. Một việc làm cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển giáo dục ở nước ta hiện nay không chỉ là bám sát thực tiễn phát triển giáo dục trong
nước để đưa ra những đường lối, chính sách hợp lý mà cần phải biết kế thừa những tinh
hoa trong tư tưởng nhân loại về giáo dục. Một trong những tinh hoa không thể không kể
đến chính là tư tưởng của Nho giáo về giáo dục. Bên cạnh đó, nước ta cũng cần học hỏi
kinh nghiệp phát triển giáo dục của một số nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc,
Singapore… Việc kế thừa, học hỏi cần phải được tiến hành một cách nghiêm túc, sáng tạo,
biết chắt lọc những giá trị tích cực, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và biết rút kinh
nghiệm từ những hạn chế, thiếu sót.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp trong việc vận dụng
những giá trị cũng như rút kinh nghiệm từ những hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Nho
giáo trong việc đổi mới và phát triển giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Những giải pháp đó
có thể chưa thực sự đầy đủ nhưng xuất phát từ phạm vi và mục đích nghiên cứu của luận
văn, đồng thời cũng xuất phát từ mong mỏi nền giáo dục nước nhà sẽ ngày càng phát triển,
đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế.
18
References.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Ngọc Anh (1999), “Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học,
(3), tr.19-21.
2. Minh Anh (2004), “Về học thuyết luân lí và đạo đức của Nho giáo”, Tạp chí Triết
học, (8).
3. Hoàng Chí Bảo (2001), “Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện cách mạng giáo
dục - đào tạo trong các nhà trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội,
(5), tr.61-67.
4. Nguyễn Ngọc Bảo (1997), “Bước đầu suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi
đôi với hành, lí luận đi đôi với thực tế”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (5), tr.7-9.
5. Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai
vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thanh Bình (2000), “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế và hoàn thiện
con người”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (5), tr.35-38.
7. Nguyễn Thanh Bình (2001), “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục giáo hoá của
Nho giáo”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (10), tr.50-54.
8. Nguyễn Văn Bình (1999), “Cách xem xét đánh giá con người thông qua các mối
quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo - một giá trị cần kế thừa và phát triển”, Tạp chí
Triết học, (3), tr.15-19.
9. Nguyễn Văn Bình (2001), “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. ảnh
hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.22-24.
10. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb.
Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, tập 2, Nxb.
Thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1994), Tuân Tử, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
13. Doãn Chính (2002), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
14. Phan Đại Doãn (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. Đinh Xuân Dũng (chủ biên, 2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương, Hà Nội.
16. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi
mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X) (phần 1), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Đình Đạt (2009), Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo dục đạo
đức ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Phạm Văn Đồng (1994), “Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực - Một phương
pháp vô cùng quý báu”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (12), tr.1-2.
26. Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
27. Lê Văn Giang (2003), Lịch sử giáo dục giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân
cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển
- kinh tế, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỉ XXI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
32. Phạm Minh Hạc (2003) Về giáo dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Tử Hoàn (2004), “Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống”, Tạp chí Đông
Nam Á, (12).
34. Dương Hồng, Vương Thành Trung, Nhiệm Đại Viện, Lưu Phong (chú dịch) (2006),
Tứ thư, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
35. Đỗ Thị Hoà Hới (1998), “Tìm hiểu một số đặc điểm nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Triết học, (4), tr.8-12.
20
36. Nguyễn Sinh Huy (1995), “Tiếp cận xu thế đổi mới phương pháp dạy học trong giai
đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (3), tr.4-9.
37. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, Nxb. Văn học, Hà Nội.
38. Đặng Hữu (2008), “Phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trên cơ sở tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo”, Tạp chí Khoa học Xã hội, (1),
tr.8-16.
39. Trần Đình Hựu (1999), Văn học Việt Nam và Nho giáo Việt Nam trung cận đại,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
40. Chu Hi (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch, Nxb. Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
41. Trần Hậu Khiêm (1994), Các dạng đạo đức xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
43. Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và Luận ngữ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
44. Nguyễn Quang Kính (chủ biên, 2005), Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố (1940), Phê bình nho giáo. Nxb. Mai Linh, Hà Nội.
