Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Xuất khẩu gạo của việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.55 KB, 19 trang )

Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay

Phạm Huyền Diệu

Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Danh Tốn
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Hệ thống hóa và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu gạo.
Phân tích đánh giá rõ thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
trong đó tập trung vào giai đoạn 2001 - 2011. Đề xuất một số giải pháp: Xây dựng chiến
lược kinh doanh xuất khẩu gạo; Hoàn thiện cơ chế và chính sách; Đổi mới cơ cấu sản
xuất lúa gạo theo hướng tạo sản phẩm chất lượng cao; Phát triển mạnh công nghiệp chế
biến và bảo quản; Xúc tiến mạnh xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu; Mở rộng thị
trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; Huy động vốn và hỗ trợ vốn cho xuất khẩu gạo;
Hoàn thiện và tăng cường liên kết 4 nhà; Bảo vệ môi trường sinh thái ngành sản xuất lúa
nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.

Keywords: Kinh tế chính trị; Xuất khẩu; Gạo; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ năm 1989, sản xuất lúa gạo của Việt Nam không những đủ đáp ứng nhu cầu trong
nước, mà còn bắt đầu xuất khẩu ra nước ngoài. Với tốc độ tăng trưởng sản xuất lúa gạo khá ổn
định, khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng dần hàng năm.Tính đến năm 2010 lượng gạo
của Việt Nam cung ứng cho nhu cầu lương thực của các nước trên thế giới lên tới gần 78 triệu
tấn. Xuất khẩu gạo liên tục tăng cao cả về lượng gạo và kim ngạch, đưa mặt hàng gạo trở thành


một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, không những đóng góp quan trọng
vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, thúc đẩy tăng trưởng chung của nền kinh tế, mà còn dần
khẳng định được vị thế của Việt Nam trên thị trường gạo quốc tế. Với mức tăng trưởng mạnh mẽ
cả về sản lượng và kim ngach xuất khẩu trong thời gian qua, Việt Nam đã trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan).
Song, hiện nay trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu và rộng,
xuất khẩu gạo của Việt Nam đang phải đối đầu với những thách thức lớn: thị trường không ổn
định, xu hướng cạnh tranh của các nước mới xuất khẩu gạo ngày càng ngay gắt… Hơn nữa, gạo
xuất khẩu của Việt Nam không có mấy lợi thế trong cạnh tranh do chất lượng còn thấp, giá gạo
xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung thấp hơn của Thái Lan. Xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng
về lượng nhưng giá trị lại không tăng hoặc tăng với tốc độ thấp hơn tăng sản lượng. Bên cạnh đó
lợi ích của người nông dân sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu không được đảm bảo, giá trị gia tăng
từ sản phẩm cuối cùng không có sự phân bổ công bằng giữa các chủ thể tham gia sản xuất kinh
doanh lúa gạo, trong đó người nông dân thường bị thua thiệt. Điều đó khiến cho hiệu quả của
xuất khẩu gạo của Việt Nam còn thấp, thiếu tính bền vững. Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “ Xuất
khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” được chọn để thực hiện luận văn thạc sĩ.
Thông qua nghiên cứu này, tác giả luận văn hy vọng đưa ra được những giải pháp khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến xuất khẩu gạo của Việt Nam,
điển hình là một số công trình sau:
- Phạm Văn Bính (2007), “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới”, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. cuốn sách đã đề cập dến những thành tựu của Việt Nam về
xuất khẩu gạo như là một trong những thành quả quan trọng của phát trển nông nghiệp, nông
thôn trong 20 năm đổi mới, đồng thời chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của phát triển nông
nghiệp , nông thôn, trong đó có vấn đề sản xuất và xuất khẩu gạo.
- Lê Quang Phi (2007), “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời
kỳ đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, cuốn sách đã phân tích nội dung cơ bản của công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá
trình này trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có vấn đề hội nhập các thị trường

nông nghiệp nói chung, thị trường gạo quốc tế nói riêng.
- Bài viết của Lý Hoàng Mai và Phan Thị Hạnh Thu: “Quá trình tự do hóa nông nghiệp Việt
Nam giai đoạn 1986 - 2005” đăng trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 345, tháng 2 năm 2007.
Trong bài viết này các tác giả đã đi sâu phân tích quá trình tự do hóa nông nghiệp nước ta theo 2
giai đoạn của tiến trình hội nhập quốc tế : giai đoạn 1986 - 1996 và giai đoạn 1997 - 2005 quá
trình tự do hóa nông nghiệp của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ hơn. Theo đó, trong giai đoạn 1997 -
2005 việc cải cách chính sách trong giai đoạn này đã khuyến khích việc xuất khẩu các mặt hàng
nông sản, trong đó có gạo.
- Bài viết: “Để Việt Nam giữ vững vị trí nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới” của Nguyễn
Trần Trọng đăng trên tạp chí nghiên cứu kinh tế số 3 (370) tháng 3 năm 2009. Trong bài viết
này, tác giả đã nghiên cứu tổng quan tình hình xuất, nhập khẩu gạo của Việt Nam trong lịch sử,
đưa ra một số nhận xét về xuất, nhập khẩu gạo trong những năm gần đây và đề xuất một số giải
pháp chủ yếu để Việt Nam giữ vững vị trí xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
- Bài viết của Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Quang Trug: “Thực trạng năng lực hội nhập
kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp Việt Nam hiện nay”, đăng trên tạp chí
nghiên cứu kinh tế số 349, tháng 6 năm 2007. Bài viết Nghiên cứu thực trạng năng lực hội nhập
quốc tế của các doanh nghiệp nông nghiệp (trong đó có các doanh nghiệp trong ngành hàng lúa
gạo) theo các nhóm yếu tố sản xuất kinh doanh thị trường.
- Bài viết: “Chính sách và giải pháp đối với sản xuất lúa gạo của hộ nông dân” của Phan Sĩ
Mẫn đăng trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 7 (386) tháng 7, năm 2010. Bài viết đưa ra một số
kiến nghị nhằm đẩy mạnh sản xuất lúa gạo của hộ nông dân Viêt Nam. Đó là những kiến nghị tiếp
tục đổi mới cơ chế chính sách và giải pháp về đất đai, chính sách tín dụng và đầu tư cho sản xuất
lúa gạo, giải pháp thị trường (nội địa và quốc tế), phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, các loại
hình kinh tế hợp tác và liên kết.
- Bài viết: “Hoạt động sản xuất lúa gạo hàng hóa hướng vào lợi ích của nông dân” của
Nguyễn Văn Luật và Nguyễn Đức Lộc, đăng trên tạp chí Khoa học phát triển nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam số 1, tháng 6 năm 2012. Trong bài viết này, các tác giả đề cập đến một số
vấn đề trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam, các tác nhân tham gia sản xuất kinh doanh lúa gạo,
lưu thông phân phối trong hoạt động xuất khẩu gạo.
Do mục đích nghiên cứu hoặc do khuôn khổ của các công trình nghiên cứu, cho đến nay

chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt và hệ thống từ góc độ kinh tế chính
trị về xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua đề xuất một
số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu gạo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến nay, trong đó tập trung
vào giai đoạn từ năm 2001 đến nay
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận: Phép biện chứng duy vật, các quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách của nhà nước về xuất khẩu gạo, đồng thời kế thừa các kết quả nghiên cứu có liên
quan đến đề tài.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, luận
văn sử dụng các phương pháp: Trừu tượng hóa khoa học, kết hợp logic với lịch sử, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu so sánh, thống kê
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu gạo
- Phân tích đánh giá rõ thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới
7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất khẩu gạo
Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
Chƣơng 3: Quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu
gạo của Việt Nam trong thời gian tới


