Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quản lý thuế các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.95 KB, 86 trang )

1
CHƯƠNG I
TỒNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN NGOẠI TỆ NƯỚC NGOÀI
1.1. LÝ THUYẾT TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
1.1.1. Bản chất của thuế
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó sự hiện
diện của thuế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước. Các-Mác đã nói về quan hệ kinh
tế giữa Nhà nước và thuế như sau: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà
nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu được bằng tiền hay sản vật mà
người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nước”. Ăng-
Ghen cũng đã chỉ ra: Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp
của công dân cho Nhà nước, đó là thuế.
Nhà nước là điều kiện đầu tiên cho sự ra đời và tồn tại hệ thống thuế của một
quốc gia. Trong trường hợp thu nhập của người dân không đủ chi dùng cho bản
thân họ thì Nhà nước cũng không thể thu được thuế. Do đó, một điều kiện thứ
hai rất quan trọng cần phải có để bảo đảm sự tồn tại của thuế đó là thu nhập xã
hội. Sự hình thành thu nhập trong xã hội chính là tiền đề cho việc động viên các
khoản thu của Nhà nước mà trong đó thuế là khoản động viên cơ bản nhất.
Tuỳ theo từng góc độ nghiên cứu mà người ta có những cách nhìn khác nhau về
thuế:
• Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị học, thuế được coi là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình
thành nên qũy tiền tệ của Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức
năng của Nhà nước.
2
• Dưới góc độ nghiên cứu pháp luật, thuế được coi là một phần thu nhập mà
các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo quy định của
pháp luật.
• Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế học, thuế được coi là khoản mất mát


của các doanh nghiệp hay hộ gia đình để hình thành nên qũy tiền tệ của Nhà
nước nhằm đáp ứng cho việc sử dụng các hàng hoá và dịch vụ công.
Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng thuế
là khoản đóng góp có tính chất bắt buộc cho Nhà nước, được thực hiện mà
không đề cập đến lợi ích cụ thể của người đóng thuế. Cũng chính vì đặc điểm
này mà người nộp thuế thường không mấy dễ chịu và có cảm giác bị tước đoạt
một phần tài sản cá nhân của họ, dù rằng ai cũng muốn được hưởng nhiều dịch
vụ phúc lợi công cộng từ Nhà nước. Nhận thức được đặc điểm này của thuế,
chúng ta sẽ dễ dàng xác định những yêu cầu mà người nộp thuế thường đòi hỏi
ở một hệ thống thuế.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu thuế theo khái niệm như sau: Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc, trích từ một phần thu nhập của các tổ chức và cá
nhân cho Nhà nước theo quy định của pháp luật để phục vụ cho các nhu cầu
chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
1.1.2. Phân loại thuế
Khi nghiên cứu lý luận, các nhà kinh tế có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại
thuế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu hoạch định chính sách thuế và tổ chức quản lý
thuế có hiệu quả.
1.1.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế
Cách phân loại cổ điển và thường được nhắc nhiều là căn cứ vào tính chất kinh
tế, tính chất có thể chuyển dịch gánh nặng về thuế giữa người nộp thuế và
người chịu thuế. Người ta phân chia thuế thành hai loại chủ yếu, đó là thuế trực
thu và thuế gián thu.
3
- Thuế trực thu :
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các đối tượng nộp
thuế. Việc động viên cho ngân sách qua thuế trực thu có tính công bằng hơn so
với thuế gián thu, bởi vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp với khả năng
của từng đối tượng; thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, thu nhập thấp thì nộp
thuế ít, thu nhập chỉ đủ trang trải chi phí cần thiết hoặc không có thu hập thì

không phải nộp thuế.
Thuộc loại thuế trực thu có thể kể đến các luật thế như: thuế Thu nhập Doanh
nghiệp, thuế Thu nhập Cá nhân, thuế Tài sản, thuế Tặng phẩm …
- Thuế gián thu :
Thuế gián thu là loại thuế đánh vào việc sử dụng thu nhập của các tổ chức, cá
nhân khi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thuế này do người sản
xuất kinh doanh cung ứng hàng hoá, dịch vụ nộp cho Nhà nước, nhưng người
tiêu dùng cuối cùng là những người chịu thuế. Nhà doanh nghiệp chuyển thuế
bằng cách cộng thuế vào giá bán hàng hoá, dịch vụ nên người ta gọi là thuế gián
thu. Các doanh nghiệp ở đây chỉ giữ vai trò như người thu hộ thuế cho Nhà
nước. Thuộc loại thuế gián thu gồm có các luật thuế như: thuế Giá trị Gia tăng,
thuế Tiêu thụ Đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu …
Tùy theo đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước, cũng như
quan điểm của những người lãnh đạo Nhà nước trong từng thời kỳ, người ta có
thể lựa chọn, coi trọng loại thuế gián thu hay thuế trực thu.
1.1.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo tiêu thức này, thuế bao gồm các loại thuế sau:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, như: thuế Giá trị Gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm đặc thù, như: thuế Tiêu thụ Đặc biệt, thuế Xuất
khẩu, thuế Nhập khẩu.
4
- Thuế đánh vào thu nhập, như: thuế Thu nhập Doanh nghiệp, thuế Thu nhập
cá nhân.
- Thuế đánh vào tài sản, như: thuế Nhà đất, thuế Chuyển quyền Sử dụng đất.
- Thuế đánh vào tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, như: thuế Tài nguyên.
1.1.2.3. Phân loại thuế theo phương thức sử dụng
Theo phương thức này, thuế được phân thành: Thuế tổng hợp và thuế chuyên
dùng.
Thuế tổng hợp: Là loại thuế tuy được thu từ nhiều nguồn đơn lẻ khác nhau
nhưng được tập trung vào Ngân sách Nhà nước và được sử dụng chung cho các

