Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.92 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm, bản chất của vốn trong doanh nghiệp
Trong phạm vi của doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải có một lượng nhất định các yếu tố sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên
vật liệu, công cụ dụng cụ, sức lao động,…. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận
hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do đó để có được các yếu tố nói trên đòi hỏi
doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn sản xuất
kinh doanh [38]. Vậy có thể hiểu, vốn là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu
về tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Gọi là số tiền ứng trước vì nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ
thu hồi lại được số vốn bỏ ra ban đầu và làm sinh lời vốn. Tài sản được hiểu là
nguồn lực do DN kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Tài
sản trong DN được biểu hiện dưới hình thái hữu hình như nhà xưởng, máy móc,
thiết bị, vật tư, hàng hoá,… hoặc thể hiện dưới hình thái vô hình như quyền sử dụng
đất, bản quyền, bằng sáng chế… Tài sản trong doanh nghiệp cũng có thể phân thành
tài sản hiện vật (vật chất) như máy móc thiết bị, nhà xưởng … và các tài sản tài
chính như chứng khoán và các giấy tờ có giá khác.
Vốn là một yếu tố cơ bản, là tiền đề không thể thiếu được của mọi quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời sử dụng vốn có hiệu quả là yếu tố quan
trọng nhất quyết định đến sự tăng trưởng của các DN và của nền kinh tế ở các
nước đang phát triển như ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn được ví như “máu” trong một cơ thể sống.
Theo Mác: vốn là giá trị đem lại lợi nhuận [14]. Biểu hiện cụ thể của vốn trong các
DN là tài sản mà DN sở hữu hoặc kiểm soát.
Ở nước ta hiện nay, khái niệm về vốn cũng được hiểu khác nhau. Một số cho
rằng vốn là số tiền đầu tư ứng trước vào tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của
DN. Cụ thể hơn vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản dài hạn và tài sản
ngắn hạn của DN. Một số khác có quan điểm cho rằng vốn gồm hai bộ phận là vốn
chủ sở hữu và nợ phải trả. Quan điểm này có sự đồng nhất giữa vốn và nguồn vốn.


Họ cho rằng vốn và nguồn vốn chỉ là những cách gọi khác nhau để chỉ ra nguồn
vốn của tài sản trong DN. Theo tác giả, vốn và nguồn vốn là hai mặt của cùng một
lượng tài sản do DN quản lý, sử dụng; trong đó vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị
của các tài sản của DN, còn nguồn vốn chỉ ra nguồn gốc hình thành các tài sản này.
Khi nói đến vốn tức là muốn nói đến giá trị những tài sản mà DN đang nắm giữ, sử
dụng để phục vụ SXKD. Như vậy, trong phạm vi của luận văn nói đến hiệu quả sử
dụng vốn có thể hiểu đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng tài sản của DN.
Vốn trong doanh nghiệp có các đặc trưng sau:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn
phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như nhà
xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị trí địa lý kinh doanh,
nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế,…
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao
hơn một đồng vốn trong tương lai, bởi vì có thể đầu tư tiền của ngày hôm nay để
thu được những khoản thu nhập trong tương lai. Tỷ lệ lãi suất là sự đo lường thời
giá của tiền tệ, nó phản ảnh chi phí cơ hội mà người sử dụng vốn phải bỏ ra để thu
lợi nhuận. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chính xác hiệu quả
của đầu tư.
- Vốn luôn vận động vì mục tiêu sinh lời. Nếu coi hình thái khởi đầu của vốn
là tiền thì sau một quá trình vận động vốn có thể biến đổi qua các hình thái vật chất
khác nhau, nhưng kết thúc chu kỳ vận động vốn lại trở lại trạng thái ban đầu là
tiền. Theo quy luật, để DN tồn tại và phát triển thì lượng tiền này phải lớn hơn
lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu, có nghĩa là DN phải có lợi nhuận.
- Vốn luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có vốn vô chủ, vì
nó sẽ dẫn đến chi tiêu lãng phí và kém hiệu quả.
- Vốn được xem là một hàng hóa đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường,
hàng hoá vốn được bán sẽ không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng,
người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho
người sở hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Như vậy, lãi suất là giá phải trả cho
việc được quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định. Việc mua bán diễn ra