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu gạo
1.1.1. Đặc điểm của thị trường gạo thế giới.
Thị trường gạo có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Thị trường gạo có tính thời vụ
Thứ hai: Buôn bán giữa các Chính phủ là phương thức chủ yếu
Thứ ba: Chủ thể xuất khẩu và nhập khẩu gạo không ổn định.
Thứ tư: Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới:
Thứ năm: Trên thị trường, chủng loại gạo phong phú và có sự khác biệt về thị hiếu của mỗi
nước.
1.1.2 Những nhân tố tác động đến xuất khẩu gạo
1.1.2.1. Sự biến động của thị trường gạo quốc tế.
* Cung và cầu gạo trên thị trường thế giới
Cầu về gạo trên thị trường thế giới tùy thuộc vào một số yếu tố sau:
- Các yếu tố dẫn đến tăng cầu về gạo
+ Sự gia tăng nhanh chóng về dân số khiến cho nhu cầu về lương thực tăng cao vượt quá khả
năng sản xuất gạo trong nước.
+ Sự biến động theo hướng tăng lên của xu hướng tiêu dùng ngày càng nhiều các sản phẩm
được chế biến từ gạo nói riêng, lương thực nói chung
- Các yếu tố dẫn đến giảm cầu về gạo

+ Việc tăng dự trữ và hạn chế xuất khẩu gạo ở một số quốc gia đạt đến mức nào đó trong một
giai đoạn nhất định khiến cho cầu về gạo nhập khẩu không tăng của các nước nhập khẩu chính.
+ Di cư mạnh mẽ từ nông thôn ra thành thị diễn ra ở nhiều nước dẫn đến giảm tiêu thụ gạo
theo đầu người khá nhanh chóng vì cư dân thành thị tiêu dùng gạo ít hơn cư dân nông thôn ( tính
bình quân đầu người).
* Sự biến động của giá gạo.
Giá gạo xuất khẩu được coi là giá tổng hợp trong đó bao gồm: chi phí sản xuất, bao bì, vận
chuyển, thu mua, chế biến Cũng như các mặt hàng khác giá gạo biến động rất phức tạp bởi nó
bị chi phối bởi nhiều yếu tố như cung, cầu, cạnh tranh Khi các yếu tố thuận chiều giữ vai trò
chủ đạo thì cung gạo tăng lên. Trong điều kiện cầu về gạo không tăng hoặc tăng chậm hơn cung
thì giá gạo sẽ giảm.
* Thị hiếu người tiêu dùng.
Tuỳ theo mức sống, tập quán, việc tiêu thụ gạo ở các nước, các khu vực trong những thời
gian nhất định có những yêu cầu khác nhau. Thông thường, gạo đánh bóng và xát trắng được ưa
chuộng hơn. Tuy vậy có những vùng nông thôn người ta lại ưa loại gạo xát không kỹ chứa nhiều
vitamin và ngày nay trên thế giới thì xu hướng thiên về gạo ngon hạt dài.
1.1.2.2. Chất lượng gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo là một trong những yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh trên thị trường,
đồng thời nó cải thiện được hiệu quả xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu cần được hiểu một
cách rộng hơn với ý nghĩa là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu đối với
gạo xuất khẩu về qui cách, phẩm chất, kiểu dáng, sở thích, tập quán tiêu dùng. Chất lượng gạo
phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giống, kỹ thuật canh tác và bảo quản, chế biến là những
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo
1.1.2.3. Cơ chế, chính sách đối với xuất khẩu gạo.
Đối với xuất khẩu gạo, các chính sách tác động mạnh mẽ nhất là:
- Chính sách đất đai
- Chính sách đầu tư.
- Chính sách tín dụng.
- Chính sách thị trường.
- Chính sách tỷ giá hối đoái…

1.1.3. Vai trò của xuất khẩu gạo
Xuất khẩu lúa gạo có vai trò rất quan trọng đối với các nước xuất khẩu nói chung và Việt
Nam nói riêng. Điều đó thể hiện ở các mặt sau:
- Xuất khẩu gạo là giải pháp quan trọng tạo nguồn ngoại tệ mạnh phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.
- Xuất khẩu gạo không những góp phần cải thiện cán cân thương mại mà còn góp phần
không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế
- Xuất khẩu gạo góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
cuộc sống của người trồng lúa và những người làm việc trong những ngành, lĩnh vực liên quan
đến sản xuất, chế biến, buôn bán và xuất khẩu gạo
- Xuất khẩu gạo giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hoàn thiện hơn,
năng động hơn bởi lẽ chỉ có sự luôn đổi mới thì mới làm cho doanh nghiệp đứng vững được
trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thế giới.
1.2. Tổng quan về thị trƣờng gạo thế giới
1.2.1. Tình hình cung ứng và tiêu thụ gạo trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình cung ứng (bảng 1.1.)
Trong những năm gần đây, sự suy giảm đáng kể diện tích đất trồng lúa đang là mối quan tâm
hàng đầu đối với nhiều quốc gia. Thêm vào đó, sự cạnh tranh gay gắt trong việc sử dụng những
nhân tố cơ bản như nguồn nước, diện tích đất… giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp,
cũng như những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường liên quan đến trồng trọt đặc biệt là trồng lúa
đang đặt ra nhiều thách thức cho tất cả các nước trên thế giới khi lượng cầu về gạo trên thế giới
đang không ngừng gia tăng.
1.2.1.2. Tình hình tiêu thụ
Tiêu thụ gạo của thế giới tăng mạnh trong hơn hai thập kỷ qua: năm 1989 toàn thế giới tiêu
thụ 334,685 triệu tấn, năm 1996 là 375,996 triệu tấn, và đến năm 2006 tăng lên đến 416,83 triệu
tấn. Tuy nhiên, dự trữ gạo ở các nước sản xuất cũng như nhập khẩu sẽ vẫn cao, hạn chế xu
hướng mậu dịch gạo
1.2.2. Tình hình nhập khẩu gạo của các nước trên thế giới
1.2.2.1. Sản lượng nhập khẩu