mục đích phát triển kinh tế – xã hội có tính chất toàn quốc.
Thuế chuyên dùng: Là loại thuế thu từ một nguồn (hoặc một số nguồn) đơn lẻ
nhất định nào đó và được tập trung vào một qũy nhất định trong Ngân sách Nhà
nước. Qũy này được sử dụng gắn với mục đích đã được xác định trước.
Ngày nay, Chính phủ các nước phát triển chủ yếu là quy định các loại thuế tổng
hợp. Tuy nhiên, họ vẫn còn duy trì một vài loại thuế chuyên dùng nhất định để
thực hiện một số nhiệm vụ chi cấp bách, quan trọng.
1.2. QUẢN LÝ THUẾ VÀ LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Một số lý luận cơ bản về Quản lý thuế
Hệ thống thuế bao gồm hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế.
Hệ thống chính sách thuế, gồm các sắc thuế được ban hành dưới các hình thức
Luật, Pháp lệnh. Mỗi sắc thuế có vai trò điều tiết riêng trong nền kinh tế, song
chúng có mối quan hệ rất mật thiết và tác động lẫn nhau trong quá trình phát
huy tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế dù được xây dựng một cách ưu việt, hoàn
chỉnh đến đâu cũng không thể phát huy tác dụng nếu không được vận hành
trong thực tiễn. Quá trình áp dụng luật thuế vào nền kinh tế đòi hỏi sự chấp
hành của các đối tượng nộp thuế (ĐTNT), mà qua đó số thuế được huy động từ
5
các thể nhân và pháp nhân vào NSNN theo đúng luật định. Quá trình này
thường không gắn liền với sự “tự nguyện” mà cần có một hệ thống quản lý thuế
để tổ chức thực hiện, giám sát.
Hệ thống quản lý thuế, gồm các phương pháp, hình thức quản lý thu thuế, các
công cụ quản lý (các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp vụ, phương tiện
quản lý), cơ cấu tổ chức bộ máy (các bộ phận, các đơn vị thuộc cơ quan thuế
các cấp trực tiếp hay gián tiếp thực hiện chức năng quản lý thuế và mối quan hệ
giữa chúng); đội ngũ cán bộ, công chức thuế và các cơ quan khác có liên quan
đến công tác thuế theo quy định của pháp luật … Trong đó, cơ cấu tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ thuế (gọi chung là bộ máy quản lý thuế) là một bộ phận
cực kỳ quan trọng trong hệ thống quản lý thuế.

Tổ chức bộ máy quản lý
Tổ chức bộ máy là một khâu quan trọng trong công tác quản lý thuế (QLT), bao
gồm việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy và phân bổ nguồn nhân lực một cách
hợp lý, nhằm xây dựng hệ thống QLT khoa học, phù hợp, đảm bảo tính thống
nhất, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các chức năng QLT nhằm thực thi chính
sách, pháp luật một cách nghiêm minh, đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế
vào NSNN.
Vai trò của tổ chức bộ máy quản lý thuế: Con người luôn là yếu tố quyết định
sự thành công hay thất bại trong mọi lĩnh vực quản lý. Trong bộ máy QLT, đội
ngũ cán bộ, công chức thuế là bộ phận quan trọng, góp phần vào việc xây dựng
hệ thống chính sách thuế phù hợp, khoa học, minh bạch và quyết định đề xuất,
áp dụng các phương pháp, quy trình và các biện pháp nghiệp vụ QLT hợp lý,
khoa học bảo đảm tính tiên tiến, hiện đại, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Bộ máy QLT có vai trò quyết định đến toàn bộ hệ thống thuế, nó được tổ chức
hợp lý, thực hiện đầy đủ các chức năng QLT thì bộ máy QLT sẽ phát huy được
tối đa hiệu lực của toàn bộ hệ thống chính sách thuế và hiệu quả quản lý sẽ cao.
Ngược lại, một cơ cấu tổ chức quản lý không phù hợp sẽ kìm hãm, làm suy yếu
6
tổ chức và hạn chế tác dụng của bộ máy, của hệ thống chính sách thuế và qua
đó ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hội.
1.2.2. Luật Quản lý Thuế
1.2.2.1. Sự cần thiết của Luật quản lý thuế
Từ khi thành lập hệ thống thuế thống nhất trong cả nước năm 1990 đến nay,
ngành thuế đã tiến hành hai giai đoạn cải cách thuế, nhờ đó đã hình thành được
một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng
thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Hệ thống chính sách thuế đã trở
thành công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước. Bộ máy quản lý thuế
đã được xây dựng thống nhất, nghiệp vụ quản lý thuế từng bước được kiện toàn
theo tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý thuế
đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng rõ ràng, công khai, dân chủ, minh

bạch hơn. Các thủ tục hành chính thuế được thực hiện thống nhất trong cả nước
và ngày càng được củng cố, tăng cường về mọi mặt, đảm bảo thực thi tốt và
thống nhất các luật thuế trong cả nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời
quy mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng,
phức tạp hơn, nên cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển
sang cơ chế quản lý mới, theo đó, cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế
(TK-TN) với việc đề cao tinh thần tự giác chấp hành pháp luật thuế của các tổ
chức cá nhân là rất cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện ngành thuế đang thực
hiện chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế. Bởi vậy, việc thực hiện
quản lý thuế theo cơ chế TK-TN là xuất phát điểm của quy trình cải cách thuế.
Luật Quản lý thuế ra đời có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, đáp
ứng được yêu cầu quản lý trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển
của Việt Nam trong giai đoạn mới; đã hệ thống hoá và làm rõ được những vấn
đề cơ bản của mô hình quản lý thuế theo cơ chế TK-TN.
1.2.2.2. Lợi ích của Luật quản lý thuế
7
Trước đây, trong mỗi luật thuế của Việt Nam (thuế thu nhập, thuế giá trị gia
tăng ...) đều có quy định về thủ tục quản lý thuế (thẩm quyền cưỡng chế, xử
phạt, quyền của ĐTNT) để áp dụng cho loại thuế đó. Do đó, hình thức qui định
như vậy dẫn đến sự không nhất quán giữa các luật thuế, nhưng quan trọng hơn
là luật thuế không trao đủ thẩm quyền cho Tổng cục Thuế, để thực hiện công
tác quản lý thuế. Để giải quyết vấn đề này, Luật Quản lý Thuế ban hành trong
đó tập hợp các quy định về Quản lý thuế trong các luật thuế vào một luật duy
nhất và luật này đã mang lại cho Tổng Cục Thuế đủ thẩm quyền để quản lý hệ
thống thuế.
1.2.2.3. Nội dung luật quản lý thuế
Dự án Luật Quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội Khoá XI và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, Một số nội dung mới
về quản lý thuế được quy định tại Luật Quản lý thuế như sau:

