Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.08 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Tục ngữ Việt Nam có câu: Có thực mới vực đợc đạo. Nh vậy là cha ông
ta từ xa đã thấy rõ con ngời khi làm bất cứ điều gì nếu thiếu đi cái thực thì dù
cho có những đạo lý đúng đắn soi đờng cũng không bao giờ làm đợc. Giống nh
Mac-Anghen đã tìm ra quy luật phát triển của con ngời: Trớc khi con ngời
muốn làm một điều gì đó từ những việc giản đơn cho đến những việc lớn hơn
nh hoạt động chính trị, nghệ thuật, khoa học v.v... thì đầu tiên họ phải tồn tại,
phải có những nhu cầu cơ bản ăn mặc ở của con ngời.
Nhng nếu con ngời cứ mãi chú tâm vào cái thực chỉ đuổi theo những
điều kiện vật chất bình thờng thì đơng nhiên khó tránh khỏi lầm đờng lạc lối.
Cũng vì vậy mà trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện nay khi điều kiện sản xuất
phát triển cũng nh cơ hội làm giàu đã mở ra cho mỗi cá nhân có khả năng sáng
tạo và tầm nhìn chiến lợc thì việc tìm hiểu mối liên hệ, sự liên quan mật thiết
giữa lý luận và thực tiễn để có thể vận dụng cái này để phát triển cái kia rồi từ
đó mà phát triển kinh tế là điều hết sức quan trọng và cấp thiết.
Nh đã nói ở trên, lý luận và thực tiễn luôn đòi hỏi phải đợc xem xét trong
sự thống nhất biện chứng nghĩa là tuy thực tiễn quyết định lý luận nhng khi
quay trở lại thì lý luận sẽ chỉ đạo thực tiễn. Việc đảm bảo tính thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn sẽ thúc đẩy hoạt động của con ngời, tạo ra những chuyển
biến lớn, những bớc ngoặt trong cả lý luận và thực tiễn.
Nếu nh việc nghiên cứu về mối liên hệ gia lý luận và thực tiễn đã quan
trọng thì vấn đề đổi mới t duy và đổi mới kinh tế lại càng quan trọng hơn bởi vì
xét đến cùng mục đích của chúng ta là phát triển nền kinh tế - nền tảng của xã
hội và cũng là trung tâm của các hoạt động xã hội khác. Chúng ta hiểu rằng đổi
mới kinh tế phải là một quá trình chuyển biến có tính chất bớc ngoặt về đờng
lối và chính sách kinh tế-xã hội. Xét nớc ta, mặc dù mới đợc thực hiện trong
thời gian gần đây nhng công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo nên những thay đổi
căn bản trong đời sống xã hội nớc ta. Quá trình đổi mới ở nớc ta diễn ra từng b-
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


ớc tuy chậm nhng đã và đang tạo nên nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội mà
phần đông nhiều nhà bình luận quốc tế thừa nhận là đáng kinh ngạc.
Sau một chục năm, nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đời
sống xã hội trở nên sôi động hơn. Mức sống chung của dân c có bớc tiến bộ rõ
nét. Các quan hệ và cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Với những
xu hớng biến động đó, nhiều công thức lý luận về các quy luật khách quan phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội một thời gian dài trớc đây đợc coi là cơ bản và
mực thớc, thì nay tỏ ra không còn phù hợp và cần đợc xét lại. Thực tiễn kinh tế-
xã hội sống động dờng nh đang đi trớc t duy lý luận và đang đặt ra trớc đó hàng
loạt vấn đề cấp bách và lâu dài cần phải giải đáp.
Nh vậy, muốn đổi mới kinh tế không thể không đổi mới t duy, và phải
đổi mới t duy làm sao để có thể áp dụng nó vào nền kinh tế đạt hiệu quả cao.
Đó chính là mối liên hệ mấu chốt. Cũng giống nh là sáng tạo bản thân nó đã
mang tính chủ quan nhng phải sáng tạo làm sao để mà phù hợp với cái khách
quan thực tại thì là điều vô cùng khó khăn. Đơng nhiên, giải quyết đợc vấn đề
giữa lý luận và thực tiễn, giữa sáng tạo và hiện thực sẽ là cơ sở để nghiên cứu về
mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới t duy. Và một khi chúng ta có thể
thấy rõ, hiểu rõ về vấn đề này thì không những chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng
quát về việc phát triển kinh tế, hiệu quả của nó cũng nh đề ra phơng pháp mới
trong các hoạt động kinh tế, mà còn có thể kết hợp giữa đổi mới t duy và đổi
mới kinh tế để làm cho nền kinh tế nớc ta có những bớc nhảy vọt.
Bài tiểu luận này dựa trên những dữ kiện thu thập đợc để tạo nên một cái
nhìn tổng quát về xu hớng đổi mới kinh tế dới ảnh hởng của các chính sách đổi
mới, của đổi mới t duy ở Việt Nam và sự liên quan mật thiết giữa hai lĩnh vực
quan trọng này. Bài gồm hai phần chính: Trớc tiên là phần trình bày về cơ sở lý
luận của đề tài và trên cơ sở đó phần 2 sẽ phân tích cụ thể hơn về mối liên hệ
giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế ở nớc ta.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần nội dung chính

1. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
1.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận là vai trò mang tính quyết định.
Trớc tiên chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về thực
tiễn. Thực tiễn là gì?
Trong lịch sử triết học, phạm trù thực tiễn đã từng xuất hiện trớc triết học
Mác. Chẳng hạn trong triết học Phoi ơ Bắc và cả trong triết học duy tâm của
Hêghen đã đề cập đến phạm trù thực tiễn nhng ở Phoi ơ Bắc và chủ nghĩa duy
vật trớc Mác nói chung đều quan niệm thực tiễn chỉ thuần tuý là hoạt động kiếm
miếng ăn, là hoạt động con buôn bẩn thỉu. Họ không thấy đợc vai trò sáng tạo,
vai trò cải tạo thế giới của thực tiễn. Theo Hêghen thì thực tiễn là hoạt động có
ý chí của t tởng. Vì triết học của Hêghen đặt trên nền tảng sự vận động của ý
niệm tuyệt đối. Do đó thực tiễn chỉ đợc ông xem xét nh 1 phạm trù logic thể
hiện 1 giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối mà thôi.
Triết học Mác đã thừa nhận mặt vật chất, mặt cảm tình trực tiếp của hoạt
động thực tiễn trong quan niệm triết học của Phoi ơ Bắc, đồng thời cũng thấy
mặt hoạt động có ý chí trong quan niệm của triết học Hêghen. Nhng cao hơn,
triết học Mác còn thấy vai trò sáng tạo, vai trò cải tạo thế giới, vai trò nền tảng
phát triển xã hội của hoạt động thực tiễn. Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử-xã hội của
con ngời nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, con ngời sử dụng những công cụ vật chất tác
động vào những đối tợng vật chất, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình.
Những hoạt động nh vậy đợc thực hiện một cách tất yếu khách quan. Thực tiễn
là hoạt động đặc trng, bản chất của con ngời, không ngừng phát triển bởi các
thế hệ loài ngời.
Nh vậy, thực tiễn không chỉ là những hoạt động vật chất của từng con ng-
ời cá biệt mà là dạng hoạt động cơ bản của loài ngời trong quá trình phát triển
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lịch sử của mình. Xét từ nội dung cũng nh phơng thức thực hiện, hoạt động thực

tiễn mang tính chất xã hội. Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi đợc thế
giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách mạng. Tất nhiên
hoạt động thực tiễn không thể tách vai trò hớng dẫn của nhận thức, của lý luận
nhng lý luận tự nó không thể làm biến đổi đợc hiện thực.
Hình thức đầu tiên của hoạt động thực tiễn chính là hoạt động sản xuất
vật chất đã tạo thành cơ sở của tất cả các dạng các hình thức khác của hoạt động
của hoạt động sống của con ngời. Thực tiễn còn là hoạt động cải tạo xã hội bao
gồm các hoạt động của con ngời trong các lĩnh vực chính trị, xã hội. Hoạt động
thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn là trung tâm của lý luận, là cơ sở nền tảng, tiêu chuẩn, mục
đích của lý luận. Thông qua thực tiễn mà con ngời đã làm cho sự vật hiện tợng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ, bản chất của chúng.
Trên cơ sở đó con ngời nhận thức chúng. Nh vậy, thực tiễn đã đem lại nhiều tài
liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt đợc bản chất, các qui
luật vận động và phát triển của thế giới. Chính yêu cầu sản xuất vật chất và thực
tiễn cải biến xã hội đã buộc con ngời phải nhận thức thế giới. Và cũng nhờ có
thực tiễn, trớc hết là lao động, con ngời đã nhận thức đợc thế giới xung quanh.
Thực tiễn đa ra nhiều vấn đề cho nhận thức hớng tới để giải đáp đồng thời cũng
tạo ra các phơng thức thực hiện cần thiết cho nhận thức, đem lại nhiều tài liệu
kinh nghiệm cho nhận thức mà từ đó khái quát lên thanh lý luận. Hơn nữa qua
nhiều thành bại trong hoạt động thực tiễn chúng ta mới có thể xác định đợc
nhận thức, thực tiễn là đúng hay sai. Tức là thực tiễn còn là cái hiện thực hoá lý
luận, làm cho lý luận có giá trị tham gia làm biến đổi hiện thực. Vì thế Lênin đã
khẳng định: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức".
Ngoài ra thực tiễn còn là hoạt động vật chất giúp cho con ngời tích luỹ tri
thức kinh nghiệm. Cha ông ta đã dạy: "Trăm hay không bằng tay quen". Có rất
nhiều công việc ở thực tế khác xa so với lý thuyết mà nếu không có thực hành,
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