Tình hình gạo nhập khẩu thay đổi thất thường tuy nhiên xu hướng tăng lên chiếm vị thế chủ
đạo. Trong những năm tới, khi nguồn cung gạo ngày càng có nguy cơ giảm thì sản lượng gạo
nhập khẩu càng có nguy cơ tăng lên.
1.2.2.2. Cơ cấu thị trường nhập khẩu gạo (bảng 1.2.)
Nhìn vào bảng số liệu ở bảng 1.2 ta thấy, không chỉ lượng gạo mậu dịch toàn cầu biến động
mà lượng nhập khẩu của từng khu vực cũng thay đổi. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của
thời tiết không thuận lợi và dự trữ hàng năm cũng như sự thay đổi trong chính sách nhập khẩu
gạo của các nước.
1.2.3 Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới (bảng 1.3.)
Số liệu từ bảng 1.3 cho thấy sản lượng gạo xuất khẩu ít nhiều có biến động tăng giảm nhưng
xu hướng chung là tăng lên, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay. Cũng trong thời kỳ này, sản lượng
gạo xuất khẩu chiếm từ 6% trở lê trong tổng sản lượng gạo sản xuất được của toàn thế giới.
Thái Lan là nước đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo.
Việt Nam tham gia thị trường gạo thế giới nói là khá muộn so với các quốc gia khác nhưng
đây là thành tựu đáng ghi nhận đối với Việt Nam. Từ một nước thiếu đói thường xuyên, năm
1989, Việt Nam đã bắt đầu tham gia thị trường gạo thế giới và đứng thứ ba trên thế giới vào năm
1994. Nhiều năm trở lại đây, Việt Nam luôn đứng thứ hai trên thị trường gạo thế giới với mức
sản lượng ngày càng tăng.
Mỹ cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới với mức sản lượng gạo xuất khẩu khá ổn
định
1.2.4. Giá gạo xuất khẩu thế giới (bảng 1.5.)
Trong hai năm đầu Việt Nam tham gia thị trường gạo thế giới, giá gạo thế giới rất cao với
mức tăng là 21%. Nhưng ngay sau đó, năm 1991 đến năm 1994, giá gạo thế giới lại có xu hướng
giảm xuống.
Chương trình dự trữ gạo của Thái Lan được thực hiện đã làm tăng giá gạo xuất khẩu vào cuối
năm 2006, do đó Philipine phải tranh thủ mua gạo dự trữ.
Năm 2008 do khủng hoảng lương thực nên giá gạo tăng cao. Giá lương thực vẫn cao trong 3
năm tiếp theo
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong xuất khẩu gạo
1.3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới cả về sản lượng va kim ngạch. Yếu tố
quyết định giá của hạt gạo trên thương trường quốc tế chính là chất lượng. Gạo Thái Lan có giá
cao hơn là nhờ ngon, thơm, dẻo, mẩy…, điều đó ai cũng thừa nhận. Gạo Thái ngon nhờ giống
lúa tốt, đặc sản; nhưng nền tảng làm nên chất lượng hạt gạo không chỉ từ hạt giống, mà được xây
dựng từ ý thức của nhà khoa học - người nông dân - doanh nghiệp xuất khẩu - khách hàng.
1.3.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ
Ấn độ là một trong năm cường quốc về xuất khẩu gạo trên thế giới. sản lượng gạo sản xuất
cũng như xuất khẩu gạo không ngừng tăng trong mấy thập kỷ qua. Điều này là do Ấn Độ áp
dụng nhiều biện pháp tổng hợp trong cuộc “cách mạng xanh”
Chính phủ Ấn Độ khuyến khích tăng diện tích đất canh tác lúa Baxmati và lúa thường nhằm
phục vụ cả nhu cầu xuất khẩu lẫn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Ấn Độ chủ trương đưa máy
móc, thiết bị đến tay nhà nông thông qua việc trợ cấp, cho vay tín dụng, nhà nông được trang bị
kiến thức, kỹ thuật nông nghiệp hiện đại qua các khóa học được tổ chức dưới các hình thức phù
hợp với trình độ nông dân. Các thủ tục xuất khẩu cũng được đơn giản hóa một cách tối đa, giảm
bớt các thủ tục hành chính nhằm khuyến khích nhiều nhất thương nhân tham gia xuất khẩu gạo”.
1.3.3. Kinh nghiệm của Mỹ
Để có được thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế, Mỹ đã có những chính sách về vốn
cho quá trình sản xuất và chế biến gạo để xuất khẩu. Mỹ đầu tư mạnh cho công nghệ, kỹ thuật và
cho ra những loại gạo có chất lượng cao.
1.3.4. Bài học rút ra cho Việt Nam
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm để áp dụng cho Việt Nam đó là:
Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn
hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thủy lợi, giao thông
nông thôn.
Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy chế biến gạo
nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng gạo sau thu hoạch.
Đầu tư mạnh phát triển, cải tạo các loại giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt để cung
cấp cho xuất khẩu.
Phát triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, huyện, xã và hợp
tác xã.

Có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản
xuất kinh doanh lúa gạo

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM

2.1. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.1.1. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Là một quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, với hai vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)
và đồng bằng sông Cửu Long(ĐBSCL).
Đồng bằng các tỉnh Duyên hải Miền trung chiếm 17,1% về diện tích và 18,8% về sản lượng
lúa cả nước.
Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào, kể cả nước ở trên và
nước dưới đất. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Tài nguyên nước dồi dào là
một trong những lợi thế nổi bật trong nghề trồng lúa nước ở Việt Nam.
2.1.1.2 Nguồn nhân lực
Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2011 dân số Việt Nam là 87,8 triệu người, trong đó
69,4% dân số đang sống ở vùng nông thôn và 55% dân số trong độ tuổi lao động. Việt Nam có
nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế về số lượng mà
còn có ưu thế về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa, cho phép chúng ta khai thác triệt để
những lợi thế của các điều kiện thiên nhiên
2.1.2. Tình hình sản xuất và chế biến gạo ở Việt Nam
2.1.2.1. Tình hình sản xuất
 Giai đoạn trước 1955:
Trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp kém, lạc hậu với cơ cấu độc canh cây lúa.
 Giai đoạn ( 1955- 1975):
+ Từ 1955 đến 1965
- Trong giai đoạn 1955 - 1965, miền Bắc tạm trang trải được lương thực ở mức tối thiểu.
- + Từ 1965 đến 1975: Chiến tranh xảy ra ở cả hai miền Bắc - Nam. Sản xuất lương thực