 Về phạm vi: Luật quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý thuế, có
phạm vi điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa và
thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc NSNN
do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
 Đối tượng điều chỉnh của luật gồm:
- Người nộp thuế là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, các khoản thu
thuộc NSNN theo quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, tổ
chức cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.
- Cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan.
- Công chức quản lý thuế bao gồm công chức thuế và công chức hải quan.
- Cơ quan Nhà nước, tổ chức cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện
pháp luật về thuế.
 Đây là luật về thủ tục, chứa đựng nhiều nội dung cải cách:
8
- Các thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng, minh bạch
nhằm nâng cao trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người nộp
thuế, tạo điều kiện cho người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật thuế.
- Quy định rõ các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ thuế (hồ sơ khai thuế, hồ sơ
miễn giảm thuế, hồ sơ hoàn thuế … )
- Thống nhất thời hạn nộp hồ sơ khai thuế phù hợp với từng loại thuế khai
theo tháng, theo năm, theo từng lần phát sinh để người nộp thuế dễ thực
hiện. Quy định thời hạn, phương thức khai thuế của một số loại thuế cho
phù hợp với thực tế hơn.
- Quy định hình thức khai thuế điện tử, quy định thời hạn khai thuế là thời
hạn nộp thuế, vừa bảo đảm phù hợp với tính chất của từng loại thuế, vừa tạo
thuận lợi cho người nộp thuế dễ nhớ, dễ thực hiện và không phải làm các
thủ tục hành chính thuế rải rác nhiều ngày trong tháng, giảm chi phí tuân thủ
pháp luật về thuế cho người nộp thuế.
- Quy định thứ tự thanh toán các khoản tiền thuế như sau: (1) tiền thuế nợ; (2)
tiền thuế truy thu; (3) tiền thuế phát sinh; (4) tiền phạt vi phạm pháp luật

thuế để giúp người nộp thuế biết được nhiệm vụ thanh toán các khoản nghĩa
vụ với ngân sách nhà nước, tránh bị rơi vào tình trạng nợ đọng kéo dài và
thuộc diện bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nộp thuế.
- Luật còn quy định một số quyền của người nộp thuế như: yêu cầu cơ quan
thuế hướng dẫn, giải thích về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế để tự
giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình; yêu cầu cơ quan thuế thực hiện đúng
việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế, bồi thường thiệt hại về thuế theo quy
định của pháp luật để đảm bảo lợi ích hợp pháp của mình; yêu cầu cơ quan
thuế giữ bí mật thông tin do mình và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp
phục vụ cho việc quản lý thuế.
 Luật xác định rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn:
9
- Nhấn mạnh chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế. Công khai minh
bạch các thủ tục và thời hạn giải quyết hồ sơ thuế. Quy định cụ thể quy trình
tiếp nhận, xử lý hồ sơ thuế theo cơ chế một cửa. Gắn trách nhiệm của công
chức quản lý thuế với việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ thuế.
- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu và thông tin về người nộp thuế để phân tích, đánh giá mức độ
tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế, phục vụ công tác quản lý thuế.
- Quy định kiểm tra hồ sơ thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế là nhiệm vụ
chủ yếu của cơ quan quản lý thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của
các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, phát hiện kịp thời những sai sót, vi
phạm của người nộp thuế.
- Quy định công tác kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp
thuế. Riêng thanh tra thuế chỉ được áp dụng đối với một số trường hợp: (1)
đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh
doanh rộng thì thanh tra định kỳ một năm không quá một lần; (2) khi có dấu
hiệu vi phạm pháp luật về thuế; (3) để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo
yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ
Tài chính. Trong quá trình thanh tra thuế, phát hiện người nộp thuế có dấu

hiệu trốn thuế, gian lận thuế mang tính phức tạp, liên quan đến tổ chức, các
nhân khác thì cơ quan quản lý thuế được áp dụng biện pháp mạnh.
- Quy định 6 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Trong
đó, biện pháp thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá
nhân khác (bên thứ ba) đang nắm giữ là biện pháp mới, có tác dụng ngăn
chặn các hành vi tẩu tán tiền, tài sản của người nộp thuế để cố tình trốn thuế,
không nộp thuế.
- Quy định mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế .
 Luật đề cao vai trò của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia vào công
tác quản lý thuế:
10
Các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác quản lý thuế
thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuế và giám sát
việc tuân thủ pháp luật thuế. Bên cạnh đó, Luật còn quy định nội dung cụ thể
của một số cơ quan, tổ chức trong việc tham gia công tác quản lý thuế:
- Trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế của các cơ quan
quản lý Nhà nước được quy định thành hai nhóm:
Nhóm 1
: cung cấp thông tin tự động theo phát sinh hoạt động liên quan đến
người nộp thuế, gồm cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ
quan cấp giấy phép thành lập, kho bạc Nhà nước …
Nhóm 2
: cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, gồm ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý nhà nước về nhà đất, cơ
quan công an, cơ quan chi trả thu nhập, cơ quan quản lý thương mại …
- Quy định các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
quản lý thuế trong việc cưỡng chế thu thuế, bao gồm ủy ban nhân dân cấp
xã nới thực hiện cưỡng chế, lực lượng cảnh sát nhân dân, kho bạc nhà nước,
ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy
phép hành nghề …