46. Trần Trọng Kim (2001), Đại cương triết học Trung Quốc - Nho giáo, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
47. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
48. Nguyễn Thu Lan (2003), “Giải pháp về giáo dục - đào tạo với việc xây dựng đội ngũ
tri thức ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Thông tin tư liệu
chuyên đề: Giáo dục - đào tạo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ tri thức trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, (3), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Nguyễn Hiến Lê (1992), Kinh Dịch, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
50. Nguyễn Hiến Lê (1993), Mạnh tử, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
51. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
52. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
53. Luận ngữ (1950), Đoàn Trung Còn dịch, Nxb Trí Đức, Sài gòn
54. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), “Quan niệm về tính người của Nho giáo nhìn từ góc
độ triết học”, Tạp chí Triết học, (5).
55. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Quan niệm nho giáo về con người, về giáo dục và
đào tạo con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21
56. Trịnh Khắc Mạnh, Chu Tuyết Lan (2006) (dịch tiếng Anh), Nho giáo ở Việt Nam
(Confucianism in Vietnam), Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
57. Mạnh Tử phần hạ (1996), Đoàn Trung Còn dịch, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
58. Hà Thúc Minh (1996), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh.
59. Hà Thúc Minh (2001), Đạo Nho và văn hoá phương Đông, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh.
60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con
người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Phạm Công Nhất (2007), “Đổi mới tư duy giáo dục để phát triển nguồn nhân lực
trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí khoa giáo, (11).
63. Phạm Công Nhất (2008), “Góp phần xây dựng triết lý mới cho giáo dục Việt Nam”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.67-73.
64. Lê Khả Phiêu (1995), “Một số vấn đề cần giải quyết trong giáo dục - đào tạo để thực
hiện thật tốt Nghị Quyết TW II”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (4), tr.1-20.
65. Lê Đức Phúc (1994), “Con người trước yêu cầu phát triển trong thế kỉ XXI”, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục, (9), tr.3-4.
66. Bùi Thanh Quất (chủ biên, 2001), Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
67. Trần Trọng Sâm - Kiều Bách Vũ Thuận (biên dịch, 2006), Tứ Thư, Nxb. Hội nhà
văn, Hà Nội.
68. Trần Xuân Sầm (1990), “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, Giáo dục Lí
luận, (6), tr.1-3.
69. Lê Thanh Sinh (2003), “Khổng giáo với vấn đề hiện đại hoá xã hội”, Tạp chí Khoa
học xã hội, (1), Thành phố Hồ Chí Minh, tr.41-46.
70. Đinh Ngọc Thạch (1995), Quan niệm của Nho giáo về vấn đề đào tạo con người,
Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện nghiên cứu Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
71. Trần Đình Thảo (1996), Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người qua các
mối quan hệ, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
72. Lê Sỹ Thắng (chủ biên, 1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
73. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh.
74. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
22
75. Nguyễn Tài Thư (1998), “Truyền thống Nho học và việc xây dựng con người trong
giai đoạn mới”, Tạp chí Cộng sản, (4), tr.32-35.
76. Nguyễn Khắc Thuần (2001), Đại cương lịch sử Văn hoá Việt Nam, Tái bản lần thứ
3, tập 3: Nho giáo với quá trình tham gia vào đời sống văn hoá và tư tưởng ở Việt
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
77. Nguyễn Xuân Tiệp (2009), Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con
người mới ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia, Hà Nội.
78. Triết học phương Đông - Đại học, Trung dung Nho giáo (1991), Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
79. Lê Xuân Tùng (2008), “Xây dựng đội ngũ tri thức trẻ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”, Thông tin tư liệu chuyên đề: Giáo dục - đào tạo và
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ tri thức trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (3), Hà Nội.
80. Nguyễn Khắc Viện (2003), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
81. Viện Khoa học giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm của một số nước về phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Trịnh Xuân Vũ (1998), “Phương pháp dạy học của Khổng Tử”, Tạp chí Nghiên cứu
giáo dục, (2), tr.28-29.
83. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên, 2003), Giáo trình lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.