ở miền Bắc gặp nhiều khó khăn. Ở miền Nam, sản lượng lương thực giảm rất mạnh. Bình quân
lương thực nhập khẩu mỗi năm ( từ 1965 đến 1973) là 611,4 ngàn tấn
- Giai đoạn (1975 - 1980):
Trong giai đoạn này, đất nước gặp khó khăn do vừa trải qua cuộc chiến tranh lâu dài, nền
kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoach hóa tập trung, quan liêu bao cấp. Do đó sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng trong gia đoạn này bị suy giảm so với giai đoạn
trước
 Giai đoạn ( 1981 - 1988):
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của đời sống, một số địa phương đã chủ động thực hiện khoán
đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà Nước đã nhanh
chóng nhận thức, tổng kết, xây dựng cơ chế khoán mới, ban bí thư trung ương Đảng đã ban hành
chỉ thị 100, thực chất chỉ là cải tiến chế độ khoán cũ, nhưng nó là bước khôi phục lại quyền tự
chủ trong sử dụng ruộng đất và lao động của hộ xã viên
 Giai đoạn 1989 đến nay:
Bước sang năm 1986 đặc biệt là năm 1987 - 1988, sản xuất nông nghiệp của nước ta có chiều
hướng giảm. Nhiều địa phương đã chuyển chế độ khoán 100 thành khoán gọn cho hộ xã viên, đã
đạt kết quả tốt và được đồng tình. Từ thực tế đó, Đảng ta đã tổng kết và nâng lên thành nghị
quyết 10 của Bộ chính trị( ngày 5/4/1988). “ Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”(gọi tắt là
nghị quyết 10).
Tiếp theo đó,Nghị quyết trung ương 5 khóa IX đã ra đời nhằm tăng cường đổi mới và phát
triển kinh tế xã hội nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa có sự điều tiết của nhà nước.Gần
đây là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X về vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn
Như vậy, quá trình đổi mới đã đem lại cho nông dân quyền tự quyết về tổ chức sản xuất kinh
doanh, tạo ra động lực cho bước phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và nông thôn, điển hình là
trên lĩnh vực sản xuất lương thực nói chung, lúa gạo nói riêng (bảng 2.1.)
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc trong nông nghiệp và kinh
tế nông thôn theo tinh thần nghị quyết 10 của bộ chính trị và các chính sách kinh tế của Đảng và
Nhà nước, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng phát triển ổn định và
tăng trưởng nhanh ở nước ta. Năm 1989 sản lượng lúa gạo mới đạt 18,9 triệu tấn thì năm 2011 đã

lên tới 42,3 triệu tấn.
2.1.2.2. Tình hình chế biến
Thông thường xay xát gạo gồm 6 bước: phơi khô, làm sạch, bỏ lớp vỏ trấu bên ngoài, bỏ lớp
cám, làm bóng và phân loại
2.1.3. Chính sách của Nhà nước đối với xuất khẩu gạo
- Giai đoạn 1989 - 2000
Năm 1991, chế độ hạn ngạch xuất khẩu gạo được thiết lập
Năm 1994 bắt đầu thực hiện chế độ thu gom đầu mối xuất khẩu nhằm hạn chế tình trạng
tranh mua - tranh bán
Năm 1996 Chính phủ đã chấn chỉnh việc xuất khẩu gạo, ngừng hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp nhỏ và phân tán, chỉ định các doanh nghiệp thực sự đủ điều kiện xuất khẩu gạo
làm đầu mối xuất khẩu nhằm nâng cao trình độ tập trung và chuyên môn hóa.
Năm 1998, hạn ngạch đã được lới lỏng dần. Hạn ngạch được phân bố từ đầu năm dựa trên cơ
sở kết quả hoạt động thực tế trong năm trước và sự xem xét tình hình sản xuất của năm.
- Giai đoạn 2001 - 2005
Nhà nước thực hiện chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng đã
góp phần làm tăng số lượng gạo xuất khẩu, giúp nông dân tiêu thụ được sản phẩm. Giá gạo đã
tăng khiến cho người nông dân yên tâm hơn trong sản xuất. Bên cạnh đó nhờ các cơ chế, chính
sách khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp đã giảm bớt được khó khăn về tài chính
- Giai đoạn 2006 đến nay
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi ban hành nghị quyết trung ương 7 khóa X
nhiều chính sách được ban hành và thực thi như: Đầu tư mạnh cho nghiên cứu, chọn lọc, phân
nhánh các loại lúa có năng suất cao, chất lượng tốt để đảm bảo cho xuất khẩu; các chính sách
đảm bảo lợi ích của người trồng lúa trong so sánh với lợi ích của người trồng các loại cây trồng
khác và với các khâu thu mua, chế biến, xuất khẩu gạo; ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, chế tạo,
nhập khẩu, phổ biến các loại máy móc phục vụ sấy, bảo quản, chế biến lúa gạo phù hợp với từng
vùng; hỗ trợ tín dụng để các doanh nghiệp thu mua lúa của nông dân phục vụ cho xuất khẩu, để
người nông dân không phải bán lúa với giá rẻ ngay sau khi thu hoạch, nhất là người dân ở
ĐBSCL


2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.2.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
Sau hơn 20 năm liên tiếp xuất khẩu gạo trên quy mô lớn, Việt Nam đã vươn lên trở thành
nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới (chỉ sau Thái Lan) với mức đóng góp bình quân 4,5 triệu
tấn/năm cho thị trường gạo thế giới (bảng 2.2).
Với mức tăng trưởng mạnh mẽ cả về sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu gạo trong thời
gian qua đặc biệt là trong những năm gần đây, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên
thế giới. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận thực tế là mặc dù xuất khẩu gạo của Việt Nam gần như
liên tục tăng trong những năm qua, nhưng kim ngạch lại biến động hết sức thất thường do yếu tố
giá trên thị trường thế giới và chất lượng gạo của Việt Nam. Xuất khẩu gạo tăng về lượng, nhưng
giá trị lại không tăng hoặc tăng ở tốc độ không tương xứng. Vậy để giá trị gạo xuất khẩu tăng
tương xứng với sản lượng gạo xuất khẩu thì Việt Nam cần quan tâm đến chất lượng gạo xuất
khẩu và cần xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam (bảng 2.3).
Trong năm 2011 khối lượng gạo xuất khẩu giữa các tháng tăng giảm liên tục, khối lượng xuất
khẩu cao nhất là tháng 3 đạt 752 nghìn tấn (tăng 22% so với tháng trước) với kim ngạch xuất
khẩu là 348 triệu USD (tăng 18% so với tháng trước). Nhưng cũng ở tháng này, tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng sản lượng xuất khẩu
2.2.2. Cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu
Trong những năm qua, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam tuy đã được cải thiện, song
vẫn ở và thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới. Hiện các loại gạo xuất khẩu
phẩm cấp cao của Việt Nam không nhiều và chủ yếu vẫn là loại gạo phẩm cấp trung bình. Trong
tỷ trọng xuất khẩu gạo năm 2001 thì gạo chất lượng cao(5% tấm) chiếm 25%, gạo tấm 25%
chiếm 32%, gạo 100% tấm chiếm 5%. Đến năm 2010, tỷ trọng gạo 5% tấm cũng chỉ tăng lên
khoảng 30%, gạo 7%-10% tấm chiếm khoảng 8%, các loại gạo 15% tấm và 25% tấm chiếm tỷ
trọng lớn nhất tới trên 55% kim ngạch xuất khẩu.
2.2.3. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Kể từ năm 1989, sau hơn 20 năm xuất khẩu gạo, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày
càng rộng lớn. Năm 1989, chúng ta mới chỉ xuất khẩu sang một số ít nước nhập khẩu chính thì
đến năm 2007, Việt Nam đã mở rộng thị trường ra trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Nhìn chung, cho đến nay thị trường gạo của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể, không