- Quy định hoạt động kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Tổ chức kinh
doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
có điều kiện, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, có ngành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế.
Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế được thay mặt người nộp thuế
thực hiện một trong các thủ tục: khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ
đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn.
1.3. QUẢN LÝ THUẾ CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
1.3.1. Thuế và chính sách thuế đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN
1.3.1.1. Chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN
11
• Thuế giá trị gia tăng (GTGT) :
- Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
- Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở Việt Nam, kể
cả hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nước và hàng hoá dịch vụ nhập khẩu,
tiêu dùng nội bộ.
- Đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh mọi
ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ
mọi thành phần kinh tế, hoạt động các ngành hàng, dịch vụ thuộc diện chịu
thuế GTGT.
- Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
- Thuế GTGT ở Việt Nam đang áp dụng 2 phương pháp tính thuế: khấu trừ và
trực tiếp trên giá trị tăng thêm hoặc doanh thu.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) :
- Đối tượng đánh thuế TNDN là thu nhập chịu thuế phát sinh trong năm kinh
doanh của doanh nghiệp, từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
khoản thu nhập khác, kể cả các thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ ở ngoài và chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất.

- Đối tượng nộp thuế TNDN là tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập chịu thuế.
- Đối tượng không thuộc diện nộp thuế TNDN là hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp
tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản (trừ hộ gia đình, cá nhân, nông dân sản xuất
hàng hoá lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ). Ngoài ra, đối
với Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Chính phủ Việt Nam ký kết có quy
định khác thì thực hiện theo quy định đó.
- Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất.
12
• Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu :
- Thuế xuất khẩu là một loại thuế gián thu và là công cụ để can thiệp vào các
hoạt động ngoại thương, với các mục đích:
o Giảm cung và cải thiện tỷ lệ ngoại thương
o Tạo nguồn thu cho ngân sách, thay thế cho thuế thu nhập
o Ổn định giá cả trong nước
Do thuế xuất khẩu dẫn đến hiệu ứng là gây tổn thất cho nhà sản xuất trong
nước, đồng thời gây thiệt hại phụ trội cho nền kinh tế, nên để khuyến khích các
ngành sản xuất trong nước phát triển thì chính phủ không đánh thuế xuất khẩu.
- Thuế nhập khẩu cũng là một loại thuế gián thu và là một yếu tố cấu thành
nên giá cả hàng hoá nhập khẩu. Thuế nhập khẩu dẫn đến kết quả là làm tăng
chi phí của việc đưa hàng hoá vào một nước. Tuy cũng là một loại thuế tiêu
dùng, nhưng mục tiêu của thuế nhập khẩu có phần khác với thuế GTGT ở
chỗ ngoài việc cung cấp nguồn thu thì thuế nhập khẩu còn nhằm vào việc
bảo hộ các ngành sản xuất cụ thể trong nước. Về nguyên tắc, thuế nhập khẩu
đối với một mặt hàng sẽ làm tăng giá của mặt hàng đó ở nước nhập khẩu, và
làm giảm giá mặt hàng đó ở nước xuất khẩu.
• Thuế nhà thầu :
Các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và cá nhân nước
ngoài hành nghề độc lập kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam có

nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.
• Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) :
- Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là một loại thuế gián thu nhằm điều tiết thu
nhập, hướng dẫn tiêu dùng hàng hoá.
- Các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có sản xuất mặt hàng
thuộc diện chịu thuế TTĐB mà tiêu thụ trên thị trường Việt Nam đều phải
nộp thuế.
13
- Đối tượng của thuế là giá tính thuế đối với hàng hoá bán ra. Giá tính thuế
của mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán thực tế ghi trên hoá đơn
bán hàng của cơ sở sản xuất trong đó đã có thuế TTĐB.
• Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) :
- Thuế TNCN là một loại thuế trực thu, thu vào một số thu nhập cao chính
đáng của cá nhân nhằm động viên một phần thu nhập của các tầng lớp dân
cư vào Ngân sách Nhà nước.
- Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài
và cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập, người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập theo quy định tại
pháp lệnh này.
- Đối tượng của thuế là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên của từng cá nhân.
1.3.1.2. Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
• Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN):
Đối với thuế TNDN, theo các quy định về thuế trước đây, giữa doanh nghiệp có
vốn ĐTNN và doanh nghiệp trong nước có sự phân biệt về thuế suất. Trừ
những trường hợp được khuyến khích đầu tư, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN
được hưởng mức thuế suất thuế TNDN là 25%, trong khi đó, các doanh nghiệp
trong nước luôn phải chịu mức thuế này với thuế suất là 32%. Tuy nhiên để đẩy
mạnh khuyến khích đầu tư trong nước và xoá bỏ dần dần khoảng cách giữa các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nghị định 164/2003/NĐ-CP của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN đã khẳng định việc áp
dụng chung một mức thuế suất thuế TNDN là 28%, không phân biệt doanh
nghiệp có vốn đầu tư trong nước và ĐTNN. Việc áp dụng mức thuế này bắt đầu
thực hiện từ ngày 01/01/2004.
14
Một số địa bàn, lĩnh vực đầu tư được coi là địa bàn, lĩnh vực khuyến khích đầu
tư, nếu các chủ đầu tư tiến hành đầu tư vào đó thì sẽ được hưởng những ưu đãi
về thuế theo quy định của Luật thuế TNDN.
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam trước thời
điểm 01/01/2004 vẫn được áp dụng theo chính sách ưu đãi, miễn giảm theo
giấy phép đầu tư.
( Xem phụ lục Chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế TNDN đối với các DN ĐTNT)
• Các ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển
- Nhà đầu tư đầu tư vào các dự án thuộc các lĩnh vực khuyến khích đầu tư
hoặc đầu tư tại địa bàn được khuyến khích đầu tư sẽ được hưởng một số điểm
ưu đãi liên quan đến việc sử dụng đất theo các văn bản pháp luật có liên quan.
Chính phủ ban hành khung giá thuê đất chung, ổn định và rõ ràng cho các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các mức giá áp dụng với đất đô thị, đất của
các xã tiếp giáp đô thị, đất các vùng còn lại (QĐ số 189/2000/QĐ-BTC ngày
24/11/2000 của Bộ Tài chính). Những ưu đãi về giá tiền thuê đất được quy định
theo Quyết định số 153/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính
phủ và Thông tư số 81/1999/TT-BTC ngày 30/6/1999 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg.
- Đối với việc sử dụng mặt nước, mặt biển, Chính phủ Việt Nam cũng ban
hành những khung giá tương đối ổn định và có những ưu đãi cụ thể, đặc biệt là
với những dự án thuộc đối tượng đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc khuyến
khích đầu tư. Đồng thời Chính phủ cũng có chế độ ưu đãi theo hướng miễn
giảm tiền thuê mặt nước, mặt biển đối với những dự án gặp khó khăn trong xây
dựng cơ bản để đưa dự án vào hoạt động hoặc những dự án gặp khó khăn trong
sản xuất kinh doanh.