trên thị trường tài chính, giá mua bán vốn cũng tuân theo quan hệ cung - cầu trên
thị trường.
Các đặc trưng của vốn cho thấy, vốn là nguồn lực có hạn cần phải sử dụng
tiết kiệm và có hiệu quả. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc
hoạch định chính sách quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn DN.
1.1.2. Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn thường xuyên chuyển hoá từ
hình thái tiền tệ ban đầu sang các hình thái hiện vật, như: tư liệu sản xuất, sức
lao động... hàng hoá và cuối cùng lại chuyển hoá về hình thái ban đầu. Nếu coi
xuất phát điểm ban đầu của vốn là tiền tệ người ta có thể khái quát quá trình
hoạt động của vốn trong DN bằng công thức [14]:
T - H ...... H' - T'
Quá trình luân chuyển của vốn biểu hiện như một quá trình vận động của
giá trị, phản ánh về mặt giá trị của quá trình sản xuất kinh doanh. Ứng với ba
giai đoạn luân chuyển vốn trong công thức này là ba giai đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh bao gồm:
Giai đoạn I ( T - H): DN mua các yếu tố đầu vào cho quá trình SXKD
như tư liệu sản xuất, thuê mướn, đào tạo nhân công,... Trong giai đoạn này vốn
ứng ra ban đầu dưới hình thái tiền tệ (T) được chuyển sang hình thái hiện vật là
tư liệu sản xuất và sức lao động (H) khi DN mua tư liệu sản xuất và thuê lao
động.
Giai đoạn II (H...H'): đây là giai đoạn DN sử dụng các yếu tố đầu vào kết
hợp với công nghệ và kỹ năng của công nhân để sản xuất sản phẩm phục vụ cho
tiêu thụ ở giai đoạn sau. Trong giai đoạn này, vốn từ hình thái tư liệu sản xuất
(H) chuyển sang hình thái thành phẩm (H') thông qua quá trình sản xuất.
Giai đoạn III (H' - T'): DN tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra thu được tiền,
vốn kết thúc quá trình vận động trở về trạng thái ban đầu là tiền. Để DN có thể
phát triển và tiếp tục SXKD tức là vốn tiếp tục vận động ở các chu kì sau, thì
lượng tiền thu được ở giai đoạn này phải lớn hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban
đầu ở giai đoạn mua hàng, có nghĩa là DN kinh doanh có lãi.

1.1.3. Phân loại vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại vốn, sau đây chỉ xem xét một số cách phân loại
vốn chủ yếu, có liên quan nhiều đến nội dung phân tích hiệu quả sử dụng vốn
của DN.
1.1.3.1. Phân loại vốn theo quan hệ sở hữu
Theo quan hệ sở hữu, vốn của DN được phân thành vốn chủ sở hữu và nợ.
- Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của DN, bao gồm các
bộ phận chủ yếu: vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; vốn tăng thêm bằng
phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo hình thức sở hữu của DN mà tính chất và
hình thức tạo vốn của từng DN là khác nhau. Đối với DN Nhà nước, vốn góp
ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Vốn góp ban đầu của công ty cổ
phần là vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn là
do các thành viên của công ty đóng góp. Đối với DN tư nhân là chủ DN bỏ
vốn... Vốn chủ sở hữu được xác định như sau:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản DN - Nợ phải trả
- Nợ: là số vốn mà DN đi vay, chiếm dụng của tổ chức, cá nhân khác và
do vậy DN phải có trách nhiệm thanh toán. DN có thể vay ngân hàng, sử dụng
tín dụng thương mại... Theo thời gian thanh toán, nợ được chia thành nợ ngắn
hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn. Thông thường, nợ ngắn hạn là khoản nợ mà
DN có trách nhiệm thanh toán trong thời hạn 1 năm, nợ trung hạn từ 1 đến 3
năm và nợ dài hạn từ 3 năm trở lên.
Cách phân loại vốn theo quan hệ sở hữu vốn có ý nghĩa quan trọng đối với
DN trong việc thiết lập cơ cấu vốn hợp lý, vì DN sử dụng vốn chủ sở hữu hay nợ
để tài trợ cho hoạt động của mình đều phải chịu chi phí sử dụng vốn. Chi phí sử
dụng vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn có thể xem
như tỷ xuất sinh lợi mà DN phải tạo ra từ những dự án đầu tư để đảm bảo duy trì
giá cổ phiếu trên thị trường hoặc có thể hiểu như mức tỷ suất sinh lời tối thiểu mà
các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu nhằm đảm bảo sự cung ứng vốn
của họ đối với DN. Mỗi DN có một cơ cấu vốn tối ưu cho phép DN tối thiểu hoá
chi phí sử dụng vốn và tối đa hoá giá trị của DN.

