Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Địa vị pháp lý của chính phủ theo hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) xu hướng phát triển và hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.18 KB, 17 trang )

1

Địa vị pháp lý của Chính phủ theo Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) xu hướng phát
triển và hoàn thiện
The legal status of the government under the 1992 constitution (as amended and supplemented in
2001) tend to develop and improve
NXB H. : Khoa Luật, 2012 Số trang 93 tr. +
Hoàng Thị Quỳnh Mai

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật;
Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Đăng Dung
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu tổng quan về địa vị pháp lý của Chính phủ qua các mô hình Chính
thể trên thế giới để tác giả có được một cái nhìn tổng quát, thấy được sự giống, khác nhau
trên các phương diện để tìm ra được lời lý giải cho các vấn đề liên quan. Nghiên cứu về
địa vị pháp lý của Chính phủ qua các bản Hiến pháp Việt Nam: Hiến pháp 1946, 1959,
1980 và Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001). Nghiên cứu các quy định pháp luật của
nước ta hiện hành về địa vị pháp lý của Chính phủ, so sánh với thực trạng hoạt động của
Chính phủ để tìm ra các ưu, nhược điểm, xu hướng phát triển, từ đó đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của Chính phủ ở nước ta hiện nay.

Keywords: Địa vị pháp lý; Pháp luật Việt Nam; Luật Hiến pháp; Chính phủ

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, địa vị pháp lý của Chính phủ được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001), Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, và các văn bản khác có liên quan. Những văn bản này là cơ


sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp. Các văn
bản được ban hành gần đây đã thể hiện tư tưởng tăng cường hiệu quả của bộ máy hành pháp như tinh
thần cải cách hành chính; phân công và phân cấp quản lý Nhà nước; tăng cường chế độ trách nhiệm
của các chủ thể quản lý Nhà nước [27, tr.343]. Và đặc biệt, Hiến pháp 1992 đã tạo lập cơ sở pháp lý
cao nhất cho việc hình thành một thiết chế mới của hệ thống hành chính nhà nước, đó là thiết chế Thủ
tướng Chính phủ. Đây là bước cải cách có ý nghĩa rất quan trọng đối với hành pháp và hành chính nhà
nước nhằm thúc đẩy và nâng cao tính linh hoạt, nhạy bén trong quản lý, điều hành của bộ máy hành
chính, thích ứng với yêu cầu của quá trình chuyển đổi cơ chế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, các văn bản chủ đạo là căn cứ cho hoạt động của Chính Phủ còn bộc lộ nhiều
hạn chế. Một số quy định của Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung 2001) thiếu toàn diện và
thiếu sự thuyết phục dưới góc độ khoa học. Hiện nay, nước ta đã và đang xây dựng Nhà nước
2

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đang từng bước hội nhập mạnh mẽ vào “sân chơi
chung” toàn cầu. Với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập Quốc tế, càng ngày càng
đòi hỏi phải nhận thức rõ tầm quan trọng của Chính phủ trong cơ cấu tổ chức nhà nước hiện đại.
Đổi mới, điều chỉnh vai trò, chức năng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là vấn đề lớn, có
phần phức tạp, không chỉ đòi hỏi phải có nhận thức, tư duy mới trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm các nước mà còn đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị rất cao
của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Những đổi mới và điều chỉnh đề cập
trên đây đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi những nội dung liên quan của Hiến pháp để tạo cơ sở cho
việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001. Hòa chung với không khí bàn
luận sôi nổi về việc sửa đổi Hiến pháp hiện hành; và với mong muốn góp một tiếng nói thiết thực
vào việc sửa đổi Hiến pháp lần này, tôi đã mạnh dạn chọn “Địa vị pháp lý của Chính phủ theo
hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) – xu hướng phát triển và hoàn thiện” để làm đề
tài cho Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chính phủ là một chế định quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà nước ta, được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các báo, tạp chí

chuyên ngành Luật, giáo trình, sách chuyên khảo, các đề tài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đó thường chỉ tiếp cận ở góc độ chế định Chính phủ chuyên sâu về từng vấn đề khác
nhau, mà chưa có tính hệ thống về địa vị pháp lý của Chính phủ theo hiến pháp hiện hành (Hiến
pháp 1992, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về địa vị pháp lý
của Chính phủ theo hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), tìm ra xu hướng phát triển và
nhằm hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ, đáp ứng các đòi hỏi thực tiễn và
yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Luận văn có mục đích tổng quát là nghiên cứu Địa vị pháp lý của Chính phủ theo Hiến
pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001): Vị trí, tính chất pháp lý của Chính phủ; Nhiệm
vụ quyền hạn; Cơ cấu tổ chức; và các hình thức hoạt động của Chính phủ. Từ thực trạng hoạt
động của Chính phủ để tìm ra các ưu, nhược điểm, xu hướng phát triển, từ đó đưa ra những giải
pháp để hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của Chính phủ của nước ta hiện nay.
4. Giới hạn nghiên cứu của Luận văn
Địa vị pháp lý của Chính phủ là vấn đề có phạm vi rộng và có phần phức tạp. Với thời lượng
hạn chế, trong khuôn khổ của Luận văn tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định trong Hiến
pháp của nước ta hiện hành về địa vị pháp lý của Chính phủ để tìm ra các ưu, nhược điểm. Bên cạnh
đó, nghiên cứu tổng quan về địa vị pháp lý của Chính phủ qua các mô hình Chính thể trên thế giới để
tác giả có được một cái nhìn tổng quát, thấy được sự giống, khác nhau trên các phương diện để tìm ra
3

lời lý giải cho các vấn đề liên quan; từ đó thấy được xu hướng phát triển, đưa ra những giải pháp để
hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của Chính phủ ở nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn
Trong quá trình viết và hoàn thiện Luận văn này, tác giả đã cố gắng dày công học hỏi,
nghiên cứu, thu thập tài liệu để lấy thông tin và các kiến thức cần thiết giúp cho việc hoàn thiện đề
tài. Và trong khi viết, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu, đó là phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng và phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để tổng hợp, phân tích các thông tin, tài liệu liên