thực tế con ngời không thể hiểu biết đợc. Rõ ràng là một tay thợ lành nghề sẽ dễ
dàng trong lao động sản xuất còn một ngời lúc nào cũng chỉ chăm chú học
thuộc lý thuyết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và đôi khi chính kinh nghiệm lại
giúp cho ta phát hiện, sửa chữa những sai lầm của lý luận. Chẳng phải là nhiều
ngời giàu kinh nghiệm, từng trải luôn đợc tôn trọng, hỏi ý kiến và họ cũng luôn
cho ta những lời khuyên sáng suốt đó sao.
Tất cả những điều trên đã cho thấy thực tiễn phải là yếu tố quyết định của
lý luận. Nhng lý luận cũng tác động đến thực tiễn với 1 vai trò không nhỏ: chỉ
đạo thực tiễn.
1.2. Khi lý luận quay trở lại thực tiễn nó sẽ chỉ đạo thực tiễn
Ta hiểu rằng lý luận là trình độ cao của nhận thức, là một hệ thống những
tri thức đợc khái quát từ thực tiễn, phản ánh nhiều mối liên hệ bản chất, quy luật
của thế giới khách quan. Mà ta đã biết theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng: quá trình nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào
bộ óc con ngời. Nó không phải là sự phản ánh giản đơn máy móc mà là sự phản
ánh có tính chất biện chứng. Nó là quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích
cực và sáng tạo. Nh vậy lý luận đã nâng nhận thức lên 1 tầm cao hơn.
Tuy rằng tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu đợc trong cuộc
sống hàng ngày của con ngời nhng tri thức kinh nghiệm lại có hạn chế bởi trình
độ tri thức kinh nghiệm cha thể nắm bắt cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ
bản chất giữa các sự vật, hiện tợng. Anghen trong cuốn sách biện chứng về tự
nhiên đã nhận xét: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có
thể chứng minh đợc đầy đủ tính tất yếu". Nh vậy lý luận là 1 trình độ cao hơn
về chất so với kinh nghiệm. Nếu nh kinh nghiệm chỉ là những kiến thức đợc tích
luỹ đơn thuần từ hoạt động thực tiễn thì tri thức lý luận là tri thức khái quát từ
tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy
luật của lý luận.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lý luận đợc hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm

nhng lý luận không hình thành 1 cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải
mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tợng và khái quát cao. Nhờ
đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật hiện
tợng khách quan. Theo Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là " đem quy sự
vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tợng về sự vận động bên trong thực
sự".
Nhờ có những u điểm trên đây mà lý luận có vai trò rất lớn đối với thực
tiễn. Lý luận là "kim chỉ nam" cho hành động soi đờng, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn. Lênin viết: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng".
Lý luận một kho thâm nhập vào quần chúng, đợc quần chúng tiếp thu,
ủng hộ thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất. Nếu nh lý luận đó lại là đờng lối,
chính sách đúng đắn thì sẽ đa đất nớc tiến lên rất nhanh.
Một điểm quan trọng là lý luận có thể dự kiến đợc sự vận động của sự vật
trong tơng lai, rồi từ đó chỉ ra những phơng hớng mới cho sự phát triển của thực
tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con ngời trở nên chủ động, tự
giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, chủ tịch HCM viết: "Không
có lý luận thì lúng túng nh nhắm mắt mà đi". Một khi có lý luận vững chắc,
chúng ta sẽ không sợ tình trạng mò mẫm hay lạc đờng. Lý luận sẽ mang lại ph-
ơng hớng cụ thể để ta bắt tay vào công việc.
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng cần có cơng lĩnh chính sách, 1 nền
tảng t duy lý luận thống nhất. Điều đó cũng góp phần ổn định nền chính trị và
hoà bình của đất nớc, bởi vì 1 khi t tởng có kiên cờng, vững chãi thì mới mong
bảo vệ đợc đất nớc và thành quả của mình. Chính vì vai trò quan trong của lý
luận là không thể thiếu đối với mỗi 1 cá nhân cho nên mỗi ngời cần phải tự
trang bị cơ sở lý luận về cuộc sống, về phẩm chất, quan niêm đạo đức cho riêng
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mình. một danh nhân đã nói: "Sống mà không suy nghĩ thì là tồn tại chứ không