• Một số ưu đãi tài chính khác
15
Ngoài những ưu đãi trong nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam kể
trên, dự án có vốn ĐTNN còn nhận được một số ưu đãi khác liên quan đến vấn
đề về chuyển lỗ kinh doanh, khấu hao tài sản.
Trong quá trình hoạt động, nhà đầu tư sau khi đã quyết toán thuế đối với cơ
quan thuế mà bị lỗ thì được chuyển lỗ sang những năm sau; số lỗ này được trừ
vào thu nhập chịu thuế TNDN. Tuy nhiên, việc chuyển lỗ này không được thực
hiện quá 5 năm. Các nhà đầu tư có thể thực hiện chuyển lỗ theo các phương
pháp chuyển lỗ dàn đều (tỉ lệ 20%/năm) hoặc chuyển lỗ liên tục.
Đối với vấn đề trích khấu hao tài sản cố định, Nhà nước Việt Nam cho phép các
nhà đầu tư được chủ động quy định tỷ lệ khấu hao tài sản cố định (là tỷ lệ phần
trăm giữa số tiền khấu hao hàng năm so với nguyên giá tài sản cố định) nhưng
không vượt quá khung tỷ lệ tối đa theo quy định của Bộ tài chính. Trong quá
trình trích khấu hao tài sản cố định, do những yếu tố khách quan cần thực hiện
tỷ lệ khấu hao vượt khung tối đa nêu trên, các nhà đầu tư cần báo cáo Bộ tài
chính, nếu xem xét thấy hợp lý Bộ tài chính sẽ chấp nhận tỷ lệ trích khấu hao
này. Như vậy, trong vấn đề trích khấu hao tài sản cố định, Nhà nước Việt Nam
cũng đã dành những ưu đãi nhất định cho các dự án có vốn ĐTNN nhằm mang
lại lợi ích cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở Việt
Nam.
1.3.2. Đặc trưng và những yêu cầu cơ bản của quy trình quản lý thuế
Nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống quy trình thực hiện các nghiệp vụ quản
lý thuế hợp lý, rõ ràng phù hợp với tổ chức bộ máy quản lý thuế theo chức năng
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của từng bộ phận và trong toàn bộ hệ thống
thuế của cơ quan thuế, góp phần thực hiện tốt quy định của các Luật thuế, các
thủ tục quản lý thuế, xoá bỏ các thủ tục phiền hà và cung cấp các dịch vụ tốt
nhất cho các ĐTNT, giảm chi phí quản lý thuế của cơ quan thuế, góp phần thực
hiện cải cách hành chính thuế, hiện đại hoá công tác quản lý thuế, các quy trình
nghiệp vụ phải bảo đảm các yêu cầu sau:

16
- Đơn giản, rõ ràng, giảm thiểu các bước luân chuyển xử lý công việc nếu
không cần thiết hoặc kém hiệu quả;
- Phân định rõ trách nhiệm của các bộ phận trong cơ quan thuế, tránh chồng
chéo. Mỗi một bước trong quy trình chỉ do một bộ phận thực hiện và chịu
trách nhiệm;
- Đảm bảo đánh giá được chất lượng và hiệu quả quản lý của cơ quan thuế;
- Phải quy định đầy đủ đối với tất cả các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
thuế;
- Phải phù hợp với từng mô hình tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế quản lý,
phương pháp quản lý của cơ quan thuế đối với từng đối tượng, từng chức
năng quản lý thuế;
- Phải thể hiện kỹ thuật quản lý thuế theo rủi ro;
- Phải có sự hỗ trợ cao của tin học;
- Phải được hướng dẫn đầy đủ đến từng cán bộ thuế theo chức năng, nhiệm vụ
được phân công theo nội dung nghiệp vụ được quy định và với sự trợ giúp
của các sổ tay nghiệp vụ.
1.3.3. Nội dung của quy trình Quản lý thuế
Quy trình quản lý thuế được xây dựng bao gồm một hệ thống các quy trình theo
từng chức năng quản lý thuế, trong mỗi quy trình đó, có thể có các quy trình
nhỏ hơn để thực hiện từng công việc cụ thể của một chức năng quản lý thuế:
- Hệ thống quy trình tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT để thực hiện các nhiệm vụ
sau:
o Khảo sát, điều tra, phân tích nhu cầu của ĐTNT;
o Lập kế hoạch tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT;
o Tuyên truyền pháp luật thuế;
o Hỗ trợ ĐTNT với các hình thức khác nhau;
17
o Xây dựng các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT;
o Đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác hỗ trợ ĐTNT.