quan đến nội dung nghiên cứu.
Việc sử dụng phương pháp so sánh sẽ giúp ta có được một cái nhìn tổng quát, thấy được
sự giống, khác nhau trên các phương diện để tìm ra được lời lý giải cho các vấn đề liên quan như:
Địa vị pháp lý của Chính phủ qua các mô hình Chính thể trên thế giới; Thiết chế Chính phủ qua
các bản Hiến pháp Việt Nam; Từ các quy định pháp luật của nước ta hiện hành về địa vị pháp lý
của Chính phủ, so sánh với thực trạng hoạt động của Chính phủ để tìm ra các ưu, nhược điểm, xu
hướng phát triển, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của Chính
phủ của nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa của Luận văn
Những kiến thức khoa học trong Luận văn có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết, là tài
liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo
Luật ở Việt Nam. Luận văn nêu ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định về địa vị pháp lý
của Chính phủ theo Hiến pháp Việt Nam hiện hành, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện và
nâng cao địa vị pháp lý của Chính phủ của nước ta hiện nay. Xu hướng phát triển và giải pháp
hoàn thiện mà tác giả nêu ra trong Luận văn là ý kiến đóng góp để các nhà khoa học, các nhà quản
lý, các thành viên trong ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội khóa XIII tham khảo, phục
vụ cho việc sửa đổi Hiến pháp hiện hành.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, lời cảm ơn, lời cam đoan, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về địa vị pháp lý của Chính phủ qua các mô hình chính thể trên thế giới;
Chương 2: Sự hình thành và phát triển về tổ chức của Chính phủ Việt Nam từ 1945 đến
nay qua các bản Hiến pháp;
Chương 3: Thực trạng và xu hướng phát triển về Địa vị pháp lý của Chính phủ theo Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao Địa vị pháp lý của Chính phủ.


4







CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHÍNH PHỦ
QUA CÁC MÔ HÌNH CHÍNH THỂ TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Đôi nét về sự ra đời của thiết chế Chính phủ
Nhiều định chế quyền lực có gốc tích ở Anh quốc. Nội các - Chính phủ cũng có nguồn gốc
từ xứ sở này [8, tr.439].
1.2. Tổng quan về địa vị pháp lý của Chính phủ qua các mô hình chính thể trên thế giới
Là thiết chế trung tâm của bộ máy nhà nước, bộ phận chủ yếu thực hiện quyền hành pháp,
có chức năng quản lý điều hành toàn diện các quá trình kinh tế - xã hội theo định hướng nhất định,
Chính phủ luôn được quan tâm từ khâu tổ chức đến hoạt động, dù nhà nước đó được thiết kế theo
chính thể nào: cộng hòa hay quân chủ [12, tr.42]. Hiện tại, trên thế giới, tổ chức nhà nước của các
nước tồn tại hai loại chính thể: Chính thể Quân chủ và chính thể Cộng hòa. Chính thể Quân chủ
thường được tổ chức thành Quân chủ tuyệt đối của nhà nước hoàn toàn theo chế độ phong kiến và
Quân chủ hạn chế (quân chủ Lập hiến/ quân chủ Đại nghị) là mô hình tiến bộ hơn. Chính thể
Cộng hòa có các biến thể cộng hòa Đại nghị, cộng hòa Tổng thống và cộng hòa Lưỡng tính. Cùng
với những biến thể khác nhau về tổ chức, các bộ phận cấu thành tối cao của bộ máy nhà nước có
mối quan hệ đặc trưng với nhau và với dân chúng. Chính phủ trong các chính thể này được thành
lập theo cách thức khác nhau, các mối quan hệ của Chính phủ với các bộ phận còn lại và với nhân
dân tùy thuộc vào cơ chế thành lập với đặc trưng riêng có của mỗi nước.
1.2.1. Chính phủ trong nhà nƣớc theo chính thể Quân chủ Đại nghị
Hiện nay trên thế giới, chính thể quân chủ Đại nghị còn tồn tại ở nhiều nước như ở Vương
quốc Anh, Nhật Bản, các nước Bắc Âu, Ốt – xtrây – li – a, Ca na đa, Thái Lan… Trong số các
nước theo chính thể này, đặc biệt phải kể tới Vương quốc Anh – nơi khởi nguồn của các thiết chế
dân chủ.
Mô hình Chính phủ của Anh Quốc còn gọi là mô hình nội các (hành pháp hai đầu: Hành

pháp tượng trưng của nguyên thủ quốc gia; và Hành pháp thực quyền của Thủ tướng Chính phủ)
[9, tr.300]. Mô hình này được hình thành ngay từ những thời gian đầu của cách mạng tư sản. Hoạt
động của Chính phủ - hành pháp do một tập thể thực hiện.



