Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại việt nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.5 KB, 16 trang )

Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp
luật nước ngoài

Lê Thị Hiền

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Vũ Đư
́
c Long
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Phân tích quy định hiện hành
của pháp luật pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có so sánh với pháp luật của một số nước
trên thế giới, để từ đó tìm ra điểm tương đồng và điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam
so với các nước trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ việc
nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới và trong khu vực về nuôi con nuôi, rút
ra bài học cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Đánh giá thực
trạng pháp luật và thực thi quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập
và phát triển.

Keywords: Luật Quốc tế; Nhận con nuôi; Pháp luật nước ngoài; Pháp luật Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đặc biệt đã xuất hiện từ lâu ở nhiều nước trên thế
giới. Vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối quan tâm của cộng đồng từ sau chiến tranh thế
giới thứ nhất và được khẳng định là một trong những quyền dân sự cơ bản của trẻ em trong
các văn kiện pháp lý quan trọng về quyền con người từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai.
Những thập niên gần đây, nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yêu tố nước ngoài nói
riêng ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn và phức tạp hơn.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng
được mở rộng, thì các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan
hệ nuôi con nuôi ngày càng thu hút được sự chú ý của xã hội. Trong bối cảnh đó, về mặt
pháp luật có thể thấy trước đây các quy định về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài nói riêng được quy định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ Luật
Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, các Nghị định và một số thông tư… nên rất tản mạn,
khó tiếp cận và áp dụng trên thực tế.
Trước tình hình đó, Luật nuôi con nuôi ra đời đã đánh dấu sự kiện quan trọng của quá
trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật và thực tiễn giải quyết các vấn đề về nuôi con
nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng, tạo cơ sở pháp lý thống nhất
và ổn định lâu dài cho công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, đồng thời chấm dứt tình
trạng hai mặt bằng pháp lý gần như tách biệt về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài.
Trước yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là việc Việt Nam đã tham gia Công ước Lahay
1993, yêu cầu pháp luật Việt Nam phải hài hoà với pháp luật nhiều nước trên thế giới và
thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật cũng bộc lộ một số hạn chế và thực tiễn giải quyết
quan hệ nuôi con nuôi còn một số vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam có so sánh với pháp
luật một số nước trên thế giới trở thành vần đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Từ những
yêu cầu khách quan về lý luận và thức tiễn trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước
ngoài” làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật, chuyên ngành Luật quốc tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta đã được nhiều nhà khoa học pháp
lí nghiên cứu dưới các góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau: của Viện Trước và sau khi
công bố Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu về quan hệ nuôi con nuôi như: Chuyên đề về "Chế
định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế" của Viện nghiên cứu khoa học
pháp lí - Bộ Tư pháp năm 1998; bài viết của Nguyễn Công Khanh "Hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" đăng trên tạp chí nghiên cứu
lập pháp.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khoá X thông qua ngày 09/06/2000
có hiệu lực từ ngày 01/01/2001 đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Sau sự kiện này, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
bài viết mang tính chất bình luận Luật hôn nhân và gia đình đã góp phần làm phong phú lí
luận cơ bản về các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi như: Bài viết của
thạc sĩ Ngô Thị Hường "Về chế định nuôi con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình năm
2000" đăng trên Tạp chí luật học số 3/2001; Bài viết của thạc sỹ Nguyễn Phương Lan “Bản
chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học số 3
năm 2004…;
Trong thời gian Việt Nam đang xem xét để gia nhập Công ước Lahay 1993 có nhiều hội
thảo đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi như: Hội thảo của Bộ Tư pháp (10/2003) “Hoàn thiện
pháp luật Việt Nam hướng tới gia nhập Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôii con nuôi ” với nhiều báo cáo tham luận đề cập tới quan hệ nuôi con nuôi; Đề
tài nghiên cứu khoa học tháng 10/2005 của Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp “Hoàn thiện
pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước Lahay
năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”.
Ngoài ra, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế còn được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu khoa học như: đề tài luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài” của tác giả Nguyễn Công Khanh; đề tài luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh
quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc…. Tuy nhiên, các
công trình này mới chỉ đề cập một khía cạnh nhất định của quan hệ nuôi con nuôi mà chưa có