1.1.3.2. Phân loại vốn theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, vốn của DN được chia thành vốn cố định, vốn
lưu động và vốn đầu tư tài chính.
- Vốn cố định là lượng tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố
định và các khoản đầu tư dài hạn dùng vào hoạt động kinh doanh của DN. Tài
sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương
tiện vận tải, các công trình kiến trúc... đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau: về
thời gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; về giá trị: ở nước ta hiện nay
tài sản cố định phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
- Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài
sản ngắn hạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản ngắn hạn là
những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh như: nguyên
vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, các khoản phải thu...
- Vốn đầu tư tài chính của DN là một bộ phận vốn kinh doanh của DN
được đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời.
Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: DN bỏ vốn mua cổ
phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hoặc góp vốn liên doanh với các DN
khác,... Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và
đảm bảo an toàn về vốn nhờ đa dạng hoá đầu tư.
Phân loại vốn theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc
lựa chọn loại nguồn vốn thích hợp với từng loại tài sản cần tài trợ, trong việc đề
ra các biện pháp quản lý vốn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và
bảo toàn số vốn đã bỏ ra.
1.1.3.3. Phân loại vốn theo nguồn huy động
Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn, vốn của DN có thể chia
thành nguồn vốn bên trong DN và nguồn vốn bên ngoài DN.
- Nguồn vốn bên trong DN là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt
động của bản thân DN. Đó là tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận chưa phân
phối, các khoản dự phòng... Nguồn vốn bên trong DN có ý nghĩa hết sức quan

trọng giúp cho DN tự chủ trong việc sử dụng vốn này, đồng thời tiết kiệm chi
phí sử dụng vốn.
- Nguồn vốn bên ngoài DN là nguồn vốn có thể huy động được từ bên
ngoài DN để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là vốn
vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ phải trả.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn bên ngoài rất đa dạng và các hình
thức huy động cũng rất phong phú. Mỗi hình thức huy động vốn từ bên ngoài đều
có một số thuận lợi và khó khăn nhất định, tạo cho DN có một cơ cấu vốn linh
hoạt, kịp thời đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông thường DN có mức doanh lợi cao thì sử dụng nguồn vốn bên ngoài sẽ đem
lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ bên ngoài thì thường phải có tài
sản thế chấp và DN phải trả lãi tiền vay. Nếu DN sử dụng vốn kém hiệu quả thì lãi
tiền vay sẽ trở thành gánh nặng mà DN phải chịu.
Với cách phân loại này, cho phép DN lựa chọn các phương án huy động
vốn sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình trong phạm vi khuôn
khổ pháp luật cho phép.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Vốn có vai trò rất quan trọng đối với DN, là yếu tố không thể thiếu của
mọi quá trình kinh doanh. Vai trò quan trọng của vốn đã được Các Mác khẳng
định: Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu, vì tư bản tạo ra giá trị thặng dư.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DN
phải có vốn. Vốn là điều kiện để thực hiện các hoạt động tạo nguồn vì thế các
chiến lược hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ trở thành hiện thực nếu được
đảm bảo bằng vốn.
Như vậy, có thể nói vốn có vai trò quyết định quy mô của DN, quyết định
năng lực sản xuất của DN. Vốn càng lớn thì quy mô DN càng lớn, nâng cao khả
năng tài chính của DN, tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ
của người lao động, nâng cao năng lực sản xuất của DN.
Vốn có vai trò nâng cao vị thế, uy tín của DN, tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình hợp tác phát triển của DN. Quy mô của DN càng lớn sẽ tạo điều