5

1.2.2. Chính phủ trong chính thể Cộng hòa
Chính thể cộng hòa gồm hai loại chủ yếu là cộng hòa Đại nghị và cộng hòa Tổng thống. Ngoài
ra, còn có hình thức thứ ba là sự kết hợp giữa hai hình thức trên gọi là cộng hòa Lưỡng tính.
1.2.2.1. Chính phủ trong chính thể Cộng hòa Đại nghị
Hình thức chính thể Cộng hòa Đại nghị được thành lập ở các nước như Italia, Cộng hòa
Liên bang Đức, cộng hòa Ấn Độ,…Trong chính thể Cộng hòa Đại nghị, cơ cấu bộ máy nhà nước
ở Trung ương có Nghị viện bao gồm những đại diện của các tầng lớp dân cư, các đảng phái chính
trị do nhân dân bầu chọn bằng phổ thông đầu phiếu; Nguyên thủ Quốc gia – Tổng thống do Nghị
viện bầu ra; Chính phủ do Nghị viện quyết định thông qua trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng –
người đứng đầu chính phủ lựa chọn các thành viên và Tòa án.
Nhìn chung, ở loại hình chính thể Cộng hòa Đại nghị có nhiều đặc điểm cơ bản như của
chính thể quân chủ Đại nghị, chỉ khác chính thể quân chủ ở chỗ, nguyên thủ quốc gia không do
thế tập truyền ngôi, mà do Nghị viện hoặc dựa trên cơ sở Nghị viện bầu ra, mặc dù được Hiến
pháp quy định có một quyền hạn hết sức rộng rãi, nhưng mọi hoạt động của nguyên thủ đều có sự
đề nghị, yêu cầu từ phía hành pháp. Hành pháp với người đứng đầu hành pháp, càng ngày càng trở
thành cơ quan trung tâm thực hiện chủ yếu quyền lực nhà nước tư sản [5, tr.88], được thành lập
dựa trên cơ sở của Nghị viện, và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện; Chính phủ - hành pháp
chỉ được hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Nghị viện. Khi không còn sự tín nhiệm của Nghị
viện, thì Chính phủ có thể bị lật đổ và kèm theo đó, Nghị viện có thể bị giải tán. Đó cũng là những
dấu hiệu quan trọng của chế độ quân chủ đại nghị.
1.2.2.2. Mô hình Chính phủ một ngƣời của chế độ Tổng thống
Hình thức chính thể cộng hòa Tổng thống xuất hiện muộn hơn so với cộng hòa Đại nghị.

Đầu tiên hình thức nhà nước này được thành lập ở Mỹ, sau đó nhanh chóng xuất hiện ở các nước
Mỹ la tinh và một số nước ở Châu Á. Mô hình Chính phủ này còn được gọi là hành pháp một đầu
[9, tr.302] do Tổng thống không những là nguyên thủ quốc gia, đảm nhiệm các chức năng hành
pháp tượng trưng, mà còn trực tiếp lãnh đạo và điều hành Chính phủ.
Đặc điểm nổi bật nhất của mô hình Chính phủ trong chính thể Tổng thống cộng hòa là việc
Hiến pháp không quy định rõ định chế Chính phủ bao gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng như ở chế
độ Đại nghị, mà tất cả quyền hành pháp của Chính phủ được Hiến pháp quy định trực tiếp cho
Tổng thống.
1.2.2.3. Chính phủ trong Cộng hòa Lƣỡng tính
Hình thức chính thể cộng hòa lưỡng tính ra đời muộn hơn các hình thức nhà nước cộng
hòa khác. Pháp (nền Cộng hoà thứ V của Hiến pháp 1958) và Nga là hai nước tiêu biểu nhất cho
mô hình chính thể này.
Chính thể cộng hòa Lưỡng tính có tổ chức bộ máy nhà nước vừa mang đặc điểm của cộng
hòa Tổng thống và vừa có đặc điểm của cộng hòa Đại nghị. Tính Tng thng thể hiện ở chỗ: Thứ
6

nhất, Tổng thống do nhân dân bầu lên và Tổng thống không chịu trách nhiệm trước Nghị viện;
Thứ hai, Tổng thống vừa là Nguyên thủ Quốc gia vừa là người đứng đầu nhánh quyền hành pháp.
i ngh được đặc trưng bởi: Thứ nhất, Chính phủ được thành lập ít nhiều có ảnh hưởng của
Nghị viện; Thứ hai, Chính phủ ít nhiều phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện; Thứ ba, Nghị viện,
Chính phủ, có thể bị giải tán bởi Nguyên thủ quốc gia (Tổng thống).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tóm lại, trong cả chính thể Quân chủ và Cộng hòa, mô hình tổ chức nhà nước nói chung
và của Chính phủ nói riêng có những biến thể khác nhau, song chính thể Tổng thống cộng hòa là
ít biến dạng nhất. Hay nói một cách khác hơn các quy định của Hiến pháp trong chế độ Tổng
thống có nhiều tính thực tế hơn. Tuy có sự khác nhau nhưng tổ chức bộ máy nhà nước nói chung
và của chính phủ nói riêng cũng có những điểm chung nhất định. Điểm chung đó thể hiện ở vai trò
của nhân dân liên quan đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Còn những đặc điểm riêng của
từng loại hình chính thể phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước về mối tương quan giữa

các lực lượng chính trị trong nước; quan điểm xây dựng bộ máy của lực lượng cầm quyền. Và một
điểm cuối cần nhấn mạnh rằng, mọi nhà nước phát triển đều có xu hướng tăng quyền lực cho
người đứng đầu Hành pháp. Trong ba ngành quyền lực: Lập pháp, Hành pháp, và Tư pháp, ngành
quyền lực Hành pháp chiếm một vị trí rất đặc biệt, thậm chí nó bị thay đổi theo thời gian không
còn đúng với nghĩa chỉ là tổ chức thực hiện các văn bản luật của lập pháp, theo đúng vị trí, vai trò
của nó được nêu trong học thuyết phân quyền, nền tảng hiến pháp của các nhà nước phát triển. So
với Lập pháp và Tư pháp, thì Hành pháp luôn là ngành quyền lực quan trọng, và là trung tâm của
mọi nhà nước. Trong bất kỳ chính thể nào, thì Chính phủ bao giờ cũng giữ vị trí trung tâm trong
hoạch định chính sách quốc gia cũng như điều hành hoạt động của đất nước;

CHƢƠNG 2
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VỀ TỔ CHỨC CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TỪ
1945 ĐẾN NAY QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP
Trong lịch sử lập Hiến, Việt Nam đã ban hành bốn bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến
pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001):
2.1. Tổ chức Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1946
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam – Hiến pháp năm 1946.
Chế định Chính phủ được quy định tại chương IV, từ điều 43 đến điều 56 của Hiến pháp
1946. Về quyền Hành pháp, Hiến pháp quy định: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là cơ
quan hành chính cao nhất của toàn quốc. Nét đặc sắc của Hiến pháp 1946 là: “Chính ph gm có
7