một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có đối chiếu so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đã là thành viên
của Công ước Lahay năm 1993.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
 Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam.
- Phân tích quy định hiện hành của pháp luật pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế Việt
Nam là thành viên điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có so sánh với
pháp luật của một số nước trên thế giới, để từ đó tìm ra điểm tương đồng và điểm khác biệt
của pháp luật Việt Nam so với các nước trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài. Từ việc nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới và trong khu vực
về nuôi con nuôi, luận văn rút ra bài học cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - giai
đoạn hội nhập và phát triển.
 Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài tương đối rộng nên luận văn chỉ tập trung phân tích có đối chiếu so sánh những
quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
(pháp luật trong nước Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) với pháp
luật một số nước trên thế giới về các vấn đề cơ bản của nuôi con nuôi như: nguyên tắc, điều kiện
nuôi, hệ quả pháp lý, thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc nuôi con uôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam. Khi so sánh quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam, luận văn cũng chỉ chủ yếu so sánh với pháp luật của những nước đã là thành
viên của Công ước Lahay năm 1993 để từ đó rút ra bài học, kinh nghiệm cho Việt Nam trong
quá trình hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để giải quyết những mục đích đã được xác định ở trên, tác giả dựa trên cơ sở lí luận và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
trong đó tác giả đặc biệt coi trọng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp
hệ thống, so sánh và phương pháp lịch sử. Trong số các phương pháp cụ thể này, phương pháp
so sánh được sử dụng như là phương pháp chủ đạo để đối chiếu giữa quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành với quy định trước đây; để đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam với pháp
luật một số nước trên thế giới và khu vực để tìm ra những điểm tương đồng và những điểm khác
biệt của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Có thể coi những điểm sau đây là những đóng góp
mới về mặt khoa học của Luận văn:
- Phân tích một cách có hệ thống lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài;
- Phân tích một cách hệ thống và có so sánh những quy định của pháp luật Việt Nam và
các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, phân tích và so sánh quy định của pháp luật Việt
Nam với pháp luật một số nước trên thế giới và khu vực để rút ra bài học cho Việt Nam
trong quá trình hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài;
- Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn là những bổ sung vào lí luận về pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế; những đề xuất, kiến nghị trong luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ vào
việc hoàn thiện và đổi mới pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam.
- Có thể sử dụng Luận văn làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên ngành luật, các

tài liệu nghiên cứu về vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
- Các nội dung đề xuất, giải pháp trong luận văn cũng có thể được áp dụng để giải quyết
phần nào những bức xúc liên quan đã và đang đặt ra trong thực tiễn.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương: Chương I: Khái quát chung về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam; Chương II: Nội dung quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam - so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới;
Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt nam điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay



CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

1.1 Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1 Khái quát về nuôi con nuôi
1.1.1.1 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ xã hội
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội được E.A. Weinstein định nghĩa thì đó là mối quan
hệ xã hội mà cá nhân thuộc gia đình này tiếp nhận sang gia đình mới và được coi như ngang
bằng với những liên hệ ruột thịt và thay thế một phần toàn bộ mối liên hệ đó, dưới góc độ xã hội
đó là mối quan hệ được thiết lập nhằm hình thành quan hệ cha mẹ và con nhằm thỏa mãn nhu
cầu tinh thần hoặc lợi ích tinh thần của các bên.
1.1.1.2 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý
Dưới góc độ pháp lý: cũng chưa có khái niệm hoàn chỉnh (kể cả trong Công ước Lahay 1993).
Bản chất pháp lý nuôi con nuôi khác nhau, theo Thụy Điển, Pháp, Đức… thể hiện ý chí đơn
phương, Trung Quốc, Hàn Quốc … là một hợp đồng song vụ, tại Việt Nam chưa thể hiện thực sự