những về chiều rộng mà còn theo chiều sâu. (bảng 2.5)
2.2.4. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam (bảng 2.7)
Giá cả trên thị trường thế giới không chỉ bị chi phối bởi giá trị mà còn phụ thuộc vào chất
lượng, điều kiện thương mại và quan hệ cung cầu. Các yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ xác
định giá cả của từng loại gạo. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào tình hình cung cầu trong nước
và quốc tế, và thời vụ sản xuất lúa gạo.
Giá gạo trên thị trường thế giới trong những năm qua thường xuyên biến động, do đó giá gạo
của Việt nam cũng có sự giao động theo giá gạo thế giới. Tuy nhiên, giá gạo của Việt Nam lại
thường xuyên thấp hơn so với giá gạo thế giới do gạo của chúng ta chưa đáp ứng được đầy đủ
các yêu cầu tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường (bảng 2.8).
2.2.5. Hình thức xuất khẩu và phương thức thanh toán
 Hình thức xuất khẩu:
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, chương trình xuất khẩu gạo của Việt
Nam chủ yếu là hàng đổi hàng và trả nợ. Thời gian sau đó chúng ta đã sử dụng phương thức xuất
khẩu trực tiếp và qua trung gian. Đối với những thị trường dễ tính như Châu Phi thì Việt
Namvthực hiện phương thức xuất khẩu trực tiếp, vì đối với những thị trường này yêu cầu về chất
lượng sản phẩm không cao chúng ta có thể dễ dàng đáp ứng. Còn đối với những thị trường như
Mỹ ,Nhật Bản thì họ lại yêu cầu sản phẩm với chất lượng cao. Vì vậy để đáp ứng những nhu cầu
này Việt Nam phải sử dụng qua trung gian.
 Phương thức thanh toán:
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay trên thị trường gạo quốc tế, các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đã luôn linh hoạt trong phương thức thanh toán để chiếm
được nhiều thị trường khác nhau.
2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.3.1. Những thành tựu đạt được và tác động kinh tế - xã hội
Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật như:
Thứ nhất: Thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của đảng và nhà nước, kinh tế nông
nghiệp và nông thôn nước ta đã có những bước phát triển đáng kể.
Thứ hai: Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên.
Thứ ba: Kết cấu chủng loại gạo xuất khẩu đã có những cải thiện nhất định trong những năm

gần đây.
Thứ tư: Thị trường xuất khẩu gạo không ngừng được mở rộng.
Thứ năm: Xuất khẩu gạo góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, tạo
sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới.
Thứ sáu: Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thứ bảy: xuất khẩu gạo tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở khu vực
nông thôn nói riêng và trong cả nước nói chung.
Thứ tám: Xuất khẩu gạo đã đi cùng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ buổi
đầu(1989) và góp phần quan trọng vào quá trình này.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.
Về thị trường xuất khẩu:
Trong thời gian vừa qua thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn là thị trường có sức mua
thấp thiếu tính bền vững, chủ yếu là thị trường đòi hỏi phẩm cấp sản phẩm không cao
 Về chất lượng gạo xuất khẩu:
Chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam còn kém, gạo 5% tấm, gạo nếp, gạo thơm mới
chiếm khoảng 50%. Chất lượng gạo xuất khẩu thấp do một số nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất: Do giống lúa kém.
Thứ hai: Chính sách hướng xuất khẩu vào các thị trường tập trung với việc đáp ứng nhu câù
gạo phẩm cấp thấp đã khiến người nông dân vẫn phải duy trì sản xuất giống lúa có phẩm cấp
thấp đó
Thứ ba: Công nghệ chế biến lạc hậu, các công việc sau thu hoạch chưa đạt được tiêu chuẩn
làm thất thoát một lượng gạo đáng kể.
 Về giá gạo xuất khẩu:
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo xuất khẩu của một số nước như Thái Lan,
Ấn Độ, Mỹ vì thế kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu là do tăng khối lượng xuất khẩu.
Nguyên nhân giá gạo thấp là do:
Thứ nhất: Chất lượng gạo xuất khẩu còn kém, phẩm chất thấp, mẫu mã chưa đáp ứng được
yêu cầu của các thị trường khó tính, đã làm giá gạo nước ta thấp hơn giá gạo quốc tế.
Thứ hai: Cạnh tranh gay gắt giữa chính các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam trên
thị trường thế giới làm cho giá gạo của Việt Nam giảm thấp