Ch tc Vit Nam dân ch cng hòa, phó Ch tch và Ni các. Ni các có Th ng, các
B ng, th ng, có th có phó Th ng”.
Hiến pháp nước ta không thiết kế theo mô hình chế độ Tổng thống, cũng không phải là chế
độ Đại nghị, mà nó là một mô hình độc đáo, vừa có những yếu tố của chế độ Tổng thống (Chủ
tịch nước đứng đầu Chính phủ, nắm quyền hành pháp), vừa có những yếu tố của chế độ Đại nghị
[17, tr.311]. (Nội các từ Thủ tướng đến các thành viên do Nghị viện biểu quyết, chịu trách nhiệm
trước Nghị viện): “Ch tc Vit Nam dân ch cng hòa chn trong Ngh vin nhân dân và

phc hai phn ba tng s Ngh vin b phiu thun. Ch tc bu trong thi hn
 c bu li”; “Ch tc chn Th ng trong Ngh vi
vin biu quyt. Nc Ngh vin tín nhim, Th ng chn các B ng trong Ngh vin
 vin biu quyt toàn b danh sách. Th ng có th chn ngoài Ngh vin, do Th
 c ra Hng Chính ph duyt y”. “Th ng phi chu trách nhim v ng
chính tr ca N vin ch có th biu quyt v v tín nhim khi Th ng,
ng v hoc mt phng s Ngh vin nêu v y ra”. Chủ tịch nước vừa là người
đứng đầu nhà nước (nguyên thủ Quốc gia), vừa là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước,
tức là quyền hành pháp, phân biệt rõ với quyền lập pháp thuộc Nghị viện nhân dân.
2.2. Tổ chức Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 ra đời trong hoàn cảnh miền Bắc đã được giải phóng và đi lên chủ nghĩa
xã hội; cho nên có một thay đổi về thiết chế quyền lực” Chủ tịch nước vẫn là “i thay mt cho
c Vit Nam dân ch cng hòa v i ni ngoi”, nhưng không phải là người đứng đầu
Chính phủ, điều hành Chính phủ, mà chỉ “có quyn tham d và ch ta các phiên hp ca Hi
ng Chính ph khi xét thy cn thit”. Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1959 được gọi là Hội
đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
2.3. Tổ chức Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1980
Theo Hiến pháp 1980, Chính phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hội
đồng Bộ trưởng, là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất. Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất. Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.
Như vậy, khác với hai Hiến pháp trước, Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, mà còn là cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất – Quốc hội. Sự thay đổi đó hàm nghĩa là không
nêu lên sự phân biệt giữa ba quyền, đặc biệt là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp, và quyền
hành pháp là của Quốc hội. Có thể nói, có dáng dấp cua một thiết chế “hỗn hợp các quyền”, tức là
8


Quốc hội không chỉ là cơ quan thống nhất quyền lực cao nhất, mà còn là cơ quan nắm và thực thi
quyền hành pháp.
Về cơ cấu tổ chức, Hội đồng Bộ trưởng gồm có: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước. (Điều 105)
2.4. Tổ chức Chính phủ Việt Nam theo Hiến pháp 1992
Hiến pháp nước ta hiện nay đã quy định tập trung về chế định Chính phủ tại Chương VIII
gồm 09 điều, từ Điều 109 đến Điều 117. Các quy định này bị chi phối bởi nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước đặc thù ở nước ta: “
”.
điều 109 xác định vị trí và tính
chất của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước đó, Hiến pháp 1980 quy định Chính phủ
vừa là cơ quan chấp hành, vừa là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của  Nên so với
quy định của Hiến pháp 1980, vị trí của Chính phủ đã được xác định có tính độc lập hơn.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Như vậy, các Hiến pháp của Việt Nam kể từ năm 1959 đến nay đều quy định Chính phủ
là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan đứng đầu nền
hành chính quốc gia, có vị trí đặc biệt quan trọng. Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an
ninh và đối ngoại theo đúng chức năng, thẩm quyền do luật định. Hoạt động của Chính phủ theo
quy định tại các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 chia ra thành hai loại, phân biệt giữa hoạt
động chấp hành và hoạt động hành chính nhà nước cao nhất. So với các bản Hiến pháp được ban
hành sau này, có thể thấy Hiến pháp năm 1946 biểu hiện sự độc lập giữa Chính phủ và Quốc hội
nhiều hơn cả. Bản Hiến văn này không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan lập
pháp, trong khi các bản Hiến pháp sau này đều quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHÍNH PHỦ
THEO HIẾN PHÁP 1992 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2001)
Trải qua gần hai mươi năm thực hiện, do hoàn cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi
nên một số nội dung của Hiến pháp hiện hành đã không còn phù hợp. Với bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như hiện nay, với điều kiện kinh
tế – xã hội và tư duy pháp lý hiện đại, một số nội dung của Hiến pháp nói chung và chế định Chính
phủ nói riêng cần được đánh giá kịp thời để sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu mới.
9