rõ nét, không thể là một hợp đồng song phải có sự đồng ý
1.1.1.3 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật
Quan hệ nuôi con nuôi có thể được hiểu theo nghĩa là,
- Một quan hệ pháp luật: nuôi con nuôi có các yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung
- Hoặc là, nhóm các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi: là các loại quan hệ pháp
luật khác nhau, như quan hệ pháp luật hành chính trong đăng kí việc nuôi con nuôi; quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình trong việc điều chỉnh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và
con nuôi; quan hệ pháp luật tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi…
1.1.1.4 Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một chế định pháp lý
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định , chứ không phải ý chí đơn phương của các chủ thể
1.1.2 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo Luật nuôi con nuôi 2010: Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi được
thực hiện giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng
thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư
ở nước ngoài.
1.1.3 Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi
Xác lập, điều chỉnh quan hệ gia đình được hình thành từ việc nuôi con nuôi:
- Pháp luật điều chỉnh để định hướng, tạo khung pháp lý cơ bản cho việc nuôi con nuôi.
- Mục đích của việc nuôi con nuôi trong thực tế rất đa dạng.
- Pháp luật nuôi con nuôi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.
- Giải quyết tốt tình trạng trẻ không có đủ điều kiện tốt trong gia đình
- Là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền bảo vệ được trẻ em được nhận nuôi, cũng như giải quyết
các tranh chấp phát sinh có liên quan tới nuôi con nuôi
1.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài ở Việt Nam
1.2.1 Giai đoạn trước thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1.1 Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
- Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long): có quy định
về nuôi con nuôi nhưng vẫng mang hạn chế của phong kiến là bất bình đẳng con nuôi và con đẻ
- Bộ Dân luật Bắc Kì, Hoàng Việt Trung Kì (thời Pháp thuộc) có mô hình phương Tây song

vẫn nặng tư tưởng phong kiến
1.2.1.2 Giai đoạn từ 1945 – 1986
Quy định chưa thực sự rõ nét giai đoạn này có một số đặc điểm:
- Từ 1945 – 1959 : Quy định còn đơn giản, không có hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ, xóa bỏ
được quy định lạc hậu của thời kỳ trước.
- Từ 1959 – 1986: đã điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
 Chính phủ ban hành Nghị định số 04 (6/1/1961) kèm theo Điều lệ về đăng ký hộ tịch: có
một số ít trường hợp người nước ngoài nhận nuôi trẻ Việt Nam đã được giải quyết nhưng gặp
khó khăn trong thực hiện. Ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với: Đức (1980), Liên Xô
(1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984), Hungari (1985), Bungari (1986).
 Việt Nam quan hệ với nhiều nước ngoài Xã hội chủ nghĩa nên quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài cũng dần trở nên phức tạp hơn.
1.2.2 Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.1 Giai đoạn từ 1986 – 2000
- Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ngày 29/12/1986 quy định về quan hệ hôn nhân và gia
đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại chương IX nhưng vẫn chung chung.
- Từ 1986 – 1992: Quốc hội thông qua Luật quốc tịch (1986) – Điều 14 quốc tịch của trẻ; Pháp
lệnh lãnh sự (1990); Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 145/HĐBT (29/4/1992);
Thông tư liên bộ số 01/TTLB hướng dẫn thi hành Quyết định 145/HĐBT (19/1/1993), hạn chế
của Quyết định 145:
 Đối tượng trẻ được nhận nuôi chỉ trong các cơ sở nuôi dưỡng của ngành lao động -
thương binh - xã hội.
 Chưa quy định cụ thể về cơ quan quản lí việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người
nước ngoài.
 Lệ phí chưa rõ ràng và chưa có cơ quan quản lý chặt chẽ …
- Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (2/12/1993) và
Nghị định số 184/CP thi hành pháp lệnh (30/11/1994); Thông tư số 503/T (TLB hướng dẫn chi
tiết thi hành Nghị định số 184/CP (25/5/1995); Thông tư số 337/TT-PLQT hướng dẫn thi hành
một số quy định của Thông tư số 503 (23/8/1995): giải quyết xung đột về thẩm quyền song chưa
thiếu khảo sát khi xây dựng Nghị định, tính dự liệu chưa cao, bị buông lỏng quản lý trong quá

