Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

skkn05 vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 71 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU

2

1.1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

4

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

5

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


6

2.1. Cơ sở lí luận

6

2.2. Thực trạng vấn đề

7

2.2.1:Thực trạng của dạy học lịch sử hiện nay

7

2.2.2:Thực trạng của dạy học tích hợp hiện nay

8

2.2.3:.Thực trạng của bài dạy những chuyển biến trong đời sống
kinh tế hiện nay

9

2.3: Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

11

2.3.1. Các ngun tắc tích hợp

11


2.3.2: Tìm hiểu chương trình, SGK các mơn học khác -> Chọn
các nội dung có liên quan đến bộ mơn Lịch Sử.

11

2.3: Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

12

2.4. Hiệu quả của SKKN

34

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

35

3.1. Kết luận

35

3.2. Kiến nghị

36

TLTK- Danh mục SKKN

37-38
1



1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học.
Đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Việc vận
dụng kiến thức liên môn trong một môn học, một giờ học là một biện pháp rất
hữu ích, nó khơng những giúp cho người thầy có thêm nhiều kiến thức và phương
pháp khác nhau trong một giờ dạy mà còn giúp cho các em học sinh chủ động
trong hoạt động học tập, giải quyết các vấn đề và tích hợp kiến thức các mơn học
để thực hiện học tập tốt mơn học đó và áp dụng giải quyết 1 vấn đề bất kỳ có hiệu
quả, thơng minh với nhiều cách giải quyết khác nhau[1].. Việc sử dụng kiến thức
liên mơn, chủ đề tích hợp sẽ giúp học sinh hiểu được sâu sắc các vấn đề lịch sử,
nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối
liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội[2]...Việc sử dụng kiến thức
liên mơn cịn giúp học sinh củng cố thêm những hiểu biết của mình ở nhiều mơn
học khác. HS phải biết đặt các khái niệm đã học trong từng mơn học cũng như
giữa các mơn học khác nhau, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được
kiến thức. Đặc biệt từ việc hình thành được những biểu tượng lịch sử cụ thể, sinh
động thông qua vận dụng tích hợp các kiến thức liên mơn sẽ tạo nên những gợi
cảm mới, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, sẽ đem lại hiệu
quả tích hợp giáo dục sâu sắc trong nhiều chủ đề theo hướng dẫn của Bộ GD &
ĐT. Đổi mới phương pháp dạy học và cải tiến nội dung sách giáo khoa ở THCS
là một bước tiến quan trọng của giáo dục Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu kiến
thức cũng như sự phát triển của đất nước trong xã hội ngày nay[3]... Những môn
học ở THCS đều cung cấp cho học sinh kiến thức và kỹ năng nhất định, tạo ra
một hệ thống giáo dục toàn diện giúp cho học sinh nắm vững những tri thức cần
thiết để vận dụng vào cuộc sống thực tiễn gần gũi với cuộc sống hằng ngày cũng
như tích luỹ vốn kiến thức cho tương lai. Tương tự như những môn học khác của

THCS, phần Lịch sử và và các mơn học liên quan có một vai trò rất quan trọng
trong việc cung cấp cho học sinh về những mốc son về các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật Lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian từ buổi đầu dựng nước tới nay, hay
những sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lý đơn giản ở Việt Nam và một
số quốc gia trên thế giới. Thơng qua những kiến thức đó mơn học Lịch sử và các
môn học liên quan rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản của việc quan sát
và nhận biết các sự vật hiện tượng, các sự kiện Lịch sử để trình bày những hiểu
biết của bản thân bằng lời nói và bài viết, biết vận dụng một cách linh hoạt vào
thực tiễn của cuộc sống.
2


Qua đó bồi dưỡng và phát triển cho các em thói quen ham học hỏi, tìm hiểu và
xây dựng tình yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc. Một trong những mục tiêu trọng
điểm của việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống địi hỏi nội dung
chương trình mơn Lịch sử và các môn học liên quan phải cung cấp cho các em
những thông tin, sự kiện hoặc những giá trị về Lịch sử của địa phương, nơi học
sinh đang sinh sống. Nhưng cho đến nay nội dung chương trình mơn học Lịch sử
ở THCS cịn rất ít (ở lớp 6 chỉ có 1 tiết/tuần, lới 7có 2 tiết/tuần, cịn ở lớp 8,9 có
một tiết rưỡi/ tuần nên khơng đủ cung cấp hết kiến thức cho cho học sinh).
Vậy chúng ta phải làm gì để cung cấp thêm cho học sinh những kiến thức về
Lịch sử. Nếu xét về góc độ chương trình chính khố thì các tiết học về lịch sử đã
được phân bổ sát với thời gian học tập, khơng có nội dung trống để giáo viên tiến
hành dạy bổ sung. Xét về góc độ hoạt động ngồi giờ thì thời gian cũng khơng
nhiều hoặc một số trường có điều kiện khơng thuận lợi cho việc triển khai hoạt
động ngoại khố về lịch sử. Ngồi ra học sinh cũng khơng u thích mơn học này
bởi sự khơ khan của mơn Lịch sử. Chính vì thế trong q trình dạy và học về
môn Lịch sử tôi đã vận dụng các kiến thức môn học khác để các em yêu thích
mơn học Lịch sử hơn và đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy những chuyển

biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6” làm sáng kiến kinh nghiệm áp
dụng cho mình.
- Về nội dung : Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục cơng dân…đều có
những nội dung thuộc nhóm Khoa học xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những
vấn đề của con người, xem xét các mối quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực
kinh tế, xã hội, tuy rằng mỗi mơn học có mục tiêu riêng (Lịch sử chú ý đến quá
trình hình thành và phát triển của xã hội, địa lí chú ý đến tính khơng gian lãnh
thổ của các sự vật hiện tượng đang diễn ra hiện nay, Ngữ văn hình thành các kỹ
năng cho con người về cả tâm hồn lẫn nhân cách, Giáo dục công dân giáo dục
cho các em các đức tính, lịng u nước…của con người). Tuy vậy, giữa chúng có
mối quan hệ tác động qua lại với nhau bởi các sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn
ra trong một khoảng không gian nhất định với các điều kiện cụ thể, trong đó có
các điều kiện địa lí,ngay cả lịng tự hào dân tộc, những sự kiện lịch sử được đưa
vào văn chương một cách bóng bẩy, tinh tuý. Bên cạnh đó qua môn Giáo dục
công dân giúp các em những đức tính tốt đẹp của con người, qua
đó các em biết trân trọng giữ gìn, biết ơn cơng lao của các bậc cha anh đi trước .
Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc (kể cả phần lịch sử địa phương) đều gắn với
những điều kiện tự nhiên mà con người sinh sống, gắn với nền văn học của dân
tộc cho nên khi học tập lịch sử xã hội phải phân tích đến các yếu tố của mơi


trường tự nhiên, biết đến sự phát triển của văn học dân tộc cũng như bản tính tốt
đẹp của dân tộc Viêt Nam qua các thời kì lịch sử để rồi thông qua nội dung lịch
3


sử để hiểu rõ hơn môi trường tự nhiên, thực hiện giáo dục môi trường, tạo cơ hội
cho văn học Việt Nam phát triển.
- Về mặt kỹ năng : Sử dụng các phương tiện trực quan như bản đồ, Atlat,
tranh ảnh, thơ văn, giáo dục tình cảm con người…

- Về mặt phương pháp dạy học: Trong quá trình dạy học, giáo viên Lịch
sử, Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục cơng dân… vận dụng phương pháp dạy học theo
con đường qui nạp, đi từ phân tích các hiện tượng, sự kiện cụ thể, đơn lẻ để dẫn
tới những nhận xét, kết luận mang tính khái qt. Đó là lý do mà tôi chọn đề tài
“Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác vào bài dạy
những chuyển biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6” làm sáng kiến kinh
nghiệm
1.2: Mục đích nghiên cứu
Trong thực tế giảng dạy đa phần học sinh xem môn học này là phụ. Do đó thái
độ học sinh chưa tích cực, các em ít chịu khó lắng nghe khi ngồi học dẫn
đến kết quả học tập chưa cao. Vì vậy việc giúp các em có thái độ học tập đúng
đắn, u thích mơn học, xóa bỏ khoảng cách mơn học chính-phụ là nhiệm vụ rất
quan trọng của giáo viên. Xuất phát từ thực tiễn trên cùng với yêu cầu cấp thiết
về đổi mới dạy học lịch sử, kết hợp những thử nghiệm trên lớp học ở THCS, tôi
nhận thấy nghiên cứu cách thức vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy
học lịch sử để nâng cao hiệu quả bài học là vấn đề có ý nghiã thực tiễn rất cần
thiết hiện nay. Trong qua trình giảng dạy lịch sử lớp 6 tôi đã mạnh dạn áp dụng
phương pháp dạy học này để đưa lại hiệu quả học tập cao đồng thời phát huy
được tính tích cực trong nhận thức của học sinh
Đề tài của tôi là“Vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn của các môn học khác
vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế- Lịch sử 6”
Qua đề tài này tôi muốn làm rõ những vấn đề;
-Những tư liệu liên môn cần thiết khi dạy tiết của bài những chuyến biến trong
đời sống kinh tế
-Phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học lien môn cụ thể qua từng phần trong
bài để đạt hiệu quả bài học lịch sử
-Phân tích tác dụng của phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn


trong bài để phát huy tính độc lập nhận thức học sinh trên cả mặt: giáo dục, giáo

dưỡng, phát triển
1.3: Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 6 trường THCS Đông Quang
- Đề tài của tôi được nghiên cứu trong thời gian trực tiếp giảng dạy lịch sử
lớp 6.
1.4: Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của tôi được nghiên cứu trong thời gian trực tiếp giảng dạy lịch sử
lớp 6. Đồng thời làm phương pháp so sánh, thực nghiệm tính hiệu quả của bài
dạy bằng phương pháp dạy học truyền thống với bài dạy vận dụng nguyên tắc
dạy học liên môn, cũng khảo sát qua các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết. Kết quả học
4


sinh hứng thú hơn với cách dạy mới: Vận dụng nguyên tắc dạy liên môn và tỉ lệ
học lực khá, giỏi tăng lên
Đề tài của tôi chỉ đưa ra cách tiếp cận mới về phương pháp dạy học bằng cách
vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn trong bài dạy Những chuyển biến trong
đời sống kinh tế. Mặc dù cố gắng nhưng cịn nhiều hạn chế, tơi mong nhận được
đóng góp của đồng nghiệp để đạt hiệu quả cao hơn
1.5: Những điểm mới của SKKN
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực trong độc
lập nhận thức của học sinh hiện nay đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đặc
biệt đối với giáo viên dạy lịch sử hiện nay thực trạng chất lượng môn sử qua các
kì thi đạt kết quả thấp. Mơn sử được đưa lên bàn cân, là đề tài tranh luận sôi nổi
về nguyên nhân dẫn đến chất lượng môn sử thấp?
Vấn đề đó trở thành nỗi trăn trở trong nhiều giáo viên dạy lịch sử, vì vậy đổi
mới phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả bài học, tăng tính hấp dẫn đối
với học sinh dược nhiều giáo viên đặc biệt quan tâm. Nhiều phương pháp dạy
học mới được thử nghiệm và đã góp phần nâng cao hiệu quả trong bài học như:
dạy học nêu vấn đề, dạy học đàm thoại, sử dụng đồ dùng trực quan, tổ chức hoạt

động ngoại khóa…Nhưng đổi mới phương pháp dạy học bằng cách vận dụng
nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy học lịch sử đang còn là phương pháp mới
mẻ, chưa phổ biến. Sở dĩ như vậy là do phương pháp dạy học đạt hiệu quả trong
bài cao nhưng lại khó với giáo viên. Vì vậy xuất phát từ yêu cầu của nguyên nhân
vận dụng dạy học liên môn khá cao, giáo viên vừa vững vàng chun mơn vừa có
kiến thức uyên thâm vững chắc cùng với kĩ năng dạy học các môn lien quan lịch
sử như địa lý, văn học, giáo dục công dân…Phương pháp dạy học lịch sử phải đạt
tới kĩ năng, kĩ xảo mới kết hợp nhuần nhuyễn với phương pháp dạy học đặc trưng
của các môn học liên quan khác
Nhận thức dạy học lịch sử không chỉ đơn thuần là cung cấp sự kiện khô
khan, rời rạc, khơng phải là vấn đề chính trị hay một cuộc chiến tranh thì giáo
viên nào cũng nhận thức được nhưng biến nó thành một sự kiện hấp dẫn đặt nó
trong cái nhìn tổng thể thì khơng phải ai cũng làm được. Vận dụng nguyên tắc
dạy học liên môn trong dạy học Lịch sử đố với bài dạy về văn hóa, kinh tế, ơn
tập, tổng kết…sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học và phát huy tính tích cực
trong độc lập nhận thức của học sinh
Khác với chương trình hiện tại, nội dung Lịch sử trong chương trình mới ở
bậc THCS sẽ lấy trục lịch đại (thời gian 0) làm trục xuyên suốt, vì thế, ở mỗi giai
đoạn lịch sử đều cố gắng thiết kế nội mơn theo mơ hình: thế giới – khu vực