- Hệ thống quy trình đăng ký thuế nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
o Đăng ký và cấp mã số thuế;
o Quản lý mã số thay đổi của ĐTNT;
o Xác định và xử lý vi phạm về đăng ký thuế.
- Hệ thống quy trình xử lý kê khai, nộp thuế và kế toán thuế nhằm thực hiện
các nhiệm vụ sau:
o Nhận và xử lý tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế phù hợp với các hình thức
kê khai, nộp thuế;
o Kế toán tài khoản ĐTNT, tính nợ, tính lãi và tính phạt nộp chậm;
o Xử lý vi phạm về kê khai thuế;
o Xử lý hoàn thuế;
o Đánh giá kết quả công tác xử lý tờ khai thuế, hoàn thuế;
o Đánh giá kết quả công tác hoàn thuế.
- Hệ thống quy trình thu nợ và cưỡng chế thuế nhằm thực hiện các nhiệm vụ:
o Xác định các khoản nợ phải thu;
o Rà soát các khoản nợ, đánh giá mức độ ưu tiên thu nợ thuế dựa trên kỹ
thuật quản lý rủi ro đối với từng khoản nợ;
o Lập kế hoạch và phân công thu nợ thuế;
o Thu thập thông tin liên quan đến khảon nợ của ĐTNT. Lập hồ sơ ĐTNT
nợ thuế;
o Thực hiện các biện pháp thu nợ thuế;
o Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế;
o Đánh giá kết quả công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
18
- Hệ thống quy trình thanh tra, kiểm tra thuế thực hiện các nhiệm vụ:
o Thu thập thông tin ĐTNT;
o Phân tích thông tin ĐTNT dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro;
o Lựa chọn ĐTNT phải thanh tra;
o Phân tích hồ sơ thanh tra;
o Thực hiện kiểm tra tại cơ quan thuế;

o Thực hiện kiểm tra, thanh tra tại cơ sở ĐTNT;
o Thanh tra ĐTNT lớn;
o Thanh tra ĐTNT vừa, nhỏ;
o Thanh tra trên máy tính;
o Đánh giá kết quả thanh kiểm tra.
- Hệ thống quy trình giải quyết khiếu nại của ĐTNT để thực hiện các nhiệm
vụ:
o Tiếp nhận yêu cầu của ĐTNT;
o Thẩm tra hồ sơ, vụ việc;
o Thu thập bằng chứng;
o Ra quyết định xử lý kết quả khiếu nại của ĐTNT;
o Quy trình đánh giá kết quả công tác giải quyết khiếu nại về thuế.
1.4. KINH NGHIÊM QUẢN LÝ THUẾ Ở CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Việc tổ chức quản lý thuế của các nước trên thế giới có những điểm khác nhau
nhất định, song hầu hết đều hướng tới một mục tiêu là, thu thuế cho ngân sách
quốc gia nhưng phải đảm bảo tính công bằng, tính hiệu quả (số thuế thu được
so với chi phí bỏ ra để thu) và tính hiệu lực (mức độ tuân thủ, chấp hành pháp
luật thuế của đối tượng nộp thuế).
19
Tại các nước phát triển, có hệ thống quản lý thuế tương đối hiệu quản, ý thức
tuân thủ tự nguyện của người dân cao, hệ thống quản lý thuế được xây dựng
hiện đại trên tất cả các mặt: các quy trình quản lý rõ ràng, đội ngũ nhân viên
được đào tạo, hệ thống dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế phát triển, các chế tài
thưởng phạt đầy đủ và được áp dụng một cách có hệ thống, các hoạt động thanh
tra được lập kế hoạch và đặt mục tiêu đúng đắn, áp dụng các kỹ thuật thanh tra
tiên tiến, công nghệ thông tin hỗ trợ một cách hiệu quả trong hoạt động của hệ
thống quản lý thuế và được hiện đại không ngừng … Do vậy, cải cách quản lý
thuế tại các nước này chủ yếu nhằm duy trì mức độ tuân thủ cao, cố gắng giảm
chi phí quản lý thuế và chi phí tuân thủ của ĐTNT, đồng thời không ngừng áp
dụng các thành tựu mới của công nghệ thông tin vào quản lý thuế (ví dụ: việc

mở rộng đối tượng đăng ký, kê khai thuế điện tử).
Đối với các nước đang phát triển, nhìn chung, hệ thống quản lý thuế tương đối
không hiệu quả, ý thức tuân thủ của người dân chưa cao và chưa có nguồn lực
tài chính để hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Các nước này cũng đang tiến
hành cải cách để nâng cao năng lực quản lý thuế, đảm bảo thu đủ số thuế tiềm
năng; cải tiến cơ cấu tổ chức bộ máy, phân bổ lại nguồn lực, cải tiến quy trình
thủ tục, tăng cường năng lực cán bộ và đẩy mạnh các công tác tuyên truyền, hỗ
trợ đối tượng nộp thuế và công tác thanh tra, ứng dụng tin học vào việc xử lý
thông tin thuế, xây dựng và áp dụng hệ thống thông tin thuế tích hợp.
1.4.1. Tăng cường sự tuân thủ tự nguyện của ĐTNT
Một nguyên tắc được áp dụng rộng rãi trong quản lý thuế và là mục tiêu cao
nhất của bất kỳ ngành thuế nào đó là khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện của
ĐTNT. Bất kỳ hệ thống quản lý thuế nào cũng dựa trên nền tảng là ý thức tuân
thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế và mục tiêu của cải cách thuế trước hết là
tăng cường mức độ tuân thủ tự nguyện này. Để nâng cao sự tuân thủ tự nguyện,
cơ quan thuế tập trung chủ yếu vào ba nhiệm vụ quản lý chính của ngành thuế
gồm:
20
- Tạo điều kiện cho việc tuân thủ: tuyên truyền và thực hiện các dịch vụ hỗ
trợ ĐTNT nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho đối tượng nộp thuế về hệ
thống thuế và nghĩa vụ thuế của mình;
- Giám sát việc tuân thủ: duy trì các tài khoản vãng lai của ĐTNT và xây
dựng hệ thống thông tin về ĐTNT;
- Ngăn chặn việc không tuân thủ: xây dựng hệ thống thanh tra có hiệu quả và
hệ thống xử phạt công bằng, nghiêm minh.
1.4.2. Phân loại các ĐTNT để thực hiện các biện pháp quản lý khác nhau
Một cách tiếp cận quan trọng trong quản lý thuế từ các cuộc cải cách thuế thành
công là: quy mô ĐTNT khác nhau cần có những chế độ quản lý khác nhau. Các
ĐTNT thuộc các nhóm hoặc bộ phận dân cư khác nhau thường có các đặc điểm
khác nhau (có cơ hội và lý do khác nhau, có nhu cầu và mong muốn khác nhau)

