Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 (NXPowerLite copy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.22 KB, 25 trang )

MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO KHOÁI CHÂU
TRƯỜNG TH & THCS NHUẾ DƯƠNG
***

BÁO CÁO
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1”
-----====-----

Tác giả:
Chức vụ:
Đơn vị:

Giáo viên

tháng 02 năm 2022

1


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

MỤC LỤC
Các tiêu đề
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
2


I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2
1. Cơ sở lý luận
2
2. Cơ sở thực tiễn
3
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3
III. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG:
3
PHẦN 2: NỘI DUNG
4
I. TÌM HIỂU CẤU TRÚC CHƯƠNG TRÌNH MƠN TIẾNG VIỆT 1
4
VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
PHỔ THƠNG 2018
II. THỰC TRẠNG RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1
6
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH
9
LỚP 1
1. Biện pháp 1: Rèn kĩ năng nói qua dạy học mơn Tiếng Việt
2. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng nói thơng qua dạy học các môn học

9
15

khác.
3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng nói qua các hoạt động giáo dục ngồi


18

giờ lên lớp và trong giao tiếp hằng ngày.
4.Biện pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá, khích lệ học sinh.
5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng nói cho học sinh thơng qua phối kết
hợp với phụ huynh học sinh
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
PHẦN III: KẾT LUẬN
I . BÀI HỌC KINH NGHIỆM
III- KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
IV. KẾT LUẬN CHUNG

20
20
21
24
24
24
25

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
Mơn Tiếng Việt giúp học sinh phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt, làm
công cụ để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà
2


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

trường, đồng thời cũng là môn học quan trọng giáo dục học sinh những giá trị
cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những
cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,...
Chương trình GDPT 2018 đã xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt cấp
tiểu học là:
- Giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu với các biểu
hiện cụ thể: yêu thiên nhiên, gia đình, q hương; có ý thức đối với cội nguồn;
u thích cái đẹp, cái thiện và có cảm xúc lành mạnh; có hứng thú học tập, ham
thích lao động; thật thà, ngay thẳng trong học tập và đời sống; có ý thức thực
hiện trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội và mơi trường xung quanh.
- Giúp học sinh bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực
ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe với mức độ căn bản: đọc
đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung, thông tin chính của văn bản; liên
hệ, so sánh ngồi văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp; viết được một số câu,
đoạn, bài văn ngắn (chủ yếu là bài văn kể và tả); phát biểu rõ ràng; nghe hiểu ý
kiến người nói.
- Phát triển năng lực văn học với yêu cầu phân biệt được thơ và truyện, biết cách
đọc thơ và truyện; nhận biết được vẻ đẹp của ngôn từ nghệ thuật; có trí tưởng
tượng, hiểu và biết xúc động trước cái đẹp, cái thiện của con người và thế giới
xung quanh được thể hiện trong các văn bản văn học.
* Mục tiêu môn Tiếng Việt ở lớp 1:
- Giúp học sinh có kĩ thuật đọc và đọc hiểu. Kĩ thuật viết, viết câu và đoạn văn
ngắn.
- Giúp học sinh biết nói, nghe và nói nghe tương tác.
Việc rèn luyện tất cả các kĩ năng, trong đó có kĩ năng nói cho học sinh tốt
sẽ giúp cho học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác.
2. Cơ sở thực tiễn
Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy lớp 1, tôi nhận thấy trước khi vào
lớp 1, trẻ đã được làm quen với Tiếng Việt trong cuộc sống hằng ngày. Qua giao
tiếp tơi thấy một số em nói năng lưu lốt, tự tin. Bên cạnh đó, cũng cịn nhiều

3


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
em rụt rè, nói trống khơng, cộc lốc, khơng diễn tả đủ ý, có em thường trả lời
khơng đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số em chỉ trả lời là “có” hoặc
“khơng” chứ chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao khơng. Giáo
viên thì chưa chú trọng đến việc rèn kĩ năng luyện nói cho học sinh nên chất
lượng dạy học Tiếng Việt chưa cao. Muốn học sinh học tốt mơn Tiếng Việt thì
người giáo viên phải rèn luyện cho học sinh tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói,
nghe, trong đó kĩ năng nói là một kĩ năng rất quan trọng. Chính điều đó đã khiến
tôi trăn trở và quyết tâm nghiên cứu, thực nghiệm và tìm ra biện pháp giúp học
sinh lớp 1 luyện nói đạt tốt hơn. Chính vì những lí do trên tôi đã chọn đề tài:
Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích:
- Từ thực trạng dạy và học phần Luyện nói cho học sinh lớp 1, tôi nghiên cứu lý
luận, thực nghiệm và đề xuất Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt lớp 1.
2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu u cầu về nói của học sinh lớp 1
- Tìm hiểu phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học
của chương trình giáo dục phổ thơng 2018.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học phần nói của học sinh lớp 1.
- Đề xuất những biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1.
III. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG:
1. Đối tượng nghiên cứu
- Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1.
2. Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 1A (lớp thực nghiệm), 1B (lớp đối chứng), năm học 20202021 của trường TH & THCS Nhuế Dương – Khoái Châu – Hưng Yên.