3.1. Kết quả đạt đƣợc
Các quy định Hiến pháp về Chính phủ đã từng bước thể hiện bước chuyển sang xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đã được quy định
khá phủ hợp; Cơ cấu và tổ chức Chính phủ tương đối phù hợp; Quy định về thẩm quyền, trách
nhiệm của Bộ trưởng phù hợp với vai trò quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; Các
thành tựu đạt được trong từng lĩnh vực cụ thể.
3.2. Một số vƣớng mắc, bất cập
3.2.1. Cần xác định rõ vị trí, chức năng của Chính phủ
Hiến pháp hiện hành chưa xác định rõ cơ quan nào thực hiện quyền hành pháp.
3.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
Mặc dù Điều 112, 114 và 116 của Hiến pháp hiện hành đã quy định vị trí, thẩm quyền của
tập thể Chính phủ và các thành viên Chính phủ, nhưng để làm rõ hơn, cần xác định lại thẩm quyền
trên theo nguyên tắc chế độ lãnh đạo tập thể kết hợp với thủ trưởng chế và tập trung vào việc đề
cao vị trí, thẩm quyền của Thủ tướng trong chỉ đạo, điều hành hoạt động hành pháp, cũng như
thẩm quyền của cá nhân người đứng đầu ngành, lĩnh vực.
3.2.3. Về cơ cấu, tổ chức của Chính phủ
3.2.3.1. Cần xem xét lại chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ. Điều 110, Hiến pháp 1992
quy định: “Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên
khác… Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng”, việc quy
định trong Hiến pháp về chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ như một yêu cầu về cơ cấu của
Chính phủ, như một chức danh trên Bộ trưởng, chức danh trung gian giữa Thủ tướng và Bộ

trưởng là vấn đề cần được quan tâm.
3.2.3.2. V tính kiêm nhim. Hiến pháp sửa đổi cần xem xét quy định Chính phủ bao gồm:
Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ không thể
đồng thời là Đại biểu Quốc hội, hoặc các Đại biểu Quốc hội cũng không thể kiêm nhiệm các chức
vụ quản lý. Tính kiêm nhiệm này làm cho các chức vụ nêu trên có sự e dè trong hoạt động điều
hành hành chính, mặt khác các Đại biểu Quốc hội cũng không dám mạnh dạn chỉ trích, phê phán
những người giữ chức vụ trong Chính phủ.
3.2.4. Các hình thức hoạt động của Chính phủ
Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ 2001 cũng quy định những vấn đề mà Chính phủ
phải thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc làm việc tập
thể của Chính phủ không được tuân thủ nghiêm ngặt hoặc bị “biến tướng”.
3.2.5. Tình trạng tham nhũng còn xảy ra tràn lan
Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu quả nguy hại của tham nhũng, Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các
hành vi tham nhũng và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, nạn tham nhũng vẫn diễn
10

ra hết sức phổ biến, có nguy cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp. Thậm chí tham nhũng đã ăn sâu
vào tư duy và tác phong làm việc hàng ngày của một số cán bộ, công chức, làm giảm hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. Điển hình như: vụ Lã Thị Kim Oanh;
vụ Đào Tiến Dũng, Phó Tổng Công ty phát triển nhà và đô thị - Bộ Xây dựng cùng 3 bị can phạm
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chiếm hưởng 16 tỷ đồng; Vụ Mai Văn
Dâu, Thứ trưởng Bộ Thương Mại cùng 17 bị can phạm tội nhận hối lộ, môi giới hối lộ, lợi dụng
ảnh hưởng người có chức vụ, quyền hạn với số tiền các bị can đưa, nhận hối lộ lên tới hàng trăm
triệu đồng; vụ PMU 18; vụ vi phạm về quản lý đất đai tại Đồ Sơn, Hải Phòng

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Như vậy, từ việc phân tích thực trạng về địa vị pháp lý cũng như từ thực tiễn hoạt động
của Chính phủ, có thể nói chế định Chính phủ trong bản Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
tuy có những ưu điểm, song vẫn còn nhiều điểm cần xem xét, điều chỉnh lại cho phù với tổ chức

quyền lực nhà nước cũng như quản lý hành chính nhà nước ở nước ta và cả các yêu cầu chung về
tổ chức Chính phủ đã được Hiến pháp và thực tiễn các nước ở các quốc gia tiên tiến trên thế giới
kiểm nghiệm, xác nhận. Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; để phát huy vai trò trung tâm của Chính phủ trong bộ máy
nhà nước, điều hành có hiệu quả nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính
phủ đang đứng trước những thử thách mới, phải thực hiện nhiệm vụ mới. Để thực hiện được
nhiệm vụ, phát huy vai trò của mình trong điều hành đất nước đạt hiệu quả cao, giải quyết các nhu
cầu thỏa đáng của xã hội, đòi hỏi phải có một Chính phủ mạnh, có cơ cấu gọn nhẹ, năng động
trong điều hành, nhanh nhạy trong nắm bắt tình hình thực tiễn và có quyết sách kịp thời để giải
quyết triệt để các vấn đề phát sinh.

CHƢƠNG 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỂ
NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHÍNH PHỦ
4.1. Một số yêu cầu và quan điểm hoàn thiện Hiến pháp 1992 về chế định Chính phủ
Thứ nhất, các quan điểm hoàn thiện chế định Chính phủ phải dựa trên cơ sở các nguyên
tắc áp dụng chung cho toàn bộ bộ máy nhà nước.
Thứ hai, cần làm rõ chủ thể thực hiện quyền hành pháp. Cần quy định rõ, cụ thể hơn địa
vị pháp lý của Chính phủ trong thực hiện quyền hành pháp
Thứ ba, cần có sự phân biệt về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ.
Thứ tư, cần hoàn thiện các quy định Hiến pháp về những hình thức trách nhiệm đối với
Chính phủ.
11

Thứ năm, hoàn thiện Hiến pháp 1992 về chế định Chính phủ cần dựa trên cơ sở tổng kết,
đánh giá quá trình thực hiện Hiến pháp.
4.2. Một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao địa vị pháp lý của Chính phủ
4.2.1. Về vị trí, tính chất pháp lý của Chính phủ
Cần thiết phải quy định :"





