kiện để thực hiện mở rộng thị trường trong và ngoài mước, tạo lợi thế trong
cạnh tranh, là điều kiện tồn tại và phát triển của DN.
Vốn còn tạo điều kiện cho DN tham gia tốt các chính sách xã hội, các
đóng góp với chính phủ, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, công
tác quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong
hoạt động quản lý của DN.
1.1.5. Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp
Quá trình huy động, tạo vốn trong DN đòi hỏi xác định được nhu cầu vốn
cần huy động trong từng thời kỳ nhất định, từ đó phân tích lựa chọn các hình
thức huy động vốn phù hợp.
1.1.5.1 Xác định cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là sự kết hợp của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu được sử dụng
để tài trợ cho tài sản của DN. Các nhân tố chính cần phải xem xét khi xác định
cơ cấu vốn là:
-Rủi ro kinh doanh: rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của
DN trong trường hợp DN không sử dụng nợ.
Rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: chi phí cố định
của DN, khả năng thay đổi của cầu, khả năng biến thiên của giá bán, khả năng
biến thiên của giá đầu vào, khả năng điều chỉnh giá đầu ra khi giá đầu vào thay
đổi.
- Thuế thu nhập DN: chi phí sử dụng nợ vay là chi phí sau thuế. Giả sử
gọi K
d
là chi phí nợ vay sau thuế, I là lãi suất nợ vay, T là thuế suất thuế thu
nhập DN, lúc đó K
d
= I(1- T). Nếu thuế suất thuế thu nhập DN càng cao thì càng
hạ thấp chi phí thực tế của nợ (K
d
càng thấp). Khi sử dụng nợ, DN tiết kiệm

được một khoản bằng lãi suất vay nợ nhân với thuế suất thuế thu nhập DN (I *
T). Vì vậy, thuế suất càng cao sẽ khuyến khích DN sử dụng nợ do phần tiết
kiệm nhờ thuế tăng lên.
- Khả năng linh hoạt tài chính: là khả năng điều chỉnh nguồn vốn tăng
hay giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn. DN cần duy
trì được tính linh hoạt tài chính nhằm đảm bảo cho DN vẫn có thể huy động
được vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu, bởi vì quyết định
huy động vốn ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn phương thức
huy động vốn trong tương lai.
- Quan điểm của các nhà quản lý: việc xác định cơ cấu vốn mục tiêu của
DN còn phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý. Thực tế, có một số nhà
quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn; trong khi đó, một số nhà quản lý khác
lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
1.1.5.2 Lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn
Để lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn phù hợp, trước hết cần
phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của DN trong kỳ kế
hoạch. Nghĩa là trong mỗi kỳ kế hoạch phải xác định rõ DN cần bao nhiêu vốn
cho những việc gì. Việc xác định nhu cầu vốn phải dựa trên các cơ sở tính toán
chính xác, có căn cứ khoa học. Đặc biệt, DN phải tập trung nhu cầu vốn do tìm
được cơ hội kinh doanh mới cần đầu tư.
DN cần xác định nhu cầu vốn trong thời kỳ dài hạn và từng thời kỳ ngắn
hạn. Đồng thời phải xác định được nhu cầu từng loại vốn cố định, vốn lưu động
là bao nhiêu. Cụ thể hơn là xác định nhu cầu vốn cho mỗi hình thức, dự án đầu
tư là bao nhiêu.v.v..
Khi đã xác định lượng tiền cần huy động, tiếp đến là lựa chọn các hình
thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh của DN được thực hiện một cách liên tục với chi phí sử
dụng vốn thấp nhất, rủi ro thấp nhất. Việc lựa chọn hình thức huy động vốn
trong các DN nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt
các nhân tố như: trạng thái của nền kinh tế; triển vọng của thị trường vốn; ngành