3. Thời gian áp dụng :

4


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Bắt đầu từ tháng 8 năm 2020 và được hoàn thành vào tháng 12 năm 2020,
năm học 2020 – 2021.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. TÌM HIỂU U CẦU VỀ NĨI CỦA HỌC SINH LỚP 1 VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG 2018
1. Tìm hiểu u cầu về nói của học sinh lớp 1
Trong mơn Tiếng Việt 1 thì tất cả các bài học đều có phần luyện nói
* Yêu cầu về nói là:
- Nói rõ ràng, thành câu. Biết nhìn vào người nghe khi nói.
- Đặt được câu hỏi đơn giản và trả lời đúng vào nội dung câu hỏi.
- Nói và đáp lại được lời chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, phù hợp với đối
tượng người nghe.
- Biết giới thiệu ngắn về bản thân, gia đình, đồ vật yêu thích dựa trên gợi ý.
- Kể lại được một đoạn hoặc cả câu chuyện đơn giản đã đọc, xem hoặc nghe
( dựa vào các tranh minh họa và lời gợi ý dưới tranh).
2. Tìm hiểu phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp
dạy học của chương trình Giáo dục Phổ thơng 2018.
a) Phương pháp dạy học trong Tiếng Việt 1 tuân thủ định hướng đổi mới
phương pháp dạy học của chương trình mơn Tiếng Việt và Chương trình Giáo
dục Phổ thơng nói chung là đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và
phương tiện dạy học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và
vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh.
b) Ở từng kiểu bài học, đối với từng hoạt động dạy học nhằm phát triển từng kĩ

năng (đọc, viết, nói, nghe) cho HS, GV cần có những phương pháp dạy học phù
hợp với mục tiêu dạy học được quy định đối với lớp 1.
Nói: Dạy nói cần chú ý vận dụng phương pháp GV làm mẫu và HS thực hành
theo mẫu; đặt câu hỏi và tổ chức đàm thoại giữa GV và HS , HS thảo luận nhóm

5


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
(chủ yếu là nhóm đơi) rồi trình bày trước lớp; nghe kể chuyện và kể lại hoặc
đóng vai diễn lại câu chuyện đã nghe.
c) Các nghiên cứu về dạy học và thực tiễn dạy học các lớp đầu cấp tiểu học trên
thế giới đều cho thấy hiệu quả của quy trình dạy học như sau: GV trình bày và
làm mẫu những kĩ năng và chiến lược mới cho cả lớp. Sau đó, HS hoạt động
nhóm (chủ yếu là nhóm đơi) (chẳng hạn hỏi và trả lời, chia sẻ ý tưởng, đọc lại
câu chuyện cho bạn nghe, ...) và học cá nhân để vận dụng những kĩ năng mới
học được. Kết hợp dạy học chung cả lớp, sau đó HS học độc lập là hình thức cần
được áp dụng phổ biến, linh hoạt và cân bằng.
d) Để đổi mới phương pháp dạy học, ngay từ lớp 1, nhất là sang học kì 2, trong
tất cả hoạt động đọc, viết, nói và nghe, GV cần khuyến khích HS tương tác với
nhau, coi đó là một cách thức quan trọng để thúc đẩy việc học và trưởng thành.
Ngồi trao đổi nhóm, đóng vai kể lại câu chuyện thì tham gia các trị chơi cũng
là hình thức tương tác phù hợp đối với HS lớp 1. Đối với dạy học Tiếng Việt
theo quan điểm giao tiếp thì các hoạt động có tính tương tác càng có ý nghĩa. Nó
giúp HS phát triển ngơn ngữ, tư duy và các kĩ năng xã hội một cách hiệu quả;
các em trở nên tự tin hơn, có mối quan hệ bạn bè tốt hơn, tơn trọng sự khác biệt
và có động lực học cao hơn. Trong khi HS làm việc với những HS hay nhóm HS
cần hỗ trợ.
đ) Cần có những hoạt động, câu hỏi dành riêng cho HS gặp khó khăn trong phát
triển các kĩ năng giao tiếp, chẳng hạn, dành cơ hội cho những HS này được

luyện tập đánh vần, đọc trơn nhiều hơn trong 2 tiết/ tuần luyện đọc, viết tăng
thêm ở học kì 1, ... Tương tự như vậy, cần có những hoạt động, câu hỏi dành
riêng cho những HS tự tin, năng động, có khả năng đọc, viết, nói và nghe tốt
hơn so với các HS khác, chẳng hạn tăng thêm các bài tập dạng khó như viết câu
sáng tạo, trình bày trước lớp, kể lại câu chuyện theo trí nhớ và có chi tiết sáng
tạo,...
II. THỰC TRẠNG RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1
1. Về phía giáo viên:
6


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Qua tìm hiểu, có thể thấy rằng: trong q trình giảng dạy, xét về nguyên
nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của giáo viên, một số giáo
viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ
năng đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói
của học sinh q ít. Giáo viên khơng mấy quan tâm đến những học sinh hồn
thành chậm, ít nói, nghèo nàn về ngơn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ
làm mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học
sinh rụt rè ngày càng trở nên nhút nhát hơn.
- Đôi khi giáo viên nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong lớp, câu hỏi dễ lại dành cho học sinh có năng lực tốt, câu hỏi khó đơi khi
lại cho học sinh có năng lực hạn chế trả lời. Cịn khi dạy phần luyện nói chỉ đơn
giản là gọi học sinh trả lời 2, 3 câu hỏi; chưa hướng dẫn học sinh biết liên kết
các câu thành một đoạn đơn giản, đúng chủ đề hoặc có sửa sai nhưng chưa kiên
trì, uốn nắn.
- Chưa linh hoạt, kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong quá trình lên
lớp để phần luyện nói đạt kết quả tốt.
2. Về phía học sinh:
Thực tế cho thấy học sinh Tiểu học giai đoạn đầu cấp ln ham thích học

hỏi nhưng lại nhanh chán và chóng quên, ý thức học tập chưa đồng bộ, khả năng
nói của học sinh mới bước vào lớp 1 cịn hạn chế. Đó là do vốn từ của các em
cịn q ít, do chưa có sự quan tâm chu đáo chặt chẽ của cha mẹ nên các em khó
hoặc khơng diễn đạt được khi nói, khi giao tiếp; các em phát âm khơng chuẩn,
phát âm khơng đúng; cịn rụt rè trong giao tiếp, giao tiếp kém hoặc có thì nói
năng cộc lốc, khơng biết cách diễn đạt hết ý nghĩa của mình.
Khơng những nói chưa chưa đủ câu mà nhiều em cịn nói theo phương
ngữ, chưa chuẩn tiếng phổ thơng, kĩ năng nói chưa thơng, chưa mạch lạc. Chẳng
hạn, giáo viên hỏi: Hôm nay ai đưa con đi học? Học sinh trả lời: Ông (bà),
(mẹ),... hoặc hỏi : Bố con làm nghề gì?. Học sinh trả lời: sửa xe. Tốc độ nói cịn
chậm, ê a, ngắc ngứ, nói q nhanh hoặc quá chậm…các em còn rụt rè, chưa
mạnh dạn khi luyện nói.
7