Xã hi ch  



4.2.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ
4.2.2.1. Về nhiệm vụ và quyền hạn của tập thể Chính phủ
Một là, xu hướng hiện nay là xây dựng “mt Chính ph nh trong mt xã hi ln”. Chính
phủ chỉ làm những gì mà xã hội dân sự không làm được.
Hai là, để làm rõ thẩm quyền của tập thể Chính phủ với cá nhân Thủ tướng và Bộ trưởng –
thành viên Chính phủ. Chúng ta cần làm rõ trên hai phương diện: một là, Chính phủ là tập thể
thống nhất cao trong việc thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; mặt khác, Chính phủ (cũng bao gồm các Bộ trưởng và các Thành viên khác (Điều
116), thực ra cũng chỉ là những thành viên gánh vác trách nhiệm chung của tập thể Chính phủ và
“chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực mình phụ trách”. Còn Thủ tướng là người
đứng đầu Chính phủ - đứng đầu hành pháp.
Ba là, cần từng bước tách bạch chức năng hoạch định chính sách với chức năng tổ chức
thực thi chính sách trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương. Cần khắc
phục dần sự phụ thuộc quá nhiều của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vào các bộ, ngành trong
hoạch định chính sách, xây dựng thể chế quản lý như hiện nay. Do đó, cần phải hình thành bên
cạnh Chính phủ, Thủ tướng những tổ chức tư vấn mạnh để giúp Chính phủ, Thủ tướng nghiên
cứu, hoạch định những chủ trương, chính sách quan trọng trong quản lý, điều hành vĩ mô.
Bốn là, vấn đề phân công, phân cấp quản lý. Việc phân công, phân cấp quản lý vừa nhằm
phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy hành
chính nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của
Chính phủ.
Cuối cùng, thay đổi cách thức quy định về hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Chính phủ. Hiến pháp hiện hành quy định các hình thức ban hành văn bản pháp luật cụ
thể đối với Chính phủ, Thủ Tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Trong thực tế, các quy định này không còn phù hợp, đã bị sửa đổi bởi Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Ví dụ: Điều 115 Hiến pháp hiện hành quy định “Chính phủ ban hành nghị quyết,
nghị định, Thủ tướng ban hành quyết định, chỉ thị. Trong khi đó, Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008, tại khoản 4, 5, điều 2 quy định: Chính phủ ban hành Nghị định; Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định.
12

4.2.2.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tƣớng Chính phủ
Về cá nhân Thủ tướng, cần quy định theo hướng Thủ tướng là người đứng đầu hành pháp
trong việc xây dựng, hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trong các lĩnh vực
khác nhau của quản lý nhà nước.
4.2.2.3. Về nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trƣởng – thành viên Chính phủ
Thứ nhất, cần phân biệt hai loại quy định “Bộ” và “Bộ trưởng” để tránh việc đổ đồn trách
nhiệm cá nhân Bộ trưởng cho chế định “tập thể bộ” hoặc ngược lại. Vì lý do trên, cần hạn chế quy
định khái niệm “Bộ” trong Hiến pháp.
Thứ hai, để đề cao hơn trách nhiệm của Bộ trưởng – thành viên Chính phủ, cần quy định
cụ thể, rõ hơn vai trò người đứng đầu hành chính nhà nước về ngành và lĩnh vực
Thứ ba, cần điều chỉnh một số quy định về Chính phủ theo hướng kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa.
4.2.3. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Xu hướng hiện nay, cơ cấu tổ chức của Chính phủ phải tinh gọn. “Gọn” có nghĩa là Chính
phủ phải gồm rất ít những tiểu cấu trúc bên trong, giảm những khâu, những đầu mối của quy trình
hành pháp. Còn “tinh” có nghĩa là những cơ quan của Chính phủ phải có khả năng hoạt động hiệu
quả, có khả năng giải quyết tốt, nhanh những vấn đề phát sinh trong xã hội.
Để có một Chính phủ tinh gọn, yêu cầu đặt ra đối với Chính phủ ở nước ta là phải tiếp tục
sắp xếp lại cơ cấu Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, thành các Bộ quản lý đa
ngành. Tập trung vào sắp xếp các cơ quan thuộc Chính phủ, hướng là đưa vào các Bộ tương
đương hoặc tạo thành một số Bộ mới, chỉ để lại cơ quan trực thuộc Chính phủ hết sức hạn chế.
4.2.4. Về hình thức hoạt động của Chính phủ
Chính phủ của chúng ta hiện nay chỉ họp một tháng một lần. Như vậy không thể đảm bảo
tính liên tục của hoạt động hành chính. Do vậy, cần tăng thêm số lượng các phiên họp định kỳ của
Chính phủ. Mỗi phiên họp Chính phủ có thể từ 2 đến 3 ngày như hiện nay, nhưng ít nhất là nên có
2 phiên họp Chính phủ một tháng (thay vì như hiện nay 01 tháng một phiên). Tiến tới phải như
các nước, Nội các 1 tuần họp một lần.

4.2.5. Về mối quan hệ của Chính phủ với Quốc hội
Một là, Hiến pháp hiện hành cần bổ sung những quy định nhằm đảm bảo vai trò giám sát
của Quốc hội với hoạt động hành pháp của Chính phủ đi vào thực chất.
Hai là, về quy định “Các thành viên khác ca Chính ph không nht thi  i biu
Quc hi” (điều 110, Hiến pháp 1992). Quy định này hoàn toàn phù hợp với định hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền. Điều đó có nghĩa là, để đề cao tính trách nhiệm của hành pháp trước Quốc
hội, tăng cường sự giám sát các hoạt động của Quốc hội đối với Chính phủ, khắc phục tình trạng
“vừa đá bóng vừa thổi còi” bảo đảm tính khách quan của việc giám sát quyền hành pháp.