- Việt Nam - lịch sử địa phương, trong đó lấy lịch sử Việt Nam làm trọng tâm,
chiếm 60% thời lượng của chương trình. Đây là điểm mới trong cấu trúc, trong
tích hợp của phân mơn lịch sử. Cịn với riêng sáng kiến này bản thân tôi áp dụng
và nhận thấy khi áp dụng vào bài dạy “Những chuyển biến trong đời sống kinh
tế” học sinh đã biết huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh
5


vực khác nhau, học sinh để họ có thể đối mặt với những thách thức của cuộc

sống, sẽ giảm bớt, tránh được sự trùng lặp không cần thiết về nội dung giữa các
môn học, học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống; thơng qua đó
hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực cần
thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc
sống. Qua đó hình thành ở học sinh những năng lực giải quyết hiệu quả các tình
huống thực tiễn dựa trên sự huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau. Điều đó cũng có nghĩa là đảm bảo để mỗi học sinh biết
cáchvận dụng kiến thức học được trong nhà trường vào các hồn cảnh mới lạ,
khó khăn, bất ngờ, qua đó trở thành một người cơng dân có trách nhiệm, một
người lao động có năng lực.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1: Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay, dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đang được
quan tâm. Thực hiện tích hợp trong dạy học sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc
góp phần hình thành và phát triển các năng lực hành động, năng lực giải quyết
vấn đề cho học sinh[4].
Tích hợp theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự liên kết các thành phần, các
bộ phận khác nhau một cách hịa hợp, tương thích trong một tổng thể[5]. Dạy học
tích hợp được hình thành trên cơ sở của những quan niệm tích cực về q trình
học tập và q trình dạy học, thực hiện quan điểm tích hợp trong giáo dục sẽ góp
phần phát triển tư duy tổng hợp, năng lực giải quyết vấn đề và làm cho việc học
tập trở nên ý nghĩa hơn đối với học sinh so với việc học và thực hiện các mặt
giáo dục một cách riêng rẽ[6]. Các sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội vốn không
tồn rại một cách rời rạc, đơn lẻ, chúng là những thể tổng hợp, hoàn chỉnh và có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau[7]
Trong những năm gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các cuộc thi:
Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn dành cho học
sinh và cuộc thi Dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học. Mục
đích:

- Khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức tổng hợp của các môn học khác
nhau để giải quyết các tình huống thực tiễn; tăng cường khả năng vận dụng tổng
hợp, khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh;
- Thúc đẩy việc gắn kiến thức lý thuyết và thực hành trong nhà trường với


thực tiễn đời sống; đẩy mạnh thực hiện dạy học theo phương châm "học đi đơi
với hành";
- Góp phần đổi mới hình thức, phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập; thúc đẩy sự tham gia của gia đình, cộng đồng vào cơng
tác giáo dục
- Khuyến khích giáo viên sáng tạo, thực hiện dạy học theo chủ đề, chủ điểm
có nội dung liên quan đến nhiều môn học và gắn liền với thực tiễn;
6


- Góp phần đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy học,
đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập; tăng cường ứng dụng
hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học.
Thực trạng việc dạy bộ mơn nói chung, mơn Lịch sử lớp 6 nói riêng mặc dù
quan niệm dạy học tích hợp đã được vận dụng vào giảng dạy, song hiệu quả đạt
được là chưa cao. Do đó phần lớn học sinh hiện nay có thái độ bình thường, chưa
phát huy được tính tích cực trong học tập. Giáo viên trong các nhà trường chưa
thực sự hiểu hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy học liên môn, đặc biệt là
việc dạy học liên môn trong môn Lịch sử. Quá trình vân dụng tích hợp liên mơn
vào trong bài dạy cịn gặp nhiều lúng túng nên trong q trình giảng dạy thường
chỉ tập trung vào kiến thức đặc thù của bộ môn mà thiếu sự quan tâm, liên hệ với
các bộ mơn khác. Về phía học sinh xuất hiện tâm lí coi nhẹ, chủ quan trong bộ
mơn. Các em thường cho rằng kiến thức của bộ mơn nhẹ, khơng có tác dụng
nhiều trong việc học tập nên thiếu quan tâm, thậm chí bỏ rơi bộ mơn khi thấy

mình đã có đủ cơ số điểm cần thiết. Vì vậy nên khi được hỏi, khai thác sâu vào
vấn đề các em thường tỏ ra lúng túng hoặc không thể trả lời câu hỏi.Mỗi một bài
dạy và học Lịch sử có vai trị quan trọng đối với cả thầy và trò. Để nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học, tôi lựa chọn đề tài“Vận dụng kiến thức liên môn của
các môn học khác vào bài dạy những chuyển biến trong đời sống kinh tế Lịch sử 6”
2.2: Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.2.1:Thực trạng của dạy học lịch sử hiện nay
Hiện nay việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thơng hiện cịn
những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện
nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách
rời tạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa
các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn…
Cụ thể của thực trạng dạy học Lịch sử hiện nay thông qua sơ đồ sau:


7


THỰC TRẠNG DẠY HỌC LỊCH SỬ HIỆN NAY

1.CHƯƠNG TRÌNH, SGK

2.GIÁO VIÊN

- Chương trình : Thiết kế nặng,
khơng liên thơng giữa các môn
học, cấp học, dẫn đến sự trùng lắp
một số kiến thức giữa các cấp
học.