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
- Do tâm lí rụt rè, e ngại, sợ nói sai ý của cơ, sợ bạn bè chê cười khi nói
khơng đúng hoặc nói ngọng nên học sinh cũng rất ít thể hiện mình.
Đa số các em chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu
yêu cầu, đến lúc trình bày thường câu trả lời khơng đúng mục đích hoặc chưa
hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “khơng” chứ chưa
giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao khơng ? Cịn ỷ lại hoặc nói theo
các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho chính mình.
Ví dụ: Giáo viên u cầu: Em hãy nói một câu về một cây hoa mà em biết?.
HS A: “Nhà em có một cây hoa hồng rất đẹp.
HS B: cũng bắt chước nói theo mẫu câu đó: “Nhà em có một cây hoa lan rất
đẹp.”
3. Khảo sát
Ngay đầu năm học, tơi tiến hành khảo sát chất lượng Nói của học sinh hai
lớp, lớp 1B (đối chứng) và lớp 1A (thực nghiệm) để làm cơ sở kiểm chứng kết

quả thực nghiệm sau này.
Với giờ dạy Tiếng Việt, Bài 2: B b ` – chủ đề luyện nói là Gia đình.
Kết quả thu được như sau :
Số học sinh nói
Lớp
1A
1B

Sĩ số

mạch lạc, diễn

Số học sinh Số học sinh nói Số học sinh nhút

nói đủ ý
đạt tốt
SL
%
SL
%
27
3
11,1
6
22,3
30
3
10
6
20

Cũng như chất lượng lớp tơi chủ nhiệm.

học sinh

chưa đủ ý

nhát, ít phát biểu

SL
%
SL
%
9
33,3
9
33,3
11
36,7
10
33,3
Qua việc khảo sát tơi thấy tình

trạng học sinh nói cộc lốc, nói chưa đủ câu và nói chưa chuẩn tiếng Việt theo
tiếng phổ thơng là tình trạng chung của đa số các em học sinh trong khối lớp 1
của trường.
VD: GV hỏi: “Tranh vẽ cảnh ở đâu, vào lúc nào?”
Một số HS trả lời: “gia đình, buổi tối”,
GV hỏi: “Gia đình có mấy người? Gồm những ai?”
8



MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
HS trả lời:“Sáu người, ơng bà, bố mẹ, 2 con” ...... Rất ít học sinh trả lời
đủ ý đủ câu.
Qua nhiều năm dạy học lớp 1, tiến hành khảo sát kĩ năng nói của học sinh,
tơi nhận thấy những khó khăn và ngun nhân dẫn đến học sinh nói chưa đủ câu,
đủ ý, cịn mang phương ngữ. Từ đó tơi tìm tịi, nghiên cứu các biện pháp khắc
phục những hạn chế mà các em cịn mắc phải nhằm nâng cao kĩ năng nói cho
học sinh lớp 1.
4. Về phía phụ huynh học sinh:
Phần đông phụ huynh làm công nhân, sống bằng nghề nông hoặc đi làm
ăn xa nên nhiều em thiếu đi sự đôn đốc của cha mẹ. Phụ huynh lại chưa dành
nhiều thời gian ngồi học, trò chuyện hoặc chở con đi chơi, giải trí trong những
dịp cuối tuần để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người.., hơn nữa nhiều
phụ huynh lại khơng chú tâm đến cách nói, cách diễn đạt thành câu dẫn đến con
mình nói lưu lốt hay ấp úng cũng không hướng dẫn được. Hằng ngày các em
sống và tiếp xúc với ngôn ngữ địa phương nên các em bị ảnh hưởng của phương
ngữ.
Ví dụ: “bảo” các em nói thành “ bẩu”, “quả ổi ?” nói thành “ quả ủi”,
“cái chổi” nói thành “cái chủi”... Vì phần lớn lỗi phát âm này là do ông, bà, bố
mẹ và những người bạn xung quanh em đều phát âm như vậy nên các em tiếp
xúc, trò chuyện, giao tiếp hằng ngày, lâu dần thành thói quen khó sửa, khiến các
em bị ảnh hưởng nhiều và gặp khó khăn trong q trình luyện nói ở lớp, ở
trường.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LUYỆN NÓI CHO HỌC SINH
LỚP 1
1. Biện pháp 1: Rèn kĩ năng nói qua dạy học mơn Tiếng Việt
Mơn Tiếng Việt ở học kì I gồm 18 tuần trong đó có 1 tuần Mở đầu, một
tuần Ơn tập cịn lại là 16 tuần gồm các dạng bài
* Âm chữ và Vần

Các dạng bài này đều có các hoạt động giống nhau đó là
HĐ 1: Nhận biết
9


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
HĐ 2: Đọc âm, tiếng, từ ngữ
HĐ 3: Viết bảng
HĐ 4: Viết Vở
HĐ 5: Đọc câu hoặc đoạn ngắn
HĐ 6: Nói theo tranh
* Ôn tập và kể chuyện
Dạng bài này đều có các hoạt động giống nhau đó là
HĐ 1: Đọc âm, tiếng, từ ngữ, câu hoặc đoạn
HĐ 2: Viết vở
HĐ 3: Kể chuyện
Trong môn Tiếng Việt, tôi không chỉ rèn kĩ năng nói qua hoạt động nói mà
tơi cịn chú trọng vào việc rèn kĩ năng nói ở tất cả các hoạt động. Cụ thể:
a. Rèn kĩ năng nói qua HĐ1 – Nhận biết:
Ngay từ những bài học đầu, thông qua những nhiệm vụ học tập cụ thể, tôi
đã rèn cho các em cách trả lời thành câu, đúng, đủ ý. Ở hoạt động này các em
được quan sát tranh để trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Khi dạy Bài 8: D d Đ đ. Ở hoạt động Nhận biết, HS quan sát tranh
và trả lời câu hỏi. GV cho HS thảo luận nhóm đơi nói cho nhau nghe Tranh vẽ gì
dựa vào câu hỏi gợi ý: Tranh vẽ gì ? Các bạn nhỏ đang làm gì? HS thường trả
lời: “Các bạn nhỏ”. “Đang cầm tay nhau chơi”. Tôi yêu cầu học sinh sửa lại
cho thành câu như sau: “Tranh vẽ các bạn nhỏ. Các bạn đang cầm tay nhau
chơi”.
Với hoạt động nhóm đôi này, em nào cũng được hỏi và trả lời. Hoạt động
này ngày nào cũng được lặp lại như vậy rèn cho các em dần mạnh dạn, tự tin