13

4.2.6. Về mối quan hệ của Chính phủ với Tòa án nhân dân
Một là, để hoàn thiện Hiến pháp 1992 cần quan tâm trước tiên tới việc xây dựng một cơ
chế kiểm tra và phán quyết đối với các hành vi của Chính phủ thông qua vai trò xét xử của Tòa án.
Đề xuất xây dựng cơ chế bảo hiến theo mô hình nào, hoặc đề xuất thành lập mô hình Tòa án Hiến
pháp cần tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn.
Hai là, để hoàn thiện Hiến pháp hiện hành cần có những quy định đảm bảo tính độc lập
của Tòa án đối với những ảnh hưởng từ phía Chính phủ, chẳng hạn như việc bổ nhiệm thẩm phán,
chế độ lương của thẩm phán như đối với ngạch công chức do Chính phủ quy định, quản lý tòa án
đều có sự ảnh hưởng từ chính quyền hành pháp.
4.2.7. Về mối quan hệ của Chính phủ với Viện kiểm sát nhân dân
Việc Hiến pháp quy định Viện Kiểm sát nhân dân trong cùng một chương (Chương X) với
Tòa án nhân dân là chưa phù hợp. Theo nhận thức chung về quy định tại Điều 126 Hiến pháp
1992, Viện Kiểm sát nhân dân được xem là một trong những cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
cùng chia sẻ quyền tư pháp với Toà án. Chúng ta nên quan niệm lại về hoạt động tư pháp. Thực
ra, điều tra, truy tố, thi hành án là bộ phận cấu thành của quyền Hành pháp chứ không phải của
quyền Tư pháp. Cách hiểu này rất quan trọng, liên quan đến một số vấn đề về cải cách bộ máy nhà
nước hiện nay ở Việt Nam. Khi hiểu điều tra và công tố là hoạt động hành pháp thì có nghĩa là hai
hoạt động này không nêu cắt khúc thành những thiết chế độc lập mà nên nằm trong Chính phủ.
Đây chính là cơ sở lý luận cần thiết cho việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố [18] trong

tương lai.
4.2.8. Hiến pháp và vấn đề phòng, chống tham nhũng
Mối quan hệ giữa Hiến pháp và vấn đề phòng, chống tham nhũng thực chất và chủ yếu
xoay quanh chức năng của Hiến pháp, đó là tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước [25, tr.378].
Tổ chức và kiểm soát tốt quyền lực nhà nước sẽ hạn chế được sự lạm dụng quyền lực công để thu
lợi ích riêng (tức tham nhũng). Cụ thể, cần thiết kế cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mối quan
hệ giữa các cơ quan trong bộ máy đó, các thiết chế chính trị - pháp lý của xã hội, các quyền dân
sự, chính trị của công dân…tác động như thế nào đến: (i) Tính liêm chính nói chung của bộ máy
nhà nước và của toàn xã hội? (ii) Trách nhiệm giải trình của các cơ quan và công chức nhà nước?
(iii) Việc công khai hóa hoạt động và tiếp cận thông tin do các cơ quan và công chức nhà nước
nắm giữ? (iv) Khả năng giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan và công chức nhà nước? (v) Khả năng
giám sát của xã hội với các cơ quan và công chức nhà nước? (vi) Khả năng xử lý những biểu hiện
lộng quyền, lạm quyền của các cơ quan và công chức nhà nước?…Một khi các quy định của Hiến
pháp tác động tích cực đến những vấn đề này, Hiến pháp đã phát huy được vai trò quan trọng của
nó như là một cấu trúc để phòng, chống tham nhũng.

14

4.2.9. Địa vị pháp lý của Chính phủ theo quy định của dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã quy định tập trung về chế định Chính phủ tại chương
VII (gồm tám điều từ điều 100 đến điều 107). Điều 100 (sửa đổi, bổ sung Điều 109) quy định vị
trí, tính chất của Chính phủ “ 
 Dự thảo
sửa đổi đã đặt tính hành chính lên trước tính , ghi nhận Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp như vậy là đã đề cao hơn tính chủ động, độc lập tương đối của Chính phủ trong
quan hệ với Quốc hội. Tuy nhiên, quy định Chính phủ là “, theo
chúng tôi quy định này là chưa chính xác. Bởi quy định này phần nào mô tả một lĩnh vực của
hành pháp, việc đưa các quy định của Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội vào đời sống
thực tế (hành pháp) cũng tức là Chính phủ đang thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành. Vì lẽ

đó, khái niệm “hành pháp” đã bao hàm tính chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước.
Điều 101 (sửa đổi, bổ sung Điều 110) nói rõ cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do
Quốc hội quyết định; Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số; Thủ tướng
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Đặc biệt, thành viên Chính phủ
chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ, Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ
trách, cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
Dự thảo Hiến pháp (sửa đổi) cũng bổ sung quy định Chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn: thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia, xây dựng và tổ chức thực hiện chế độ
công vụ; quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; phân công, phân cấp trong hệ thống
hành chính nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Ủy ban nhân dân các cấp; kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật
định; trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
hành chính các đơn vị hành chính lãnh thổ; tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra, kiểm tra, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo… Thống
nhất quản lý công tác đối ngoại; theo ủy quyền của Chủ tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc
tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 6
Điều 94; đàm phán, ký, gia nhập, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; tổ chức thực
hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công Nam ở nước ngoài.
15

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã đề cao, tăng cường hơn vai trò của cá nhân Thủ tướng –
trung tâm quyết sách của Chính phủ so với Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).
Tóm lại, nhìn chung dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 nói chung và các quy định về chế
định Chính phủ nói riêng đã bám sát các quan điểm, định hướng nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp
được xác định tại Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị

Trung ương 5, khoá XI. Những quy định về thiết chế Chính phủ đã có những thay đổi đáng kể và
về cơ bản đã đạt được kỳ vọng như mong đợi.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Thực tiễn công cuộc đổi mới đòi hỏi phải có một Nhà nước mạnh, một Chính phủ mạnh.
Suốt quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề xướng, Chính phủ luôn giữ vai trò quan
trọng trong việc cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, cương lĩnh của Đảng thành chính sách, pháp
luật, giải pháp và tổ chức thực hiện các chính sách và giải pháp đó có hiệu quả, đưa đất nước vượt
qua nhiều khó khăn, thử thách; từng bước chuyển đổi từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý
mới có hiệu quả, tạo sự khởi sắc về kinh tế - xã hội. Đổi mới, điều chỉnh vị trí pháp lý, vai trò,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là vấn đề lớn,
có phần phức tạp, không chỉ đòi hỏi phải có nhận thức tư duy mới trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm các nước mà còn đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị rất cao
của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Những đổi mới và điều chỉnh đề cập
trên đây đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi những nội dung liên quan của Hiến pháp để tạo cơ sở cho
việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân hiện hành.