trình thực hiện, chưa quy định hoạt động các tổ chức phi chính phủ, chưa được quy định quan hệ
nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
Giai đoạn này quy định về vấn đề nuôi con nuôi khá đồng bộ, có cơ chế phối hợp, các Hiệp
định tương trợ tư pháp có phạm vi điều chỉnh không giống nhau.
1.2.2.2 Giai đoạn từ năm 2000 đến 2010
- Luật Hôn nhân và gia đình 2000 – Chương XI đã có: phạm vi điều chỉnh rộng, xác định rõ
nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật và thẩm quyền, quy định riêng về vùng biên giới,
thẩm quyền giải quyết về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
- Nghị định 68/2002/NĐ-CP (10/07/2002), thông tư số 07/2002/TT-BTP hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP (16/12/2002): thay đổi căn bản nguyên tắc, trình
tự, thủ tục giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, đối tượng trẻ
cho làm con nuôi … Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
68/2002/NĐ-CP (3/7/2006): mở rộng đối tượng được xin trẻ cũng như đối tượng trẻ được cho
làm con nuôi; hồ sơ người xin nhận con nuôi và hồ sơ trẻ em được cho làm con nuôi; Thông tư
số 08/2006/TT-BTP; Quyết định số 337/2003/QĐ-BTP; Nghị định số 93/2008/NĐ-CP; Quyết
định số 2778/2008/QĐ-BTP;
- Hiệp định song phương với Cộng hoà Pháp (1/2/2000) được xây dựng trên Công ước Lahay
năm 1993: quy định về việc giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi thông qua cơ quan trung ương về
nuôi con nuôi và có sự tham gia của tổ chức con nuôi, tổ chức con nuôi của Pháp đủ điều kiện
được hoạt động nhân đạo phi lợi nhuận
1.2.2.3 Từ năm 2010 đến nay
- Luật Nuôi con nuôi 2010; Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi: nhấn mạnh việc cho trẻ làm con nuôi nước ngoài là
yếu tố cuối cùng.
- Việt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993 (7/12/2010).



CHƢƠNG II: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ
NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - SO SÁNH VỚI PHÁP

LUẬT MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
2.1.1 Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi
trường gia đình gốc: tránh xáo trộn văn hóa, môi trường sống, không bị trục lợi bất chính,
ưu tiên cho người thân có điều kiện tốt nhất nhận nuôi trẻ trước.
2.1.2 Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện của các bên liên quan,
không được có một sự phân biệt đối xử nào dù là về giới tính: Cha mẹ đẻ, người giám hộ
và đặc biệt là trẻ từ chín tuổi trở lên phải hoàn toàn đồng ý.
2.1.3 Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở
trong nước:
2.2 Điều kiện nuôi con nuôi
2.2.1 Điều kiện đối với người nhận nuôi
Tại Điều 14 và Điều 29 của Luật Nuôi con nuôi: hành vi dân sự; chênh lệch tuổi; điều kiện
sinh hoạt, y tế; đạo đức – cơ bản phù hợp với các nước và Công ước Lahay năm 1993 (tuân thủ
theo pháp luật của nước tiếp nhận).
- Luật áp dụng: điều 22 Luật tư pháp – Đức; Khoản 2 Điều 97 Bộ luật gia đình – Bungari quy
định áp dụng luật nước tiếp nhận, Nga quy định khác biệt nếu việc nuôi con nuôi trên lãnh thổ
Nga thì áp dụng luật Nga, ngoài lãnh thổ Nga nhưng là công dân Nga cũng áp dụng luật Nga.
- Độ tuổi người nhận nuôi: hầu hết các nước đều quy định, tuổi tối thiểu khác nhau: Hàn quốc:
người thành niên; Trung Quốc: từ 30 tuổi trở lên; Thuỵ Điển, Elsalvado, Phần Lan: từ 25 tuổi trở
lên; Pháp: 30 tuổi.
Quy định về độ chênh lệch tuổi giữa người nhận nuôi và con nuôi: Pháp: 15 tuổi; Esalvado: 5
tuổi nhằm đảm bảo có đủ khả năng về tài chính, có đủ kinh nghiệm về tâm lí, xã hội thực hiện
chính sách kế hoạch hóa gia đình (Trung Quốc).
Quy định thời gian kết hôn: Pháp, Thuỵ Sĩ, Elsalvađo: 5 năm; Bờ Biển Ngà: 10 năm hướng tới sự
ổn định của gia đình.
Một số quy định khác: Điều 6 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc; Điều 268a BLDS Thuỵ Sĩ;
Điều 3 Luật về nhận con nuôi trong các trường hợp đặc biệt của Hàn Quốc; Thuỵ Sĩ; Gahna.