hơn khi nói trước các bạn.
b. Rèn kĩ năng nói qua HĐ2 – Đọc âm, tiếng, từ ngữ
Ở hoạt động này chủ yếu rèn cho học sinh cách phát âm đúng, chuẩn.
Hoạt động nói chủ yếu là học sinh biết trả lời câu hỏi đúng, đủ.
Ví dụ: Khi dạy bài 6: O o ?
GV giới thiệu các tiếng chứa âm o: bò, bó, bỏ
10


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
GV hỏi: Các tiếng này có điểm gì giống nhau? GV gợi ý để HS trả lời đủ
câu, đúng ý (Các tiếng này giống nhau đều chứa âm o). Hay khi giới thiệu từ
ứng dụng, GV đưa tranh minh họa cho từ ngữ: bị, cị, cỏ. GV hỏi: Trong tranh
vẽ gì? Nếu HS trả lời: (bò, cò, cỏ). Lúc này GV lại gợi ý, dẫn dắt để HS trả lời
đủ câu: Trong tranh vẽ bị,...
c. Rèn kĩ năng nói qua HĐ3 + HĐ4 – Viết bảng, viết vở
Ở hoạt động này tôi rèn kĩ năng nói thơng qua tìm hiểu u cầu bài viết,
nhận xét về độ cao, độ rộng của con chữ, vị trí dấu thanh, khoảng cách các
chữ,... Giáo viên yêu cầu và uốn nắn cho học sinh trả lời thành câu.
d. Rèn kĩ năng nói qua HĐ5 – Đọc câu hoặc đoạn văn
Ở hoạt động này, khi GV đã cho các em luyện đọc xong câu hoặc đoạn
văn, HS sẽ phải trả lời một số câu hỏi về nội dung bài đọc.
Ví dụ: Bài 7: Ơ ơ
GV hỏi: Ai đang bê bể cá? Trong bể cá có những gì?
GV dẫn dắt để các em nói thành câu như: Bố đang bê bể cá. Trong bể có nước,
cá vàng đang bơi, ...
e. Rèn kĩ năng nói qua HĐ6 – Nói theo tranh
Cuối mỗi bài học âm, vần đều có hoạt động luyện nói. Hoạt động luyện
nói này gồm:
* Thực hành nghi thức lời nói: Nằm ở bài 1 và bài 3 trong mỗi tuần, kéo dài

10 tuần.
Các hoạt động nói này gần gũi với hoạt động giao tiếp thường ngày của các em.
Đó là: Chào hỏi, giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, xin phép. Nhờ vậy vốn từ của các
em được mở rộng và nhiều mẫu câu được hình thành tạo điều kiện cho các em
phát triển kĩ năng đọc - viết - nói - nghe ở giai đoạn sau.
* Nói theo chủ điểm: Cùng chủ điểm với phần đọc.
Giáo viên hướng dẫn học sinh theo các bước sau:
Bước 1: Nói trong nhóm

11


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
GV tổ chức cho học sinh nói cho nhau nghe trong nhóm nhỏ (nhóm đơi)
trong lúc các em nói, giáo viên đến các nhóm lắng nghe để giúp đỡ, uốn nắn
cách nói cho các em.
Giáo viên theo dõi các nhóm, quan tâm thường xuyên giúp đỡ các nhóm
để các nhóm hoạt động có hiệu quả.
Giáo viên nhắc nhở các em trong quá trình luyện nói:
- Bạn nào cũng được nói. Nói vừa đủ nghe trong bàn, nhóm của mình.
- Khi bạn nói các thành viên cịn lại trong nhóm theo dõi, nhận xét lỗi sai của
bạn.
- Bạn nói rành rọt kèm bạn nói ê a, lắp bắp, nói chưa đủ ý, đủ câu hoặc nói chưa
chuẩn tiếng phổ thơng.
- Giáo viên trực tiếp kèm các em cịn nhút nhát, nói năng chưa lưu lốt.
Bước 2: Thi nói giữa các nhóm với tinh thần “ Học mà chơi, chơi mà học”
Đây là một hình thức học sinh trình bày kết quả nói, thi nói tạo sự hào hứng, vui
tươi cho học sinh dưới hình thức “ Học mà chơi, chơi mà học”.
Đại diện nhóm thi nói: Mỗi nhóm cử đại diện một bạn nói.
Khi trình bày trước lớp, cho các em nhận xét, tham gia sửa chữa để rút

kinh nghiệm lẫn nhau.
Với những học sinh nói đủ ý, mạch lạc, diễn đạt tốt thì tơi khuyến khích
các em duy trì và sáng tạo trong mọi tình huống.
Khi các em cùng nói về một vấn đề nào đó, có những em chỉ đưa ra câu
trả lời giống y như bạn chứ chưa sáng tạo nói theo suy nghĩ của mình về vấn đề
đó thì tơi động viên, gợi ý để các em nói khác đi để nội dung bài nói được mở
rộng, sâu sắc và sinh động hơn.
Đối với những học sinh thiếu tự tin rụt rè, ít nói thì tơi chia nhỏ câu hỏi và
hỏi nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các em; với
những trường hợp các em nói q nhỏ cả lớp đều khơng nghe thấy thì tơi giải
thích cho các em hiểu là nói nhỏ như thế thì các bạn khơng nghe và khơng tham
gia xây dựng bài tốt được, lớp học sẽ rất buồn chán. Sau đó yêu cầu các em nói
12