- Coi nặng việc truyền
thụ kiến thức có trong
SGK (lối dạy nhồi nhét
kiến thức để thi cử).

- SGK :
+ Biên soạn theo hướng nặng về
cung cấp kiến thức để thi cử, ít
chú trọng vấn đề bồi dưỡng năng
lực cho học sinh.
+ Thể hiện dưới hình thức một
môn khoa học, nên một số kiến
thức hàn lâm không thực sự cần
thiết cho thực tế vẫn được đưa
vào.
+ Nội dung nhiều bài rất khô
khan về kiến thức, thiên về nhiều
sự kiện lịch sử, chiến tranh cách
mạng, ít đề cập về lịch sử văn
hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với
văn học, khoa học…

- Ít vận dụng kiến thức
liên mơn, chủ đề tích
hợp giáo dục (xem nhẹ
việc dạy để giúp HS
phát triển những năng
lực cần thiết nhằm giải
quyết những vấn đề
trong thực tiển).

-> Hệ quả: dẫn đến
tiết dạy khô khan, kém
hấp dẫn, nặng về cung
cấp kiến thức, liệt kê
sự kiện. Điều này dễ sa
vào lối dạy đọc chép.

3. HỌC SINH
- Ghi nhớ bài
học một cách rời
rạc, máy móc.
- Khơng nắm
được mối qu an
hệ giữa các tri
thức thuộc lĩnh
vực đời sống xã
hội, về kiến thức
liên mơn.
-> Hệ quả:
nhàm
chán,
khơng u thích
bộ mơn Lịch Sử.

2.2.2: Thực trạng của dạy học liên môn hiện nay
*Thuận lợi:
- Đối với giáo viên:
+Trong q trình dạy học mơn học của mình, giáo viên vẫn thường
xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các mơn học khác và vì vậy đã
có sự am hiểu về những kiến thức liên mơn đó hay nói cách khác đội ngũ giáo

viên chúng ta đã dạy tích hợp liên mơn từ lâu rồi nhưng chúng ta chưa đi sâu và


chưa có khái niệm tên gọi cụ thể mà thơi .
+ Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trị của giáo viên
khơng cịn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định
hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngồi lớp học; vì vậy, giáo viên
các bộ mơn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ
nhau trong dạy học.
+ Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều
kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực: như phương pháp
bàn tay nặn bột hoặc kĩ thuật khăn trải bàn, dạy học theo dự án ……..
8


+ Môi trường " Trường học kết nối rất thuận lợi để giáo viên đổi mới
trong dạy tích hợp, liên môn.
+ Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một
phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
+ Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà
trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp, liên mơn.
- Đối với học sinh:
Học sinh có hứng thú tìm hiểu kiến thức các bộ mơn nhất là các bộ môn
tự nhiên ngày càng nhiều hơn, sách giáo khoa được trình bày theo hướng “ mở
”nên cũng tạo điều kiên, cơ hội cũng như môi trường thuận lợi cho học sinh phát
huy tư duy sáng tạo.
* Khó khăn
- Đối với giáo viên
+ Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học
khác.

+ Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn mơn nên khi dạy
theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà sốt
nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ những thông
tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù hợp. Nội
dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp
lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển
năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay
đổi.
+ Điều kiện cơ sở vật chất (thiết bị thông tin ,truyền thông) phục vụ cho
việc dạy học trong nhà trường cịn nhiều hạn chế nhất là các trường ở nơng thơn.
- Đối với học sinh:
+ Dạy tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn
đầu này, đặc biệt là thế hệ HS hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới
học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
+ Do xu thế chọn ngành nghề theo thực tế xã hội nước ta hiện nay và


việc quy định các mơn thi trong các kì thi tuyển sinh nên đa số các học sinh và
phụ huynh kém mặn mà (coi nhẹ) với các môn không thi, ít thi (môn phụ).
2.2.3:Thực trạng của bài dạy nước “Những chuyển biến trong đời sống kinh
tế” hiện nay
*Thuận lợi
- Đối với học sinh: trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên
sinh động, hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học
sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến
thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức
một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp
cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở
9