trong việc tuân thủ pháp luật thuế. Đối tượng nộp thuế được “phân đoạn thị
trường” thành các bộ phận hoặc khu vực khác nhau, cơ quan thuế phải hiểu
được nhu cầu, hành vi, nguyên nhân tuân thủ và không tuân thủ của người nộp
thuế trên cơ sở đó xác định chiến lược hợp lý để cải thiện việc tuân thủ dưới
hình thức hỗ trợ, cưỡng chế, thay đổi luật hay kết hợp các hình thức này để
nhằm đạt được tỷ lệ tuân thủ cao nhất có thể trong phạm vi nguồn lực của cơ
quan thuế. Sau đó cơ quan thuế có kế hoạch dài hạn đẩy mạnh các hoạt động
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong việc tuân thủ nhằm tối đa hoá
số thuế thu được với nguồn lực có sẵn.
Để đạt được điều đó, cơ quan thuế phân chia ĐTNT thành các nhóm đối tượng
theo ngành nghề, quy mô hoạt động kinh doanh, từ đó tổ chức bộ máy quản lý
thuế cho phù hợp, như phân chia thành: (1) doanh nghiệp lớn; (2) doanh nghiệp
vừa và nhỏ; (3) cá nhân, hộ gia đình; (4) ĐTNT khác. Trong từng bộ phận
ĐTNT này có thể chia ra thành các nhóm nhỏ hơn như theo ngành nghề…
1.4.3. Áp dụng kỹ thuật quản lý thuế theo rủi ro
21
Do nguồn lực và kinh phí của cơ quan thuế có hạn, mà nhiệm vụ quản lý thuế
ngày càng tăng ( số ĐTNT, số tiền thuế ngày càng tăng lên, phạm vi quy mô
kinh doanh của ĐTNT ngày càng phức tạp …) nên cơ quan thuế không thể áp
dụng phương pháp truyền thống là kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, tất cả các
ĐTNT …, tuy nhiên, để đảm bảo quản lý thuế công bằng và hiệu lực thì cơ
quan thuế vẫn phải phát hiện được và có biện pháp thích hợp đối với các trường
hợp vi phạm pháp luật thuế, gây thất thu ngân sách. Cùng với việc chuyển sang
cơ chế tự khai, tự nộp là việc nhấn mạnh hơn đến việc hỗ trợ ĐTNT “làm đúng”
ngay từ đầu và tự nguyện chấp hành thông qua việc giáo dục, hỗ trợ có trọng
điểm và tăng tính rõ ràng của luật thông qua các công văn hướng dẫn và đơn
giản hoá thì cơ quan thuế thường sử dụng phương pháp phân chia ĐTNT thành
các nhóm hoặc bộ phận theo nhiều thuộc tính cho phép tập trung tốt hơn vào
các ĐTNT có rủi ro đến số thu thuế khá cao, còn các ĐTNT chấp hành tốt thì
cơ quan thuế không cần thiết phải can thiệp.

Sử dụng nhiều cách khác nhau, cơ quan thuế đã xây dựng được các kỹ thuật xác
định mục tiêu cho biết khả năng không tuân thủ, thường là có liên quan đến
việc đối chiếu các số liệu. Các kỹ thuật này gồm việc đối chiếu các số liệu kê
khai của ĐTNT với:
- Số liệu trên mẫu tờ khai với số liệu bên ngoài (số liệu về tiền lãi, danh sách
khách hàng …);
- Số liệu trên tờ khai với tiêu chuẩn của ngành, nghề và đại lý;
- Số liệu trên tờ khai với kết quả thanh tra, kiểm tra hoặc đánh giá rủi ro của
ngành, nghề tương tự, và tờ khai của các đại lý, …
Để thực hiện quản lý theo rủi ro, đòi hỏi cơ quan thuế phải có đầy đủ cơ sở dữ
liệu thông tin về ĐTNT và đánh giá hành vi tuân thủ căn cứ vào lịch sử tuân thủ
của ĐTNT, phân loại ĐTNT theo những nhóm khác nhau (tùy theo từng cơ
quan thuế, có những bảng tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ khác nhau). Theo
mô hình tuân thủ được hầu hết các nước sử dụng, các mức độ tuân thủ của
ĐTNT như sau: tuân thủ tốt (phần lớn các ĐTNT), tuân thủ nhưng đôi khi vẫn
22
vi phạm, không muốn tuân thủ và cố tình không tuân thủ (một số ít các ĐTNT).
Cơ quan thuế có những biện pháp đối xử khác nhau đối với hành vi tuân thủ của
từng nhóm, hoặc đặt ra những quy định về “lợi ích tuân thủ” cho ĐTNT.
1.4.4. Chuyển đổi về cơ cấu tổ chức
Từ những năm 70 đến giữa thập niên 80, mô hình tổ chức của cơ quan thuế ở
các nước phát triển trên thế giới chủ yếu là tổ chức theo sắc thuế, mỗi sắc thuế
tương ứng có một bộ phận quản lý trong cơ quan thuế được thành lập. Dần dần,
các sắc thuế được ban hành nhiều hơn, thì các bộ phận quản lý trong cơ quan
thuế ngày càng mở rộng. Số ĐTNT ngày một gia tăng, mỗi ĐTNT lại nộp nhiều
loại thuế khác nhau, do đó, ĐTNT phải làm việc với nhiều bộ phận trong cơ
quan thuế, dẫn đến sự trùng lắp và không hiệu quả giữa các chức năng ở các bộ
phận quản lý theo các sắc thuế này; sự trùng lắp làm hệ thống tin học cũng
không thể phát huy chức năng hỗ trợ công tác quản lý thuế. Do đó, các nước
chuyển sang mô hình tổ chức quản lý theo chức năng (theo các chức năng cơ