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
lại, ở mỗi lần nói lại thì u cầu các em nói to hơn, to hơn nữa, dần dần các em
sẽ quen với âm lượng nói thế nào là đủ nghe.
Với những học sinh diễn đạt ngơn ngữ cịn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, tơi
hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại
thật phù hợp với yêu cầu đặt ra. Trong khi HS nói nếu phát hiện ra các em phát
âm sai, hay dùng từ khơng đúng thì sửa chữa ngay và cho các em nói lại để ghi
nhớ.
Lựa chọn câu hỏi (dễ, khó) phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chọn
học sinh của nhóm nói tốt nhất nói lại cho cả lớp học tập.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề: Trên sân trường. ở bài 4: E e
Ê ê; giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho mọi đối tượng trong lớp như
sau:
+ Tranh vẽ cảnh ở đâu?- Câu hỏi ngắn gắn với hình ảnh trực quan - Dành
cho em Hoàng Yến - học sinh nhút nhát, ít phát biểu (Tranh vẽ cảnh ở sân

trường)
+ Vào lúc nào? (giờ ra chơi) - Dành cho em Ngọc Anh - học sinh nói chưa
đủ ý.
+ Có những ai trong tranh? (trong tranh có các bạn học sinh).
+ Các bạn đang làm gì? (Các bạn đang chơi. Bốn bạn nhảy dây, hai bạn
chơi đá cầu; hai bạn chơi đuổi bắt; hai bạn đọc sách ở ghế đá; hai bạn đứng ở
hành lang lớp học.) - Dành cho em Đan, Hải Yến - học sinh nói mạch lạc, diễn
đạt tốt.
+ Trong tranh cịn có gì khác? - Câu hỏi có sự tư duy - Dành cho em Vy học sinh nói đủ ý. (Trong tranh cịn có cây, ghế đá, lớp học ở xa.) ...
+ Ngồi những trị chơi này, con còn biết trò chơi nào khác? Con thích
nhất trị chơi nào? - Trình bày câu trả lời theo suy nghĩ và sự hiểu biết của cá
nhân - Dành cho em Anh Thư - học sinh nói mạch lạc, diễn đạt tốt.
Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn
sửa chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ: Khi giáo viên hỏi:
13


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
+ Các bạn đang làm gì? Học sinh trả lời: (đang chơi ạ).
Lúc này giáo viên nêu câu hỏi gợi ý để học sinh nói lại cho thành câu như sau:
GV: Ai đang chơi? Con hãy nói lại cho đủ câu.
HS: Các bạn đang chơi ạ.
e. Rèn kĩ năng nói theo dạng kể trong kể chuyện:
Trong tiết ôn tập và kể chuyện ở cuối mỗi tuần phần nói là hoạt động kể
chuyện. Sau khi được nghe toàn bộ câu chuyện, từng đoạn truyện giáo viên kể
theo tranh, tôi vận dụng linh hoạt các phương pháp: trực quan, hỏi đáp và luyện
tập, giúp học sinh biết kể theo yêu cầu và kể được đoạn truyện. Để các em có
thể kể lại được một đoạn hoặc câu chuyện vừa nghe, trước hết tôi nêu các câu
hỏi gợi ý giúp HS nhớ được từng chi tiết trong truyện theo trình tự.

Ví dụ: Câu chuyện các con vừa được nghe kể về ai? Trong truyện có
những nhân vật nào? Nhân vật đó là người như thế nào? Con thích nhất chi tiết
nào trong truyện ?.... Sau đó hướng dẫn học sinh luyện kể cho nhau nghe. Các
bước làm tương tự luyện nói theo chủ đề.
Yêu cầu nói trong kể chuyện cao hơn một chút so với nói theo các hoạt
động trong bài học, chủ đề. Để rèn kĩ năng nói cho học sinh trong kể chuyện,
việc đầu tiên giáo viên phải giới thiệu truyện, cho biết câu chuyện thường có các
vai nhân vật, vai dẫn truyện; do đó để tăng tính hấp dẫn, tơi cho HS làm quen
với các giọng khác nhau (giọng người kể, giọng nhân vật A, B...) qua giọng kể
của mình. Đặc điểm giọng kể phụ thuộc vào nội dung truyện, rồi kể mẫu, cho
học sinh làm quen với cách phán đoán diễn biến tiếp bằng việc dừng lại sau một
tình tiết nào đó và đặt câu hỏi: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Một vài học sinh nêu
phán đốn của mình (Em nghĩ, nó sẽ...); Em khơng nghĩ như bạn..., nó sẽ...).
Sau đó, giáo viên cho HS luyện kể cho nhau nghe, HS thi kể trước lớp, nhận xét,
đánh giá. Học sinh nào chưa kể được giáo viên nêu câu hỏi gợi ý để các em nhớ
lại các chi tiết cơ bản trong truyện, từ đó giúp các em kể lại được đoạn truyện
hay tồn bộ câu chuyện theo u cầu.
Ví dụ: Kể chuyện: Búp bê và dế mèn (Bài 5: Ôn tập và kể chuyện).
- Lần 1: GV kể toàn bộ câu chuyện.
14