các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa khơng có được sự hiểu
biết tổng qt cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
- Đối với giáo viên: thì ban đầu có thể có chút khó khăn do việc phải tìm hiểu
sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là
bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng bởi hai lý do:
+ Một là, trong q trình dạy học mơn học của mình, giáo viên vẫn thường
xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các mơn học khác và vì vậy đã
có sự am hiểu về những kiến thức liên mơn đó;
+ Hai là, với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trị của 2 giáo viên
khơng cịn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định
hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngồi lớp học; vì vậy, giáo viên
các bộ mơn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ
nhau trong dạy học. Như vậy, dạy học theo các chủ đề liên môn không những
giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên mơn trong mơn học của
mình mà cịn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho
giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ
giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên mơn, tích hợp. Thế hệ giáo viên
tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên mơn ngay trong q trình đào
tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
*Khó khăn
- Đối với giáo viên: Thực trạng việc dạy bộ mơn Lịch sử nói chung, bài “những
chuyển biến trong đời sống kinh tế” nói riêng mặc dù quan niệm dạy học tích hợp
đã được vận dụng vào giảng dạy , song hiệu quả đạt được là chưa cao. Giáo viên
trong các nhà trường chưa thực sự hiểu hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy
học liên môn, đặc biệt là việc dạy học liên môn trong bài “những chuyển biến
trong đời sống kinh tế”. Quá trình vân dụng tích hợp liên mơn vào trong bài dạy
cịn gặp nhiều lúng túng nên trong quá trình giảng dạy thường chỉ tập trung vào
kiến thức đặc thù của bộ môn mà thiếu sự quan tâm, liên hệ với các bộ mơn khác.
-Về phía học sinh: xuất hiện tâm lí coi nhẹ, chủ quan trong bộ môn. Các em

thường cho rằng kiến thức của bộ mơn nhẹ, khơng có tác dụng nhiều trong việc
học tập nên thiếu quan tâm, thậm chí bỏ rơi bộ mơn khi thấy mình đã có đủ cơ số
điểm cần thiết. Nếu hơn các em cũng chỉ nắm được các kiến thức cơ bản
10


trong sách giáo khoa về công cụ sản xuất được cải tiến, thuật luyện kim ra ®êi ;
Nghề trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện nào? Vì vậy nên khi được
hỏi, khai thác sâu vào vấn đề các em thường tỏ ra lúng túng hoặc không thể trả
lời câu hỏi. Nhưng nếu liên kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như
Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục cơng dân, Rèn luyện kĩ năng sống, Giáo dục các em
tinh thần cảnh giác với kẻ thù trong bất cứ hồn cảnh nào, giáo dục lịng biết ơn,
tự hào, lòng yêu quê hương đất nước… để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận
dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các
vấn đề liên quan đến lịch sử…Vận dụng nguyên tắc liên môn trên vào bài dạy
này đã kích thích hứng thú học tập trong học sinh giúp các em lĩnh hội bài tốt
nhằm nâng cao hiệu quả của bài học. Việc vận dụng phương pháp trên kết hợp
với các hình thức dạy học tích cực khác sẽ là lời giải đáp cho bài toán học sinh
quay lưng lại với lịch sử, truyền cho các em lòng yêu nước, tự hào với truyền
thống dân tộc, từ đó có ý thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chính vì thực trạng của dạy học Lịch sử hiện nay, bài “những chuyển biến
trong đời sống kinh tế” như vậy nên việc áp dụng dạy học liên môn vào một bài
dạy cụ thể là vô cùng quan trọng, nó góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy và
học, giúp các em thêm yêu bộ môn Lịch sử và bài “những chuyển biến trong đời
sống kinh tế” hơn.
2.3: Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.2: Các nguyên tắc tích hợp
- Đảm bảo tính mục tiêu: Việc lựa chọn và liên kết các kiến thức, kĩ năng phải
nhằm tới mục tiêu giáo dục của lớp học, bài học mà mục tiêu trên hết đó là tạo
nên con người có khả năng hành động trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng vững

chắc
- Đảm bảo tính khoa học: Các kiến thức phải khách quan, phản ánh đúng bản
chất của sự vật, hiện tượng
- Có những nét tương đồng về nội dung, phương pháp của những môn học được
được tích hợp để các kiến thức và kĩ năng hỗ trợ cho nhau, giúp người học có
thuận lợi trong học tập và vận dụng vào cuộc sống
- Đảm bảo tính khả thi: Người học có thể tiếp thu và vận dụng được kiến thức, kĩ
năng liên môn, người dạy có các điều kiện tổ chức, hướng dẫn việc học tập
- Tránh gị ép, ơm đồm, dàn trải: Phải chấp nhận việc coi các kiến thức của các
môn học có liên quan chỉ đóng vai trị cơng cụ cho nội dung chính. Nội dung và


các hoạt động phải được cấu trúc sao cho đáp ứng mục tiêu phát triển các năng
lực của người học.
2.3.2: Tìm hiểu chương trình, SGK các mơn học khác -> Chọn các nội dung
có liên quan đến bộ mơn Lịch Sử và bài học này
11