nghề kinh doanh hay lĩnh vực huy động của DN; quy mô, loại hình của DN;
chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của DN; uy tín của DN và khả năng
thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý.v.v..
Phân tích và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp trong từng kỳ kế
hoạch, cần phải xem xét các vấn đề sau: cơ cấu tài chính mà DN đã chọn; chi
phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn huy động cụ thể; tình hình thị trường tài
chính và các điều kiện để DN có thể huy động được vốn theo từng hình thức
huy động; khả năng đáp ứng của mỗi nguồn vốn huy động cụ thể.
Tuỳ theo từng loại hình DN và đặc điểm cụ thể mà có thể có các hình
thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các hình thức
huy động vốn của DN cần được đa dạng hóa nhằm khai thác tốt nhất các nguồn
vốn trong nền kinh tế. DN có thể lựa chọn các hình thức huy động vốn chủ yếu
sau đây:
1.1.5.2.1. Hình thức tự tài trợ (tự cung ứng vốn)
Hình thức tự tài trợ là hình thức DN tự đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng
nguồn vốn do DN tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm quỹ khấu
hao tài sản cố định và lợi nhuận giữ lại.
Quỹ khấu hao của DN được hình thành trên cơ sở trích khấu hao tài sản cố
định sử dụng trong quá trình kinh doanh, dùng để tái đầu tư thay thế, đổi mới tài
sản cố định. Tuy nhiên, khi chưa có nhu cầu tái tạo lại tài sản cố định, DN có thể
sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của mình.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại là một hình thức tạo vốn quan trọng và
hấp dẫn của DN. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận giữ
lại. Thực chất tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại là hình thức tăng vốn đầu tư các chủ
sở hữu DN. Hình thức này hấp dẫn và được coi trọng vì nó giảm được chi phí
sử dụng vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài và tăng tiềm lực tài chính
cho DN. Tuy nhiên, DN chỉ có thể tự tài trợ bằng lợi nhuận giữ lại khi DN hoạt
động có hiệu quả.
1.1.5.2.2. Phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu để huy động vốn là một hình thức huy động vốn chỉ

có các công ty cổ phần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán sử dụng.
1.1.5.2.3. Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty còn gọi là chứng khoán nợ, là một loại giấy chứng nhận nợ
có kỳ hạn do công ty phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc và lãi của công ty phát
hành đối với người sở hữu trái phiếu. Phát hành trái phiếu là một hình thức huy động
vốn quan trọng đối với DN trong thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, chỉ
có những DN đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định của pháp luật về chứng khoán
và thị trường chứng khoán mới được phép phát hành.
1.1.5.2.4. Vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Vay vốn từ ngân hàng là hình thức huy động vốn rất quan trọng đối với
các DN. Đây cũng chính là hình thức huy động vốn chủ yếu của các DN nước ta
trong thời gian qua. Theo thời hạn vay, vốn vay ngân hàng bao gồm: vay dài
hạn (từ 3 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1
năm).
1.1.5.2.5. Sử dụng tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các DN, được biểu hiện
dưới các hình thức mua bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hoá
được xem là hình thức tín dụng, bởi vì người bán chuyển giao cho người mua
sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được
thoả thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và
cả phần lãi.
1.1.5.2.6. Tín dụng thuê mua (Leasing)
Thoả thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên, liên quan
đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) chuyển giao tài
sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) độc quyền sử dụng và hưởng những
lợi ích kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê có
nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền
hướng dụng đó.
1.1.5.2.7. Huy động vốn bằng liên doanh, liên kết

Theo hình thức này, DN liên doanh, liên kết với một (hoặc một số) DN
khác nhằm tạo vốn cho một (một số) hoạt động hay dự án liên doanh nào đó.
Các bên liên doanh ký kết hợp đồng liên doanh thoả thuận về các vấn đề như
phương thức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, thời hạn hợp đồng. Có
ba hình thức liên doanh chủ yếu: Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức
hoạt động kinh doanh được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh;
Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức liên doanh tài sản được đồng kiểm
soát bởi các bên góp vốn liên doanh; Hợp đồng liên doanh dưới hình thức thành
lập cơ sở kinh doanh mới được đồng kiểm soát bởi các bên góp vốn kinh doanh.
1.1.5.2.8. Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Do môi trường kinh doanh biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên
trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại thiếu
tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải pháp bán
các tài sản cố định dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên cơ sở thường
xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động, ứng
dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng tài sản lưu động lưu kho không
cần thiết. Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh,
nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết
trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
1.1.5.3. Điều hoà vốn
Điều hoà vốn là việc lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn tạm thời, sử dụng
kém hiệu quả sang nơi thiếu vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả cao
trong phạm vi nội bộ DN, nhằm đảm bảo vốn được phân bố hợp lý, mang lại
hiệu quả cao.
Đây là một vấn đề quan trọng trong quản lý vốn nói chung, đặc biệt ở
những DN lớn có nhiều đơn vị kinh doanh. Bởi vì trong một DN vẫn có thể xảy
ra hiện tượng ở đơn vị, bộ phận này thừa vốn tạm thời; trong khi ở đơn vị, bộ

×