bản là tuyên truyền hỗ trợ, xử lý tờ khai và kế toán thuế, quản lý thu nợ và
thanh tra, kiểm tra thuế), từ đó, từng bộ phận chức năng có điều kiện tập trung
về những vấn đề tuân thủ của ĐTNT để có biện pháp quản lý thuế tốt hơn.
Đến giữa thập niên 80, đầu thập niên 90, một số nước phát triển như Hoa kỳ,
New Zealand, Úc, … đã phát triển từ mô hình quản lý theo chức năng lên mô
hình quản lý theo quy mô ĐTNT (lớn, vừa, nhỏ) sau khi đã đạt được mức độ
cao của quản lý theo chức năng.
1.4.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ thuế chuyên nghiệp, tận tâm
Cùng với sự thay đổi về phương pháp quản lý thuế và sự chuyển đổi về cơ cấu
tổ chức bộ máy ngành thuế, công tác cán bộ của cơ quan thuế cũng được đặc
biệt coi trọng. Nguồn lực cán bộ của cơ quan thuế được tuyển dụng bổ sung để
đáp ứng được các yêu cầu mới của công việc. Các cán bộ thuế cũ phải được đào
tạo lại về cả kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng phục vụ. Cơ quan thuế
đặc biệt coi trọng việc đào tạo các kỹ năng ứng xử, giao tiếp có văn hoá, lịch sự
để cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho người dân, nhằm thay đổi mối quan
23
hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với dân theo phương hướng phục vụ, tạo
mọi thuận lợi cho người nộp thuế. Các hành vi ứng xử của nhân viên thuế với
người dân được xây dựng thành chuẩn mực đạo đức của công chức ngành thuế
(Nhật Bản).Việc ứng xử, giao tiếp lịch thiệp, niềm nở, nhã nhặn, tận tình của
cán bộ thuế thể hiện mức độ chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ của cơ
quan thuế. Bên cạnh đó, việc tạo mội trường làm việc tốt cho cán bộ thuế cũng
được quan tâm. Cơ quan thếu có chế độ đãi ngộ phù hợp cho công chức thế
thông qua chế độ tiền lương hợp lý (ở Singapore, Úc, New Zealand, tiền lương
công chức thuế cao hơn hẳn các ngành khác). Cơ quan thuế định kỳ tổ chức
điều tra, khảo sát nhu cầu, lấy ý kiến của cán bộ, nhân viên thuế để cải thiện các
điều kiện làm việc cho cán bộ, cải tiến các quy trình nghiệp vụ để dễ thực hiện
hơn cho cán bộ thuế.
1.4.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế và cung cấp dịch vụ cho
người nộp thuế

Cơ quan thuế các nước (Úc, New Zealand, Singapore, Hàn quốc, Hồng Kông,
Thái Lan …) đã áp dụng có hiệu quả thành tựu của công nghệ thông tin vào
công tác quản lý thuế, giúp tổ chức, cá nhân nộp thuế thực hiện việc kê khai,
nộp thuế, tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ thuế qua mạng máy tính. Thông qua
đó, cơ quan thuế đã xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý thuế đầy
đủ, phục vụ cho công tác quản lý thu và thanh tra thuế. Đồng thời cơ quan thuế
ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện nhiều hoạt động để xác minh việc
tuân thủ, từ việc rà soát tờ khai, xác minh các thông tin của ĐTNT, tiến hành
các cuộc thanh tra, kiểm tra trên mạng ( IT audit) … hoặc phối hợp với các cơ
quan khác (các bên thứ ba, toà án …) để có những hành động thích hợp trong
trường hợp ĐTNT có các hành vi cố ý không tuân thủ, đảm bảo công bằng
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế cho các ĐTNT.
Với hệ thống quản lý được xây dựng trên nền tảng hiện đại, một số nước hàng
đầu về quản lý thuế đã tiếp tục điều chỉnh tồ chức và quy trình, ứng dụng mạnh
mẽ các tiến bộ của công nghệ thông tin để đáp ứng các thách thức do số lượng
ĐTNT tăng lên trong khu vực dịch vụ, thương mại điện tử …
24
Phương thức quản lý tự tính - tự khai - tự nộp thuế ( Self-assessment) có thể sẽ
được phát triển lên một tầm mức mới với phương thức tự phục vụ hay tự hỗ trợ
(Self-helped, self-assisted), trong đó ĐTNT tự tiếp cận tất cả các thông tin và
các phương tiện để thực hiện nghĩa vụ thuế với sự hỗ trợ đến mức cao nhất của
công nghệ thông tin. Cơ quan thuế hoàn toàn chỉ giữ chức năng hướng dẫn,
phát hiện và xử lý các trường hợp không tuân thủ.




















25
Tóm tắt chương 1
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu công tác quản lý thuế đối
với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, bao gồm một số khái niệm
liên quan đến thuế, lý thuyết về đầu tư nước ngoài, cơ chế quản lý thuế thuế đối
với công tác quản lý thuế các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN nói riêng.
Quản lý thuế cần được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn của một hệ thống quản lý
quản lý thuế hiện đại, đáp ứng được việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của
quốc gia trong từng thời kỳ. Theo đó, hệ thống quản lý thế cần đáp ứng các tiêu
chuẩn: tính hiệu quả, tính công bằng, tính linh hoạt, sự phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Chương này cũng trình bày vai trò của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong tiến
trình phát triển kinh tế của các nước nói chung, các nước đang phát triển nói
riêng. Xu thế tăng nhanh về khối lượng và sự vận động của các luồng đầu tư
nước ngoài là một tất yếu kinh tế, là điều kiện bắt buộc đối với sự phát triển
của các nước trong thời đại hiện nay. Vì thế, nhận thức đúng bản chất, vị thế,
vai trò, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực có vốn

ĐTNN là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với mỗi nước.
Do đó hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp nói chung và
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng có tầm quan trọng đặc
biệt.

×