Như đã trình bày ở phần II, trong chương trình, SGK các mơn học khác có
rất nhiều nội dung kiến thức có thể tích hợp trong mơn Lịch Sử - nhất là mơn
Văn, Địa Lí, GDCD, Âm Nhạc,Mĩ Thuật . . . Do vậy việc tìm hiểu chương trình,
SGK các mơn học khác để chọn các nội dung có liên quan đến bộ môn Lịch Sử là
việc làm cần thiết không những phục vụ cho việc giảng dạy Lịch Sử của GV mà
còn giúp HS liên tưởng, củng cố các kiến thức của các môn học khác.
Học sinh biết sử dụng kiến thức của các môn học như Địa lý ( để giới thiệu
một số địa điểm trên lược đồ và đặc điểm của địa hình nước ta), Vật lí (để biết
được quá trình nấu chảy quặng để lọc ra kim loại…), Ngữ văn (để thấy được vai
trò của lúa gạo đối với cuộc sống của con người, qua các câu chuyện, ca dao, tục
ngữ….), Âm nhạc (khắc sâu hình ảnh hạt gạo và sự lao động cần cù, vất vả của

người lao động)... vào nội dung bài học.
2.3.3: Các biện pháp thực hiện khi tích hợp kiến thức liên mơn trong bài học
Khi tiến hành tích hợp kiến thức liên môn vào bài học giáo viên cần thực hiện các
bước sau:
a. Khái quát bố cục của bài học
Bài học được chia làm 3 phần Phần
1: Tìm hiểu thơng tin sự kiện
Phần 2: Nội dung bài học: Chia làm 4 nội dung nhỏ:
- Nội dung thứ nhất: Công cụ sản xuất được cải tiến
- Nội dung thứ hai: Thuật luyện kim ra ®êi
- Nội dung thứ ba: Nghề trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện nào?
- Nội dung thứ tư: Vẽ sơ đồ tư duy
Phần 3: Bài tập
b. Xác định các mơn có nội dung kiến thức tích hợp trong từng phần của
bài học nước Âu Lạc
* Tích hợp mơn Địa lí
Trước khi vào bài mới, giáo viên giới thiệu về thực trạng cảnh quan nước
ta: Thời xa xưa, nước ta là một vùng rừng núi rậm rạp với nhiều hang động,
nhiều sơng suối, có vùng ven biển dài: khí hậu hai mùa nóng – lạnh rõ rệt, thuận


lợi cho cuộc sống của cỏ cây, muông thú và con người. Trong quá trình sinh sống
con người từng bước di cư, mở rộng vùng cư trú...và đây là thời điểm hình thành
những chuyển biến lớn về kinh tế.
12


Cùng với liên mơn Địa lí, giáo viên giới thiệu những địa điểm phát hiện
những công cụ được cải tiến vào thời kì này như: Phùng Nguyên (Phú Thọ),
Lung Leng (Kon Tum), hay những nơi phát hiện kim loại đầu tiên đó là: Hoa Lộc

(Thanh Hóa), Phùng Nguyên (Phú Thọ). Đồng thời giáo viên cũng chỉ rõ cho học
sinh thấy được ở Đồng bằng, ven các con sông lớn - nơi có điều kiện đất đai màu
mỡ, đủ nước tưới...thuận lợi cho nghề nông trồng lúa phát triển. Và GV cũng cho
HS thấy được để mở rộng vùng cư trú thì con người cần phải làm gì? Đó chính là
sự cải tiến về công cụ lao động.
Công cụ lúc đầu của người ngun thủy là những cơng cụ đá cịn thơ sơ, chưa có
hình thù rõ ràng, nhưng nhờ q trình lao động con người ngày càng cải tiến hơn
nữa trong kĩ thuật chế tác công cụ: Tiến tới việc mài nhẵn, sắc ở phần lưỡi và có
hình dáng cân xứng...
GV cho HS quan sát một số cơng cụ: Rìu đá Phùng Nguyên, Hoa Lộc và Lung
Leng và so sánh với các cơng cụ trước đó để thấy được sự tiến bộ trong việc chế
tác công cụ của con người thời đó. Và ở thời kì này đồ gốm cũng được phát triển
thể hiện ở cách trang trí hoa văn với hình dáng cân xứng. Ở nội dung này giáo
viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm và đưa ra nhận xét.
Học sinh cũng chỉ ra được: Những công cụ được mài nhẵn, có hình dáng
cân xứng, những mảnh gốm có in hoa văn độc đáo.
-> Kỹ thuật chế tác cơng cụ lao động: đạt trình độ cao (mài nhẵn, hình dáng cân
đối, sắc bén, dễ làm)
- Kĩ thuật làm gốm: đồ gốm ngày càng tiến bộ, hoa văn độc đáo.
Từ đó, GV cho HS biết được từ kĩ thuật làm gốm con người đã phát minh ra
thuật luyện kim.
* Tích hợp mơn Vật lí để giải thích
Để học sinh hiểu rõ điều này, giáo viên giới thiệu cho học sinh một quy
trình làm đồ gốm. Từ việc tìm ra đất sét, nặn thành các hình và đồ dùng cần thiết
13