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
- Lần 2: GV kể từng đoạn và đặt câu hỏi. HS trả lời.
Đoạn 1: Từ đầu đến nghe thấy tiếng hát.
GV đặt câu hỏi: Đây là câu chuyện kể về ai? HS quan sát tranh xem trong
truyện có những nhân vật nào? GV kể và hỏi: Búp bê làm những việc gì? Học
sinh trả lời: quét nhà, rửa bát, nấu cơm. Học sinh khác nhận xét. Giáo viên yêu
cầu HS nói lại đủ câu bằng câu hỏi: ai quét nhà, rửa bát, nấu cơm?. Học sinh trả
lời: Búp bê quét nhà, rửa bát, nấu cơm. HS nhận xét. GV hỏi tiếp: Lúc ngồi

nghỉ, búp bê nghe thấy gì?, nếu học sinh trả lời chưa đủ ý, yêu cầu học sinh khác
nhận xét, chỉ ra chỗ sai của bạn và giáo viên yêu cầu em nói sai nói lại cho đúng
câu của mình. Trường hợp học sinh đó khơng tự sửa được thì giáo viên yêu cầu
học sinh khác sửa giúp. Giáo viên là người nhận xét cuối cùng, khen, tuyên
dương và khích lệ học sinh....làm như vậy vừa gây hứng thú, vừa lơi cuốn sự
chú ý cho học sinh nói và nhớ được truyện.
Với bài này tôi cho học sinh kể phân vai theo nhóm, hướng các em tập kể
cho phù hợp với lời nói của nhân vật trong truyện, tạo điều kiện để nhiều học
sinh có năng lực khác nhau được thực hành kể về nội dung câu chuyện, khuyến
khích học sinh khơng đọc thuộc lịng, có thể thêm từ, hoặc thay từ khác nhưng
không làm thay đổi nội dung câu chuyện.
Việc rèn kĩ năng nói qua mơn Tiếng Việt thường xuyên như vậy đã hình
thành cho các em kĩ năng, thói quen diễn đạt rõ ràng, lưu lốt, rõ ý, thành câu,
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, tiến tới biết sử dụng từ ngữ phong phú, ngữ
điệu phù hợp khi nói, biết nhìn vào người nghe khi nói.
Đoạn 2, 3: GV làm tương tự.
Video HS luyện nói
2. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng nói thơng qua dạy học các môn học khác.
Đối với học sinh lớp Một, khả năng ghi nhớ của các em chưa được vững
chắc, dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc rèn kĩ năng luyện nói
trong giờ Tiếng Việt, tơi thường xun rèn kĩ năng nói đúng ý, đủ câu, cách trả
lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận nhóm, báo cáo kết quả thảo luận với cô giáo, cách
nhận xét, đánh giá bạn qua các môn học khác.
15


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Đối với tất cả các môn học khác việc yêu cầu học sinh nói thành câu, đủ
ý cũng rất quan trọng vì khi nói đầy đủ câu mới hiểu được nội dung một cách
trọn vẹn.

Ví dụ 1: Ở mơn Tốn khi dạy bài: Bảng cộng 1 trong phạm vi 10
Giáo viên hỏi: + Tay trái cầm 1 que tính, tay phải cầm 3 que tính, tất cả
có mấy que tính ?
Nếu học sinh chỉ trả lời là “bốn” thì chưa đầy đủ, giáo viên cần yêu cầu học sinh
sửa lại cho thành câu như sau:
+ Tay trái cầm 1 que tính, tay phải cầm 3 que tính, tất cả có 4 que tính ạ.

Hình ảnh HS tham gia học cá nhân

16


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

Học sinh tham gia học cá nhân
Ví dụ 2: Khi dạy bài: Kể về gia đình - Bài 1- Mơn TNXH lớp 1.
GV cho HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi: Gia đình Hoa gồm có mấy người?
Đó là những ai? Nếu HS trả lời: “có 6 người”
GV yêu cầu học sinh sửa lại: Gia đình Hoa có sáu người, đó là: ơng, bà, bố, mẹ,
Hoa và em trai Hoa ạ.
Ví dụ 3: Khi dạy bài: Gọn gàng, ngăn nắp - Bài 2 - Môn Đạo đức lớp 1.
Ở hoạt động 3: Tìm hiểu biểu hiện sống gọn gàng, ngăn nắp. HS quan sát tranh
SGK trang 9, thảo luận nhóm bốn và trả lời câu hỏi: - Bạn trong tranh đang làm
gì ?
Tơi cho học sinh nối tiếp nhau nói từng tranh :
Tranh 1: Bạn treo quần áo lên giá, lên mắc áo.
Tranh 2: Xếp sách vào giá sách ở thư viện sau khi đọc.
........
Tranh 5: Treo hoặc cất chổi vào chỗ quy định, ... – Lớp theo dõi, nhận xét,
giúp bạn sửa lại câu nói chưa đủ, chưa đúng hoặc nói sai tiếng phổ thơng.

17


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

Học sinh tham gia học nhóm bốn
Ví dụ 4:

Khi dạy bài: Chào lớp 1 – Bài 1 (chủ đề 1) – Môn Hoạt động trải

nghiệm
Ở hoạt động 2: Giới thiệu bản thân. Tôi cho HS thảo luận nhóm đơi và hướng
dẫn các em giới thiệu về bản thân: Khi giới thiệu, các em giới thiệu tên mình và
có thể nói thêm một điều gì mà mình u thích. Sau đó u cầu HS lần lượt thực
hành giới thiệu bản thân trước lớp.
Việc rèn kĩ năng nói qua các mơn học hằng ngày đã tạo cho các em thái
độ học tập tích cực, các em tham gia các tiết học sôi nổi hơn, hăng hái hơn, hào
hứng hơn.

18


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736

Học sinh tham gia học nhóm
3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng nói qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp và trong giao tiếp hằng ngày.
Ngoài giờ học, trong giao tiếp hằng ngày giữa giáo viên và học sinh, giữa
học sinh và học sinh, tôi cũng phải hết sức chú ý phát hiện và sửa chữa kịp thời
khi các em nói trống không, không đủ ý, xưng hô không phù hợp, ngơn ngữ diễn

đạt cịn lộn xộn, ở mọi nơi, mọi lúc.
Thông thường, trong giờ ra chơi tôi thường ngồi lại trong lớp và trò
chuyện cùng các em học sinh, trong khi trị chuyện tơi thường hỏi han về những
điều gần gũi nhất với các em, như: món ăn mà các em thích, những trị chơi mà
các em thường chơi cùng bè bạn, những công việc nhà mà các em thường làm để
giúp đỡ ơng bà, cha mẹ,...
Ví dụ: Giờ ra chơi, tôi hỏi học sinh:
- Hôm nay ai đưa con đi học? (Hôm nay bố đưa con đi học)
- Em thích học nhất là mơn nào ? (Mơn Tốn là mơn em thích học nhất)
hoặc em thích học nhất là mơn Tốn.
- Ở nhà, ngồi giờ ơn bài con thường giúp ơng bà, bố mẹ làm những cơng
việc gì?
Nếu các em trả lời trống không, tôi hướng dẫn các em nói lại cho đủ ý,
đúng câu.
19