2.2.2 Điều kiện đối với con nuôi

Tại Điều 8 Luật nuôi con nuôi: độ tuổi được cho làm con nuôi
- So với Công ước Lahay 1993, độ tuổi là: 18 tuổi, Việt Nam thấp hơn: dưới 16 tuổi (Công ước
nhấn mạnh tính xác định chứ không có ý tạo lập độ tuổi, nếu dưới 15 tuổi thì áp dụng luật nước
gốc).
- Điều kiện của trẻ em: do cơ quan có thẩm quyền nước gốc quy định và xác nhận (Điều 5 –
Công ước Lahay và Hiệp định hợp tác giữa Việt Nam với các nước): đủ điều kiện, thích hợp,
được cơ quan có thẩm quyền đồng ý trên cơ sở đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ.
- Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi trọn vẹn: Điều 345 Bộ luật dân sự Cộng Hòa
Pháp: 15 tuổi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Italia: dưới 18 tuổi (được tòa án vị thành niên
tuyên bố là bị từ bỏ); Tây Ban Nha: dưới 14 tuổi (trẻ bị bỏ mặc hoặc suy đoán là bị bỏ mặc)
- Điều kiện nhận làm con nuôi đơn giản: Theo Pháp: không bị quy định ngặt nghèo của pháp
luật trừ trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu: Đức từ 18 tuổi trở lên; Tây Ban Nha từ 14 tuổi trở
lên; Điều 4 Luật Nuôi con nuôi Trung Quốc: dưới 14 tuổi và đáp ứng một số yêu cầu.
2.2.3 Điều kiện về ý chí
Tại Điều 21 Luật nuôi con nuôi 2010: thể hiện ý chí người nhận nuôi con nuôi (thông qua
đơn); cha mẹ đẻ hoặc của người giám hộ (mong muốn, hệ quả pháp lý kèm theo; người được
nhận làm con nuôi (là hành vi pháp lý đơn phương không phụ thuộc vào ý chí của cha mẹ đẻ và
người giám hộ), Nhà nước (lấy ý kiến các bên liên quan đưa ra quyết định đồng ý hoặc không
đồng ý việc cho nhận đó).
Nguyện vọng của người con nuôi: Trung Quốc: 10 tuổi trở lên; Liên Bang Đức, Tây Ban
Nha: 14 tuổi; Cộng hoà Pháp: 13 tuổi …
2.3 Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi.
2.3.1 Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi
Tại Điều 24 Luật nuôi con nuôi: Trẻ được nhận nuôi chỉ có mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha
mẹ nuôi cũng như thành viên khác của cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ
(trừ định đoạt tài sản riêng đói với con đã cho làm con nuôi có thỏa thuận khác giữa cha mẹ đẻ
và nuôi), Điều 22 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc, Điều 1755 BLDS Đức, Điều 229 BLDS
Hà Lan cũng quy định như vậy. Quốc tịch của trẻ pháp luật Việt Nam vẫn cho giữ, như vậy
chưa tương đồng với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên:
- Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi: theo pháp luật nước tiếp nhận, trong trường hợp trẻ đủ điều