sau đó xếp vào lị nung ở nhiệt độ cao để cho ra những sản phẩm theo ý muốn
của con người.
GVGT: Trong tự nhiên kim loại tồn tại dưới hình thức quặng, nghĩa là khơng có

kim loại ngun chất, phải nấu chảy quặng mới lọc ra được kim loại, mà muốn
nấu chảy quặng phải có độ nóng cao và điều này đã làm được khi người ta đốt lò
nung đồ gốm. Sau đó, muốn làm được những cơng cụ, đồ dùng theo ý mình
người ta khơng thể ghè đẽo kim loại như ghè đẽo đá mà phải làm khuôn đúc bằng
đất sét, sau đó nấu chảy kim loại rồi rót vào khuôn để tạo ra các kim lọai hay đồ
dùng cần thiết. (Nghề làm gốm đã giúp con người làm được các khn đúc đó.)
Vì vậy, có thể nói, nghề làm gốm phát triển đã tạo điều kiện phát minh ra thuật
luyện kim.
GV cho HS thấy được ý nghĩa của việc phát minh ra thuật luyện kim: Thuật
luyện kim đã mở ra một thời đại mới trong lĩnh vực chế tạo cơng cụ của lồi
người (cơng cụ bằng kim loại thay thế dần công cụ bằng đá). Làm thay đổi sức
sản xuất. Đây là một phát minh to lớn không chỉ đối với người thời đó mà đối
với cả thời đại sau và xã hội ngày càng phát triển, máy móc cũng được phát
triển cùng với sự phát triển của KHKT.
Sau đó GV giới thiệu một phát minh tiếp theo của con người, đó là nghề nơng
trồng lúa nước. Và cũng cho HS biết được đặc điểm môi trường và quá trình phát
triển của cây lúa nước: được trồng chủ yếu ở vùng Đồng bằng, ven sơng, ven
biển,....nơi có đất phù sa màu mỡ, đủ nước tưới cho cây trồng.
HS cũng thấy được ý nghĩa to lớn của cây lúa: Lúa là cây lương thực chính của
con người. Từ đây con người có thể định cư lâu dài ở những vùng ven sông, ven
biển.
Ngày nay nhân dân ta phát huy truyền thống cần cù lao động, hăng hái tăng ra
sản xuất, lúa không những đủ ăn mà con dư thừa để xuất khẩu. Nước ta xuất khẩu
gạo đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
14


GVGT một số vựa lúa lớn của nước ta: Đồng bằng Sơng Hồng, Đồng bằng Sơng
Cửu Long, Thái Bình, Hưng n....
* Tích hợp mơn Ngữ văn

GVGT: Để nói tới tầm quan trọng của nghề nơng trồng lúa và vai trị của
hạt gạo, truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy có đoạn viết:
“Trong trời đất, khơng gì q bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới ni sống con người
và ăn khơng bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người khơng
làm ra được. Cịn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo
làm bánh mà lễ Tiên Vương”.
(Trích truyền thuyết Bánh Chưng – Bánh Giầy)
Từ xưa, người Việt ta đã làm ra hạt gạo và biết q trọng hạt gạo, bời vì hạt gạo
đã ni sống con người. Qua đó, thấy được thái độ đề cao lao động, đề cao nghề
nông và đồng thời cũng thể hiện sự tơn kính tổ tiên.
* Tích hợp với môn Âm nhạc
Âm nhạc là một nguồn suối dồi dào làm giàu thêm đời sống tinh thần cho
con người. Chính vì vậy khi kết hợp dạy bài: Những chuyển biến trong đời sống
kinh tế với Âm nhạc, vừa giúp tiết học đỡ căng thẳng hơn, vừa khiến học sinh
khắc ghi hình ảnh hạt gạo.
GV đặt câu hỏi: Em nào thuộc bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần Đăng
Khoa
Nhiều em HS sẽ thuộc bài thơ này và một HS đọc cho cả lớp nghe.
GVGT: Nhân dân ta vẫn phát huy truyền thống cần cù lao động, các bác
nông dân khơng quản khó nhọc, một nắng hai sương để làm nên những hạt lúa
vàng.
Bài thơ: “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa đã nói lên điều đó.
Giáo viên trích một đoạn trong bài thơ:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa


15



×