phải sống".
Nh vậy khả năng chỉ đạo thực tiễn của lý luận đã rõ ràng. Chúng ta cần
phải hiểu rõ lý luận của mình mà từ đó dùng nó nh 1 "kim chỉ nam" cho hành
động. Có thế mới đảm bảo hiệu quả và tính đúng đắn về mục đích của công
việc.
1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng
Rõ ràng là vai trò của lý luận cũng quan trọng không kém vai trò của
thực tiễn. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải nhìn nhận mối quan hệ này nh thế
nào.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất
biện chứng-đó là nguyên tắc cơ bản trong chủ nghĩa Mác-Lê nin. Hoạt động của
con ngời đợc chia làm hai loại: một là hoạt động thực tiễn tức là hoạt động vật
chất và một là hoạt động nhận thức lý luận là hoạt động tinh thần. Hai hoạt
động này không thể tách rời vì chúng song song diễn ra, bổ sung cho nhau.
Thực tiễn tuy có vai trò quyết định đối với lý luận nhng nếu không có lý
luận dẫn dắt sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Bởi vậy, mặc dù chúng ta cần coi
trọng những kinh nghiệm do thực tiễn của bản thân đa lại song nếu chỉ dựa vào
kinh nghiệm của bản thân, tuyệt đối hóa nó, coi thờng lý luận thì sẽ mắc bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa. Đúng nh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng nh một mắt sáng một mắt mờ".
Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng mặc dầu những vấn đề bức bách do cuộc
sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức cụ thể,
nhng để giải quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy một cách có hiệu quả thì
không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, là cơ sở cho
việc giải quyết những vấn đề cụ thể đó.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
V.I.Lênin đã từng nhận xét: "Ngời nào bắt tay vào những vấn đề riêng trớc
khi giải quyết các vấn đề chung thì kẻ đó, trên mỗi bớc đi sẽ không sao tránh

khỏi vấp phải những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng
vấp phải những vấn đề đó trong từng trờng hợp riêng thì có nghĩa là đa chính
sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên
tắc". (V.I.Lênin toàn tập) Chính vì vậy mà chúng ta lại càng phải coi trọng vai
trò chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng do tính gián tiếp, trừu tợng cao trong sự
phản ánh hiện thực nên lý luận đã có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo t-
ởng giáo điều. Vì vậy phải coi trọng lý luận nhng không đợc cờng điệu vai trò
của lý luận, coi thờng thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn bởi vì lý luận mà
xa rời thực tiễn sẽ trở thành lý luận suông, dẫn đến những suy nghĩ lầm lạc.
Điều đó cũng có ý nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động của con ngời. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: "Thực tiễn không có lý luận dẫn đờng thì thành thực tiễn mù
quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông."
Nh vậy thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải chống chủ nghĩa
giáo điều. Không đợc tuyệt đối hoá lý luận, coi thờng kinh nghiệm thực tiễn,
coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận không đợc chỉ dừng lại ở những
nguyên lý chung trừu tợng không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đồng
thời cũng phải không ngừng trau dồi t duy lý luận để tránh khỏi bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa. Bệnh kinh nghiệm và giáo điều đều là sai lầm không đảm
bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Tóm lại, chỉ có sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận mới mang lại hiệu
quả cao cho công việc. Bất kì một sự lệch lạc nào cũng sẽ dẫn đến những sai
lầm to lớn khó mà sửa chữa.
Cũng vì lý do này mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lỡng mối
quan hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế để mà phát triển cả hai lĩnh vực
này.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Mối quan hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế ở n-