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Trong các buổi sinh hoạt tập thể, giao lưu văn nghệ, chơi trò chơi, thi kể
chuyện; khi yêu cầu các em trả lời, hát hoặc tham gia trị chơi khơng nên đặt
nặng vấn đề thắng thua hay phân loại cao thấp mà cố gắng động viên các em nên
hòa đồng thể hiện hết khả năng của mình trước tập thể, trước khán giả. Bên cạnh
đó giáo viên và các bạn nên kịp thời ghi nhận và tuyên dương sự tiến bộ để các
em cảm thấy tự tin, mạnh dạn hơn.
Hướng dẫn học sinh tự luyện nói đúng tiếng phổ thơng. Khuyến khích các
em phát hiện bạn nói chưa chuẩn và giúp nhau sửa lỗi.
Ví dụ: Trong giao tiếp hằng ngày với nhau các em hay nói “bảo” thành
“bẩu”, “cái chổi” thì các em nói thành “cái chủi”, “quả ổi” thì nói thành “quả
ủi”. Nếu phát hiện bạn mình nói sai như vậy thì giúp bạn sửa ngay.
Hướng dẫn các nhóm học sinh chủ động “chơi mà học, học mà chơi”

trong thời gian ra chơi, cịn trong giờ truy bài tơi u cầu các em trong nhóm
đặt câu hỏi và trả lời về bài học với nhau.
Qua hoạt động này đã giúp cho các em mạnh dạn, tự tin, nói năng lưu lốt
trong học tập và giao tiếp hằng ngày.
(Video GV sửa lỗi cho HS)

4. Biện pháp 4: Tăng cường nhận xét, đánh giá, khích lệ học sinh.
Thường xuyên đánh giá sự tiến bộ của học sinh là một yêu cầu quan trọng
của Thông tư mới. Vì vậy tơi ln tạo cơ hội cho tất cả các học sinh trong lớp
được luyện nói, khơng bỏ sót em nào.
Trong các giờ học tơi ln giúp các em tự nhận xét, đánh giá bản thân,
tham gia nhận xét bạn và nhóm bạn trong q trình luyện nói. Phát hiện ra
những tiến bộ dù nhỏ để động viên, khuyến khích kịp thời để tạo hứng thú học
tập cho các em.
20


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Luôn tạo ra môi trường học tập thân thiện giữa học sinh với học sinh, học
sinh với thầy cô để các em mạnh dạn bộc lộ mong muốn, đề nghị của mình.
Ví dụ: Với những em nhút nhát chưa mạnh dạn, nếu các em trình bày
đúng chủ đề nhưng nói cịn nhỏ thì tơi có thể khen: Cơ khen con nói đủ ý, đúng
chủ đề, nhưng nếu con nói to hơn nữa thì sẽ rất hay. Hoặc với những em nói tốt
hơn, tự tin khi nói, tơi có thể khen: Cơ khen con nói to, rõ ràng, đúng chủ đề, rõ
ý, nhưng nếu con biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong khi nói thì thật là tuyệt
vời,...
Chính vì vậy mà các em trong lớp đã nói to, rõ ràng, mạch lạc. Các em
Bảo Duy, Đức Duy đã mạnh dạn khi nhận xét bạn. Các em Vinh, Đan, Vy ,..
mạnh dạn đưa ra ý kiến cá nhân trong các giờ học.
5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng nói cho học sinh thơng qua phối kết hợp với

phụ huynh học sinh
Bên cạnh các biện pháp trên tôi không quên biện pháp rất quan trọng đó
là thường xuyên gặp trực tiếp với phụ huynh học sinh để trao đổi phương pháp,
cách dạy, hướng dẫn con em mình luyện nói ở nhà.
Ngay buổi họp phụ huynh đầu năm học, tôi đã chỉ cho phụ huynh thấy rõ
tầm quan trọng, sức ảnh hưởng của cách nói và xưng hô của phụ huynh trước
con trẻ như thế nào khi ở nhà; Và tầm quan trọng của việc nói, nói thành câu và
nói tiếng Việt chuẩn tiếng phổ thơng trong trường học. Nêu một số lỗi cơ bản
mà học sinh thường mắc trong giao tiếp cũng như trong câu trả lời liên quan đến
nội dung bài học của các em, phân tích để phụ huynh nắm được cách hướng dẫn
và nhắc nhở con, em mình nói đúng, nói đủ câu.
Không những thế tôi gặp gỡ thường xuyên và giúp gia đình hiểu được
rằng lo lắng, thương u con khơng chỉ lo cho con cái ăn, cái mặc là được mà
phải sắp xếp thời gian ở bên con động viên, chia sẻ và giúp đỡ kịp thời những
chuyện vui buồn trong cuộc sống thì nhân cách của các em mới phát triển toàn
diện được. Thường xuyên tiếp cận và tác động tích cực để gia đình nhận thức
một cách đúng đắn về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng nói
21


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
riêng. Bên cạnh việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực sự
gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi người
xung quanh để các em học tập, noi theo.
Thường xuyên thông tin 2 chiều với phụ huynh trong việc kiểm tra, đánh
giá kết quả khắc phục nói, viết chuẩn tiếng phổ thơng của học sinh.
Được sự ủng hộ, đồng thuận và nhất trí cao của các bậc phụ huynh mà các
em học sinh tiến bộ rõ rệt. Như các em Hoàng Yến, Ngọc Anh, Hà Phương,
Trang, trước còn nhút nhát, rụt rè nay đã mạnh dạn, tự tin, nói năng lưu lốt đủ
ý, đúng câu hơn.

IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Trong quá trình áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 1 đã trình bày ở trên vào giảng dạy, chất lượng hoạt động nói trong giờ dạy
Tiếng Việt của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. Để kiểm chứng một số biện pháp áp
dụng của mình, tơi đã tiến hành khảo sát thực nghiệm nhằm đối chứng chất
lượng giữa hai lớp 1A (lớp thực nghiệm) với lớp 1B (đối chứng). Dưới đây là
bảng tổng hợp kết quả khảo sát học sinh sau khi áp dụng được đối chiếu, so sánh
giữa 2 lớp – năm học 2020 – 2021 với Bài 78: uân uât
Tôi thu được kết quả tổng hợp như sau:
Thời


gian áp

Lớp số dụng các

1A

1B

Số HS nói
mạch lạc, diễn

Số học sinh nói

Số HS nói

đủ ý

chưa đủ ý


đạt tốt

Số HS nhút
nhát, ít phát
biểu

HS

biện

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

27

pháp

Trước

3

11,1

6

22,3

9

33,3

9

33,3

27

Sau

9

33,3

10

37,1


5

18,5

3

11,1

30

Trước

3

10

6

20

11

36,7

10

33,3

30


Sau

6

20

8

26,7

9

30

7

23,3

22


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
Nhìn vào bảng thống kê chất lượng khi đối chiếu kết quả luyện nói của
hai lớp sau khi áp dụng với chủ đề luyện nói như nhau, tơi thấy chất lượng của
lớp 1A cao hơn hẳn lớp 1B. Số lượng học sinh nói mạch lạc, diễn đạt tốt và số
học sinh nói đủ ý tăng lên nhiều so với đầu năm. Số học sinh nói chưa đủ ý và
số học sinh nhút nhát, ít phát biểu thì giảm đi rõ rệt.
Nhiều học sinh đã có sự tiến bộ đáng kể. Trước đây, các em Lưu Thị
Hoàng Yến, Đặng Hà Phương, Nguyễn Thị Phương Trang, ... khi nói diễn đạt
câu cịn chưa đủ ý, nay các em đã nói tốt hơn. Các em Nguyễn Ngọc Anh, Trần

Thị Quỳnh Anh, Nguyễn Thị Trang còn nhút nhát, ít phát biểu, giờ các em đã
mạnh dạn, tự tin hơn khi nói trước lớp.
Sau 18 tuần dạy và học, tôi rất vui khi kết quả khảo sát trên đạt kết quả
cao. Một số học sinh cịn nói ê a, ngắc ngứ đến nay hầu hết các em đó đều nói
lưu lốt, các em đã nắm được cách trả lời. Ngoài chất lượng đạt được trên, việc
rèn kĩ năng quan sát, luyện nói cịn giúp các em có tác phong tự tin, mạnh dạn
khi giao tiếp với mọi người.
Sự tiến bộ của các em là thành công lớn của tơi và là nguồn động viên,
khuyến khích tơi càng hăng say thực hiện mong muốn của mình và là động lực
giúp tơi tiếp tục tìm hiểu thực nghiệm rèn luyện các kĩ năng khác của môn Tiếng
Việt và các môn học khác cho học sinh hiệu quả hơn.

PHẦN BA: KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để rèn kĩ năng nói cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học
mơn Tiếng Việt nói chung và rèn kĩ năng nói cho học sinh thì người giáo viên
phải có tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức học hỏi qua đồng nghiệp, qua việc
tập huấn, qua tìm hiểu trên Internet.
- Nắm chắc nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy của mơn
Tiếng việt theo chương trình giáo dục phổ thơng 2018.
23


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
- Chú trọng các biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 qua việc dạy
học môn Tiếng Việt; các môn học khác; qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp và trong giao tiếp hằng ngày; qua việc nhận xét, đánh giá, khích lệ học
sinh và thơng qua việc phối kết hợp với phụ huynh học sinh.
- Trước khi lên lớp giáo viên phải có sự chuẩn bị bài chu đáo.
- Cần thay đổi hình thức tổ chức giờ học cho linh hoạt mềm dẻo, sinh

động hấp dẫn học sinh.
- Luôn giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Kết hợp việc dạy học với việc sử
dụng đồ dùng dạy học để nâng cao chất lượng việc nói cho học sinh nhằm gây
hứng thú cho các em trong từng tiết học.
- Tạo khơng khí sơi nổi, tơn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em
có sự tiến bộ dù là nhỏ nhất.
- Kiểm tra, đánh giá, kịp thời, thường xuyên.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để cùng rèn luyện các kĩ năng
đọc, viết, nói, nghe cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho học
sinh.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Đối với Tổ chuyên môn:
Tổ chức Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, tập trung các nội
dung nâng cao năng lực dạy học các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe trong mơn
Tiếng Việt.
2. Đối với Nhà trường, Phịng Giáo dục và Đào tạo…..
Tổ chức cho giáo viên tham quan, dự giờ các trường Tiểu học tiêu biểu
có chất lượng cao về dạy và học.
3. Đối với phụ huynh học sinh:
- Quan tâm, giúp đỡ con em mình trong quá trình học tập và rèn luyện một cách
thường xuyên, liên tục.
- Tạo điều kiện để con em mình có thời gian học và tự học ở nhà. Trang bị đầy
đủ sách vở, đồ dùng học tập.
24


MUA TRỰC TIẾP LIÊN HỆ ĐT, ZALO: 0946.734.736
- Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với thầy cô giáo, với nhà trường để nắm bắt
thơng tin của con em mình, có biện pháp khắc phục những yếu khuyết điểm
trong học tập, đặc biệt là kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp một cách kịp thời để các

em nhanh tiến bộ.
III. KẾT LUẬN CHUNG:
Trải qua một quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng các biện pháp ở
trên vào dạy luyện nói cho học sinh lớp 1, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy
của bản thân, tơi mong muốn góp phần nhỏ để nâng cao chất lượng dạy học nói
cho học sinh.
Trên đây là “Một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1” của
tơi. Tuy nhiên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong hội đồng chấm
thi góp ý xây dựng, chia sẻ thêm để biện pháp của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Nhuế Dương, ngày 20 tháng 02 năm 2021
Người viết

Trần Thị Thủy

25


×