Thứ ba: Việc quản lý gạo trong xuất khẩu còn buông lỏng, gạo chất lượng kém vẫn còn tham
gia vào thị trường xuất khẩu đã ảnh hưởng đến uy tín của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ tư: Dự báo thị trường nông sản trong khu vực và trên thế giới chưa nhanh nhạy và chính
xác, chưa phân tích đầy đủ các yếu tố tác động đến giá cả trong nhiều năm.
Thứ năm: Năng lực tạm trữ gạo xuất khẩu còn yếu nên thường xuất khẩu gạo ồ ạt vào vụ thu
hoạch nên giá thấp, khi giá gạo trên thị trường thế giới lên cao thì lại không có gạo bán.
Thứ sáu: Mức chênh lệch giá gạo của nước ta so với các nước khác còn cao còn do Việt Nam
chưa có được hệ thống bạn hàng tin cậy từ nhiều năm như Thái Lan, do đó doanh thu xuất khẩu
cũng giảm do phải chi khoản hoa hồng môi giới.
Thứ bảy: Xuất khẩu gạo qua trung gian còn tồn tại khá phổ biến và vì vậy giá xuất khẩu thấp
2.3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam
2.3.3.1. Quan hệ giữa khối lượng và kim ngạch xuất khẩu
Những con số tăng trưởng liên tục về khối lượng gạo xuất khẩu lại báo động một thực tế
đáng lo về xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo năm 2011 không thoát khỏi căn bệnh “tích cực bán ra
khi giá thấp, còn khi giá tăng thì co lại” như thực tế đã từng xuất hiện, điển hình là liên tục trong
3 năm 1998 - 2000 và gần đây nhất là năm 2008. Cụ thể, theo số liệu của VFA, nếu tính theo
quý, khi giá xuất khẩu gạo quý II năm 2011 ở mức đáy 465USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu lại
ở mức đỉnh 2,053 triệu tấn, chiếm 28,9% tổng khối lượng xuất khẩu cả năm. Ngược lại, khi giá
quý IV đạt đỉnh 562USD/tấn thì khối lượng xuất khẩu chỉ đạt 1,234 triệu tấn, chỉ chiếm 17,4%.
2.3.3.2. Lợi ích của người nông dân trồng lúa trong chuỗi giá trị xuất khẩu gạo
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Luật và Nguyễn Đức Lộc nhà máy xay bóng 3,4%
thì tham gia vào chuỗi giá trị gạo xuất khẩu có 5 tác nhân: nông dân, thương lái, nhà máy xay
sát, nhà máy lau bóng, công ty xuất khẩu. Tổng giá trị gia tăng của 1 kg gạo xuất khẩu là 100%
thì nông dân được 36,5%, thương lái 18,9%, nhà máy xay xát 12,3%, công ty xuất khẩu 28,9%.
Như vậy, người nông dân trực tiếp sản xuất tra lúa gạo xuất khẩu chỉ được hưởng chưa đến 2/5
lợi ích thu được từ xuất khẩu gạo.
2.3.3.3 Tính bền vững của xuất khẩu gạo
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo nhằm thực hiện đa mục tiêu công
- An ninh lương thực: Lương thực quốc gia sẵn có , chi phí hợp lý và giá thực phẩm ổn định,
dinh dưỡng hộ gia đình và trẻ em, đối phó với thảm họa thiên nhiên

- Phát triển nông thôn và phát triển kinh tế - xã hội vùng: thu nhập/ phúc lợi của người nông
dân, việc làm phi nông nghiệp, hiệu quả sử dụng các nguồn lực, giảm thiểu tác động đến môi
trường
- Thương mại: xuất khẩu gạo dư thừa, mở rộng quan hệ của Việt Nam với khu vực và quốc
tế, phát triển thương mại quốc tế và tạo thêm giá trị gia tăng.
2.3.3.4. Cái bẫy của kỷ lục xuất khẩu gạo về khối lượng
Năm 2009, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã vượt qua ngưỡng 6 triệu tấn/năm. Năm 2011,
Việt Nam xuất khẩu gạo vượt ngưỡng 7 triệu tấn/năm.
Tới hết tháng 10/2012, Việt Nam đứng đầu thế giới về khối lượng gạo xuất khẩu và vị trí này
có thể duy trì hết 2012 thậm chí sang năm 2013.
Tuy nhiên, chất lượng gạo xuất khẩu thấp dẫn tới giá thấp vì vậy kim ngạch xuất khẩu gạo
không tăng tương xứng với sản lượng gạo xuất khẩu. Xét về kim ngạch xuất khẩu, trong số 3
quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới hiện nay (Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan) thì Việt Nam lại
đứng ở hạng cuối cùng. Vì thế càng xuất khẩu nhiều gạo, tính không bền vững càng không đậm
nét. Vì vậy, Việt Nam nên quá bận tâm với vị trí thứ nhất hay thứ nhì trong xuất khẩu gạo. Vì vị
trí thứ nhất hay thứ nhì chưa chắc mang lại sự giàu có, sung túc mà có thể là một cái bẫy với
nhiều ảo tưởng và mang lại nhiều rủi ro.


Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XUẤT KHẨU GẠO
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Bối cảnh mới và ảnh hƣởng của nó đến xuất khẩu gạo của Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
3.1.1.1. Bối cảnh chung
- Toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành xu hướng chung của thời đại:
- Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra hết sức nhanh và mạnh mẽ, ngày càng đạt được
những thành tựu to lớn, đã, đang và sẽ ảnh hưở

- Suy thoái kinh tế toàn cầu khiến cho sức tiêu dùng giảm, đặc biệt là ở những nước đang
phát triển.
- Những nước nhập khẩu gạo lớn khiến cho việc xuất khẩu gạo trở nên khó khăn hơn và cạnh
tranh trong xuất khẩu gạo sẽ gay gắt hơn.
- Biến đổi khí hậu toàn cầu không còn là nguy cơ nữa mà đã thể hiện ngày càng rõ với những
tác động tiêu cực khôn lường
3.1.1.2 Dự báo thị trường gạo quốc tế
 Cầu về gạo trên thị trường quốc tế
Theo các chuyên gia của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế, nhu cầu lương thực của thế giới
tiếp tục gia tăng vì dân số thế giới ngày càng tăng. Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ
(USDA) thương mại lúa gạo toàn cầu tăng 2,4% hàng năm từ năm 2007 đến 2016, đến năm 2016
thương mai lúa gạo toàn cầu đạt mức 35 triệu tấn, tăng gần 25% so với mức năm 2002.
 Cung gạo xuất khẩu trong thời gian tới:
Diện tích trồng lúa gạo thế giới dự báo sẽ không mở rộng trong giai đoạn từ 2007 - 2014,
thấp hơn khoảng 2% so với mức tính toán của 1999/2000. Hầu hết các nước Châu Á đều không
có, hoặc có khả năng rất ít để mở rộng diện tích lúa. Trong thập kỷ tới, diện tích lúa ở Trung
Quốc thu hẹp lại dự báo sẽ bù trừ vào diện tích mở rộng ở tiểu vùng Sahara ở Châu Phi và các
nước Mỹ La Tinh.
 Giá gạo xuất khẩu
Giá gạo xuất khẩu, biến động tăng giảm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là diễn biến
của thời tiết, khí hậu.
3.1.2. Bối cảnh Việt Nam
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ra khỏi khủng hoảng,kinh tế đạt tốc
độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Năm 1986 -1990: GDP tăng 4,4%/năm. Năm 1991 -1995:
GDP bình quân năm tăng 8,2%. Từ 1996 đến 2000, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài
chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, Việt Nam vẫn duy trì được
tốc độ tăng trưởng kinh tế 7%/năm. Giai đoạn 2001 - 2005 nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục, GDP bình quân tăng 7,5%/năm. Năm 2006 - 2010: tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 7%.
Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức

cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào các yếu tố phát triển theo
chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu
Việt Nam đã bước vào giai đoạn hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu hóa giai
đoạn thực hiện nhiều hơn, sâu hơn các cam kết khi gia nhập WTO. Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo
đứng trước những cơ hội hết sức to lớn. Đó là sự mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công
nghệ tiên tiến trong sản xuất và chế biến gạo
Như vậy, gia nhập WTO xuất khẩu gạo của Việt Nam vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu
với những thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị
trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực
tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của Việt Nam. Giữa cơ
hội và thách thức có mối quan hệ biện chứng, chuyển hóa lẫn nhau tùy thuộc vào việc tận dụng
cơ hội và ứng phó với thách thức của chính phủ cũng như của ngành lúa gạo Việt Nam.
3.2. Quan điểm định hƣớng nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
Thứ nhất: xuất khẩu lúa gạo trước hết phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Thứ hai: xuất khẩu gạo phải chú trọng cả số lượng và chất lượng, tránh xa vào cái bẫy của kỷ
lục mới, thứ hạng cao về khối lượng gạo xuất khẩu.
Thứ ba: xuất khẩu gạo phải mang tính bền vững:
Thứ tư: xuất khẩu gạo theo các nguyên tắc của thị trường mà trước hết là nguyên tắc cạnh
tranh
3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong thời gian tới
3.3.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu gạo.
Có nhiều câu hỏi mang tính chiến lược chưa được giải đáp cần phải được trả lời trong một
bản chiến lược xuất khẩu gạo trong trung và dài hạn, đó là: quan điểm, mục tiêu xuất khẩu gạo
của Việt Nam trong dài hạn, trung hạn, và những nhiệm vụ chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ đột
phá? Lợi thế thực sự của Việt Nam trong ngành lúa gạo thế giới hiện nay và tương lai? Vị thế
của ngành lúa gạo Việt Nam trong trung hạn và dài hạn? Vai trò của Chính phủ, doanh nghiệp và
người trồng lúa? Các chủng loại lúa gạo sẽ sản xuất? Quy hoạch các vùng trồng các chủng loại
lúa gạo? Việc xây dựng một chiến lược sản xuất lúa gạo sẽ góp phần tăng trưởng xuất khẩu
gạo theo hướng bền vững.

3.3.2. Hoàn thiện cơ chế và chính sách
Muốn vậy thì Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiên các cơ chế và chính sách sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách về đất đai.
Thứ hai: chính sách tín dụng và đầu tư cho sản xuất lúa gạo
Thứ ba: Chính sách và giải pháp thị trường
Thứ tư: Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất, chế biến và lưu thông
lúa gạo, như sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công cụ cơ giới nông nghiệp, các cơ sở
chế biến, bảo quản, vận chuyển
3.3.3 Đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo hướng tạo sản phẩm chất lượng cao
Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải tập trung vào một số hướng chính sau:
Quy hoạch vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu, xây dựng các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập
trung chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên cơ sở các hợp đồng đã ký
kết giữa doanh nghiệp với nông dân và phải đảm bảo cho sản phẩm đầu ra tiêu thụ nhanh chóng
với mức giá có lợi
Cơ cấu lại giống lúa theo hướng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu
- Thực hiện chính sách bảo hiểm sản xuất lúa gạo để nông dân yên tâm đầu tư phát triển
các loại lúa mới có chất lượng cao.
3.3.4. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và bảo quản
- Phát triển công nghiệp chế biến không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cao mà nó còn là điều
kiện quan trọng để hạt gạo Việt Nam vượt qua được rào cản kỹ thuật của các nước.
- Yêu cầu của đổi mới công nghiệp chế biến hiện nay là trang bị lại và trang bị mới hệ
thống dây chuyền đồng bộ, hiện đại, để tạo ra những sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã,
kiểu dáng với giá thành thấp, đủ sức cạnh tranh trên thi trường thế giới bao gồm từ khâu phơi
sấy, phân loại, bảo quản, sơ chế, chế biến, bảo trì và đóng gói. Đương nhiên, Việt Nam cũng cần
phải chú ý đúng mức đến cả các yếu tố trước thu hoạch như giống, phân bón, cách thức chăm
sóc, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật… bởi các khâu này có vai trò quyết định khá lớn đối với
các khâu khác.
3.3.5. Xúc tiến mạnh xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu
Giải pháp đưa ra để xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gạo Việt Nam hiện nay là:

- Nâng cao chất lượng gạo trên cơ sở phát triển công nghệ hạt giống và công nghệ sau thu
hoạch, chuyển nền nông nghiệp số lượng sang chất lượng bằng cách tăng cường các ứng dụng
công nghệ cao.
- Phải đảm bảo sự có mặt thường xuyên các sản phẩm gạo trên thị trường thế giới.
- Phát triển vùng nguyên liệu chuyên canh để tạo sản phẩm thuần nhất
- Tạo mối liên kết khăng khít giữa nhà nông, nhà kinh doanh, nhà khoa học nhằm đảm bảo
hài hòa lợi ích và tạo điều kiện hỗ trợ tối đa lẫn nhau giữa các chủ thể này
- Tạo cơ sở pháp lý (thương hiệu được đăng ký với các cơ quan quản lý trong nước và
quốc tế, được chứng nhận của các tổ chức có uy tín về chất lượng, giá cả của sản phẩm), sau đó
là quảng bá thương hiệu thông qua nhiều hình thức khác nhau để tạo dựng uy tín, trong đó quảng
bá bằng cách kết hợp với phát triển du lịch là một cách thức vô cùng hữu hiệu và cần được lưu
tâm trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.3.6. Mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu
Để đạt được mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thị phần của gạo Việt Nam trên thị
trường thế giới, nên thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị trường với các biện pháp sau:
- Giữ vững thị trường quen thuộc và truyền thống như Malaysia, Singapore, Trung đông,
Nam phi…Để thực hiện mục tiêu này các doanh nghiệp cần phải tạo và giữ uy tín của mình
thông qua việc nghiêm chỉnh thực hiện các hợp đồng đã ký kết.
Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và công tác khuếch trương, quảng cáo sản phẩm
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, vươn tới những thị trường tiềm năng.
Đổi mới hơn nữa phương thức xuất khẩu, chuyển từ xuất khẩu qua trung gian sang xuất khẩu
trực tiếp
3.3.7. Huy động vốn và hỗ trợ vốn cho xuất khẩu gạo
Đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp đặc biệt là sản xuất và xuất khẩu gạo là rất ít. Do
đó, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, bảo quản tạm trữ, chế biến gạo xuất khẩu đang là nhu cầu
bức thiết.
Để tăng cường nguồn vốn cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo cần phải:
- Có các chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài cho các dự án đầu tư sản xuất
nguồn giống có chất lượng cao, nâng cao năng lực sau thu hoạch, đầu tư vào quá trình sản xuất
và bao tiêu sản phẩm.có cơ chế hỗ trợ về thuế, về ưu đãi đầu tư, rút ngắn và đơn giản hóa thủ tục