ớc ta
2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta đã đa đến sự phát triển, đổi mới về
t duy
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nớc ta những năm đầu khi cha có đổi mới t duy
Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nớc về thể
chế chính trị, việc nhất thể hoá nền kinh tế cũng đã đợc triển khai một cách tích
cực. Mô hình kinh tế đã từng bớc đợc hình thành từ những năm 50 ở miền Bắc
theo kiểu mẫu nền kinh tế kế hoạch tập trung, mặc dù trải qua mấy chục năm
chiến tranh đã bị biến dạng nhiều nhng vẫn mang một số đặc trng lớn của nó.
Thứ nhất là, nhà nớc trực tiếp điều khiển các hoạt động kinh tế quan
trọng trong cả nớc thông qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối hàng
hoá, thông qua hệ thống giá cả, tỉ giá, lãi suất đợc quy định nghiêm ngặt. Với
mong muốn sớm làm cho sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí chủ đạo
trên phạm vi toàn nền kinh tế; nhà nớc trực tiếp đầu t qua tín dụng để trợ giúp
cho các thành phần kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể để ngày càng chiếm tỉ
trọng lớn. Kinh tế t nhân quy mô lớn không đợc khuyến khích phát triển và là
đối tợng của sự cải tạo để dần dần trở thành kinh tế nhà nớc hay kinh tế tập thể.
Trong khi đó, cơ chế thị trờng chỉ hoạt động trong phạm vi kinh doanh
nhỏ và kinh tế gia đình, tức là ở một phần nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
bán lẻ hàng tiêu dùng, dịch vụ. Phần lớn t liệu sản xuất đợc coi không phải là
hàng hoá, không đợc phép mua bán tự do trên thị trờng mà đợc phân phối theo
hệ thống kế hoạch hoá của nhà nớc. Nhà nớc còn độc quyền trong hoạt động
ngoại thơng. Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết các quan hệ mậu dịch quốc tế của
Việt Nam là với Liên Xô và Đông Âu. Các công ty ngoại thơng của Nhà nớc
thực hiện những hiệp định buôn bán đó. Lãi hay lỗ của hoạt động ngoại thơng
đều đợc đa vào ngân sách Nhà nớc. Còn t nhân không hề đợc tham gia vào hoạt
động này.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra, ngân sách Nhà nớc còn bù đắp các khoản lỗ của doanh nghiệp

quốc doanh và thu phần lớn lợi nhuận chung. Nh vậy là tài chính quốc gia và tài
chính của các doanh nghiệp quốc doanh không tách biệt nhau. Nhà nớc còn trợ
cấp cho toàn bộ hoạt động sản xuất thông qua việc bán với giá thấp nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị đợc nhập khẩu bằng tiền vay nợ của Nhà nớc hoặc viện
trợ cho Chính phủ. Vì thế thiếu hụt ngân sách và nợ nớc ngoài tăng lên cùng với
sự tăng trởng của sản xuất. Chính sách kinh tế nh vậy có u điểm là giúp cho
Nhà nớc thực hiện một cách trực tiếp đờng lối kinh tế nhằm vào việc tập trung
tích luỹ cũa xã hội trong tay Nhà nớc, phục vụ công cuộc bảo vệ nền độc lập
dân tộc trớc những đe doạ to lớn từ bên ngoài và nhanh chóng công nghiệp hoá;
nhng chính sách kinh tế đó lại không tạo ra động lực cho các doanh nghiệp và
cho cá nhân ngời lao động. Sự phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà nớc của các doanh
nghiệp đã làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên thụ động và kém phát
triển, gần nh là kìm hãm sự đi lên của từng doanh nghiệp.
Hơn nữa tính sáng tạo và năng động kinh doanh của họ đã không có chỗ
đứng trong thể chế kinh tế nh vậy. Cơ chế phân phối mang tính chất bình quân,
không đủ sức kích thích ngời có tài năng và lao động tốt. Mà một khi đã không
kích thích, thúc đẩy đợc các cá nhân phát huy tài năng của mình, đa doanh
nghiệp mình đi lên thì nền kinh tế cũng không thể nào phát triển thực sự đợc.
Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta cha biết gắn kết thực tiễn với
lý luận. Ví dụ nh kế hoạch 5 năm 1976-1980 là kế hoạch phát triển trung hạn
đầu tiên của nớc Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá cao trong đánh
giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kì chiến tranh sang thời kì
hoà bình, chúng ta đã đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà trên thực tế không thể
thực hiện đợc. Đến năm 1980, so với kế hoạch đề ra thì các chỉ tiêu thực tế đạt
đợc là: sản lợng lơng thực 69%, than 52%, điện 72%, đánh cá biển 40%, vải
39%, giấy 37% v.v... Những mất cân đối của nền kinh tế sau chiến tranh cha kịp
khắc phục thì lại cộng thêm những mất cân đối do sự đầu t vốn đồng thời cho
một lợng tơng đối lớn những công trình có quy mô lớn, lâu hoàn vốn.
10

×