KẾT LUẬN
Có thể nói rằng hành pháp là khâu có tính chất quyết định trong toàn bộ quá trình tác động
của quyền lực nhà nước đối với đời sống xã hội.
Chính phủ nước ta từ khi mới ra đời đã được tổ chức theo mô hình Chính phủ của một nhà
nước dân chủ. Những quy định của các bản Hiến pháp được cụ thể hóa một bước bởi các đạo luật
về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý xây dựng một Chính phủ trong một nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, nước ta đã và đang xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đang từng bước hội nhập mạnh mẽ vào “sân chơi chung” toàn cầu.
Với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập Quốc tế, càng ngày càng đòi hỏi phải nhận
thức rõ tầm quan trọng của Chính phủ trong cơ cấu tổ chức nhà nước hiện đại. Việc phân công,
phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp theo quy định Hiến pháp là
một trong những thành công căn bản hiện nay trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền

Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, điều chỉnh vai trò, chức năng của Chính phủ, Thủ tướng
16

Chính phủ là vấn đề lớn, có phần phức tạp, không chỉ đòi hỏi phải có nhận thức, tư duy mới trên
cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm các nước mà còn đòi hỏi phải có
quyết tâm chính trị rất cao của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Những đổi
mới và điều chỉnh đề cập trên đây đòi hỏi phải nghiên cứu sửa đổi những nội dung liên quan của
Hiến pháp để tạo cơ sở cho việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001, và
một số văn bản pháp lý quan trọng khác có liên quan./.

References
1. Nguyễn Cảnh Bình (2005), Hin pháp M  nào, NXB Trí thức.
2. Nguyễn Văn Bông (1967), Lut Hin pháp và Chính tr hc, tr. 277, 279.
3. Nguyễn Đăng Dung (1996), Hii chiu, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Đăng Dung chủ biên (2001), Giáo trình Lut Hin, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Đăng Dung (2004), Hình thc ci, NXB Thế giới, tr. 88.
6. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bn ca Hin pháp và bn tính c
c, NXB Tư pháp.
7. Nguyễn Đăng Dung (2005), S hn ch quyn lc, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Dung (2006), giáo trình Lut Hin pháp Vit Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr. 136, 439.
9. Nguyễn Đăng Dung (2008), Chính ph c pháp quyn, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr. 300, 302.
10. Nguyễn Đăng Dung và Bùi Ngọc Sơn (2004), Th ch chính tr, NXB Lý luận chính trị.
11. Chu Nguyên Dương, Tng quan v c trên th gii. Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp 11/2005.
12. Vũ Đức Đán (2009), Chính ph trong xây dc pháp quyn  Vit Nam, Đề tài
khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 42.
13. Nguyễn Thị Hồi (2005), ng phân chia quyn lc vi vic t chc b máy

c  mt s c, NXB Tư pháp.
14. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, NXB Lao động – Xã hội năm 2009.
15. Nguyễn Văn Mạnh, Quá trình nhn thc và phát tring v c pháp quyn
n cng cng sn Vit Nam thi k i mi, Nghiên cứu lịch sử, số 4/2003.
16. Bùi Đức Mãn (2002), Lch s c trên th gic s c Anh, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 246 - 247.
17. Chỉ đạo biên tập Vũ Mão (1998), Hi k tha, phát trin trong các
Hin pháp Vit Nam, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 311.
17

18. Nghị quyết số 49 – NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách Tư
pháp đến năm 2020“.
19. Tam quyền phân lập
20. Theo báo điện tử Vietnamnet.vn, chuyên mc Giáo dc, số ra ngày 11/8/2012.
21. Đồng chủ biên GS.TS Phạm Hồng Thái, GS.TS Nguyễn Đăng Dung, TS. Nguyễn Ngọc Chí
(2011), Phân cp qun c  Vit Nam, thc trng và trin vng, NXB Công an Nhân
dân.
22. Từ điển Luật học (2006), Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, NXB Tư pháp, tr. 244.
23. Tinh Tinh (2002), Ci cách Chính ph c chính tr cui th k XX, NXB Công an
Nhân dân, tr. 384 - 385.
24. Nguyễn Phước Thọ, “phân bit v trí, vai trò, cha Chính ph, Th ng Chính
phđăng trên xaydungphapluat.chinhphu.vn, ngày 8/5/2008.
25. Sách chuyên khảo “Hin pháp: nhng v lý lun và thc tin” (2011), NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, tr.172, 378, 831, 836, 838, 840.
26. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), NXB Chính trị Quốc gia, tr. 252, 253.
27. Đào Trí Úc (2006), Nhn và mô hình cc pháp quyn xã hi
ch t Nam, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 343.
28. Như Ý (1996), T n ting Vit thông dng, NXB Giáo dục, tr. 1209.
29. Bùi Ngọc Sơn, “Chính ph c pháp quy đăng trên www.hcmulaw.edu.vn
30. Jean Jacques Rousseau (2006), Bàn v kh c xã hi, NXB Lý luận chính trị, tr.124.

31. Xem J Themsims (2002), c pháp quyn, NXB Chính trị Quốc gia, tr. 40 - 41.
32. S. chiavo-Campo và P.S.A. Sundaram (2003), Phc v và duy trì: Ci thin hành chính công
trong mt th gii cnh tranh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 94.


×