đầu tư.
- Khuyến khích các công ty lương thực có tiềm lực về tài chính đầu tư vốn cho nông dân
sản xuất lúa và bao tiêu sản phẩm bằng các hình thức khác nhau như hỗ trợ nguồn vật tư đầu vào,
cung cấp giống có chất lượng cao.
- Nhà nước có chính sách về tín dụng cho nông dân thông qua các hình thức tín chấp qua
các tổ, nông hội, hội phụ nữ…để đảm bảo nguồn vốn vay
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông thôn. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giúp
cho các công tác vận chuyển, chế biến gạo kịp thời, giảm tỷ lệ hao hụt trong thu hoạch, đồng thời
nâng cao đời sống cư dân nông thôn.
3.3.8. Hoàn thiện và tăng cường liên kết 4 nhà
Có thể nói liên kết 4 nhà là một trong những phương thức tốt nhất cho phép người nông dân
tận dụng được nhiều lợi thế để phát triển sản xuất; nhà khoa học có điều kiện để thực hiện năng
lực chuyên môn và tăng thu nhập; nhà doanh nghiệp có cơ hội tìm được những sản phẩm đáp
ứng được nhu cẩu thị trường; Nhà nước có điều kiện thể hiện rõ vai trò của mình với tư cách
người nhạc trưởng. Nhà nông cần đứng chung với doanh nghiệp, nhà khoa học dưới sự tác động
hỗ trợ của chính sách nhà nước.Các chủ thể này phải liên kết với nhau vì lợi ích của mình và tôn
trọng lợi ích của các chủ thể khác trong chuỗi ngành hàng
3.3.9. Bảo vệ môi trường sinh thái ngành sản xuất lúa
Bảo vệ môi trường sinh thái nhằm bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đa dạng sinh học, chống thoái
hóa và xói mòn đất, giảm hiệu ứng nhà kính từ sản xuất nông nghiệp
KẾT LUẬN

Sản xuất lúa gạo đã có từ lâu đời và là một nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Tuy
nhiên, Việt Nam mới chính thức tham gia thị trường gạo thế giới trong thời kỳ đổi mới với tư
cách là một quốc gia cường quốc xuất khẩu gạo.
Thị trường gạo thế giới luôn biến động do sự tác động đa chiều giữa cung cầu, cạnh tranh
và giá cả.
Việc nghiên cứu về mặt lý luận đặc điểm đặc trưng của thị trường gạo thế giới, những
nhân tố tác động đến thị trường gạo sẽ tạo cơ sở lý luận cho hoạt động xuất khẩu gạo có hiệu
quả. Nghiên cứu để có cái nhìn tổng quan về thị trường gạo cũng như kinh nghiệm của một số

quốc gia thành công trong xuất khẩu gạo tạo căn cứ thực tiễn để Việt Nam tiến nhanh vào thị
trường này. Xuất phát từ cách đặt vấn đề như vây, luận văn đã cố gắng hệ thống hóa và góp phần
làm rõ hơn những cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất khẩu gạo. Từ năm 1989 đến nay,
đặc biệt là trong giai đoạn 2001 đến 2011 cho thấy, cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã tận
dụng, phát huy tiềm năng và lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, đã đạt được những
thành tựu to lớn trong xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo đã trở thành yếu tố quan trọng của ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động xuất khẩu gạo còn
thấp, xuất khẩu gạo của Việt Nam còn thiếu bền vững ở tất cả các khía cạnh của khái niệm này.
Để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu gạo trong bối cảnh mới của thế giới và của Việt Nam,
cần đổi mới quan điểm về xuất khẩu gạo và thực hiện đồng bộ tổng thể các giải pháp liên quan
đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo. Các giải pháp được đưa ra trong luận văn nhằm nâng
cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới là: Xây dựng chiến lược kinh
doanh; hoàn thiện cơ chế và chính sách; đổi mới cơ cấu sản xuất lúa gạo theo hướng tạo sản
phẩm chất lượng cao; phát triển mạnh công nghiệp chế biến và bảo quản; xúc tiến mạnh xây
dựng thương hiệu cho gạo; mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; hoàn thiện và tăng
cường liên kết 4 nhà; bảo vệ môi trường sinh thái ngành sản xuất lúa.
Để các giải pháp phát huy tác dụng đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ và khoa học giữa
các chính sách, giữa nhà nước với nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông.


References

1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7, khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Văn Bích (2007), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Chính Phủ (14/11/2010), Nghị định số 109/2010/NĐ-CP, Hà Nội.
4. Chính Phủ (11/5/2012), Nghị định số 42/2012/NĐ - CP, Hà Nội.
5. Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1996), Nửa thế kỷ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam 1945 - 1955, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

6. Vũ Cương (2005), Chính sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phan Huy Đường (2011), “Giải pháp nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu
của hàng nông sản Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (6/182)
10. “Kinh tế 2010 - 2011 Việt Nam và Thế giới”, Thời báo kinh tế Việt Nam.
11. Ngô Thị Tuyết Mai (2011), Phát triển bền vững hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
trong điều kiện hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Phan Sỹ Mẫn (2010), “Chính sách và giải pháp đối với sản xuất gạo của hộ nông dân”,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (79386)
13. Lê Quang Phi (2007), Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Lê Du Phong (2011), “Coi giải quyết vấn đề tam nông là một trong những vấn đề then
chốt của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 - 2020”, Tạp chí Kinh tế và
phát triển.
15. Chu Tiến Quang (6/2011), “Nông nghiệp Việt Nam sau bốn năm thực hiện cam kết
WTO”, Tạp chí cộng sản, (824).
16. Đặng Kim Sơn (2012), Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam theo ướng giá trị gia tăng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Ngọc Thanh, Phùng Quang Trung (6/2007), “Thực trạng năng lực hội nhập kinh
tế quốc tế của các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế, (349).
18. Nguyễn Đức Thành (2011), Nền kinh tế trước ngã ba đường, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.
19. Nguyễn Đức Thành (2012), Đối diện thách thức tái cơ cấu kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
20. Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

21. Lê Đình Thắng (2006), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội.
22. Đoàn Thị Thủy (2011), Chính sách hỗ trợ nông nghiệp Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
24. Nguyễn Trần Trọng (3/2009), “Để Việt Nam giữ vững vị trí nước xuất khẩu gạo lớn trên
thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (3/370).
25. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế thuộc bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Triển vọng
thị trường lúa gạo Việt Nam năm 2011, những đóng góp trong việc đảm bảo an ninh
lương thực quốc tế, Hà Nội.
26. Nguyễn Từ (2010), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. w.w.w.agroviet.gov.vn
28. w.w.w.Ipsard.gov.vn


×