kiện nhận quốc tịch cả hai nước thì trẻ được lựa chọn quốc tịch khi đạt độ tuổi pháp luật quy
định.
- Theo Công ước Lahay 1993: Điều 26 về hình thức con nuôi trọn vẹn quy định sẽ chấm dứt
mối quan hệ với cha mẹ đẻ (bao gồm cả quốc tịch) nhưng vì không đảm bảo chắc chắn quyền và
lợi ích cho trẻ nên Điều 27 của Công ước (hình thức con nuôi đơn giản) không bắt buộc phải
chấm dứt.
- Điều 19 - Luật nuôi con nuôi của Bờ biển Ngà, việc nuôi con nuôi không làm chấm dứt quan
hệ giữa con nuôi với cha, mẹ đẻ.
- Hệ quả pháp lý ở đa số các nước châu Âu theo hình thức:
 Trọn vẹn:
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ phi tài sản: được coi là con hợp pháp Pháp luật
Đức, Bồ Đào Nha, Áo và Bỉ có một số quy định khác.
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ tài sản: kèm theo nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau,
thừa kế. Tây Ban Nha cấm con vị thành niên cho hình thức con nuôi trọn vẹn. Luật nước Áo
lại theo chế định nuôi con nuôi trọn vẹn lai tạp.
 Đơn giản:
Về mối quan hệ của con nuôi đơn giản với người xin nhận con nuôi
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ phi tài sản:
Tên họ của con nuôi: Pháp và Bỉ quy định được giữ tên họ của mình sau đó kèm với tên
họ người nhận nuôi, Italia quy định: đặt tên họ người nhận trước tên họ con nuôi, Pháp quy
định: đi kèm với tên con nuoi, trừ khi tòa án quyết định khác. Châu Âu quy định nhận nuôi
đơn giản thì cha mẹ có quyền như cha mẹ đẻ còn Bỉ thì chỉ cho phép là người giám hộ
Quốc tịch: Không ảnh hưởng gì (Nếu đáp ứng được yêu cầu thì Pháp sẽ cho nhập quốc
tịch).
+ Hệ quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ tài sản: quan hệ nuôi dưỡng qua lại, vấn đề thừa kế
theo di chúc thì Châu Âu quy định:
Quyền thừa kế của con nuôi đơn giản: Ở Đức, Pháp , Bỉ, Italia: con nuôi có quyền thừa kế bắt
buộc nhưng không áp dụng với thành viên khác (trừ Pháp: thừa kế của ông bà, nhưng tùy
vào chủ ý của người đó). Tây Ban Nha: không thừa kế thế vị của người xin nhận con nuôi.
Quyền thừa kế của người xin nhận con nuôi với con nuôi đơn giản: Italia không được hưởng

theo di chúc trên tài sản của con nuôi. Pháp, Đức và Bỉ nếu con nuôi chết không người hưởng
thì cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi mỗi bên hưởng một nửa.
Về mối quan hệ của con nuôi đơn giản với gia đình gốc: nuôi dưỡng bố mẹ chỉ mang tính
chất bổ trợ.
Thừa kế: Ở Pháp, Bỉ, Đức: con nuôi vẫn giữ quyền thừa kế trong gia đình gốc. Ở Italia,
quyền thừa kế chỉ hướng tới gia đình huyết thống. Ở Bồ Đào Nha, người xin nhận con nuôi
không có quyền thừa kế (trừ một vài trường hợp).

2.3.2 Chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Tại Điều 25, khoản 1 Điều 27 Luật nuôi con nuôi có điểm khác so với một số nước, tại đó
quy định cơ quan ra quyết định nhận nuôi con nuôi cũng là cơ quan ký quyết định hủy bỏ, nếu có
đơn yêu cầu của đương sự hoặc người có liên quan với lý do được luật quy định (trừ trường hợp
đặc biệt)
Nuôi con nuôi trọn vẹn không thể chấm dứt như ở Cộng hòa Pháp mối quan hệ đó vẫn còn
ngay cả khi cha mẹ nuôi chết, trong 6 tháng không cho phép cha mẹ đẻ thừa nhận con (trừ một
số trường hợp) …; Italia: Không chấp nhận các lý do chấm dứt với con nuôi trọn vẹn là trẻ em
bị bỏ rơi, Tây Ban Nha kể cả xác định được quan hệ huyết thống nguyên tắc cũng không thể
chấm dứt việc nuôi con nuôi.
2.4 Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
- Bộ Tư pháp:
- Cục nuôi con nuôi
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
- Sở Tư pháp
- Cơ sở nuôi dưỡng
So với các nước:
- Cộng hòa Pháp, Italia, Tây Ban Nha thì cơ quan có thẩm quyền cao nhất là cơ quan con nuôi
trung ương
- Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc, nếu là nhà nước đơn nhất thông thường cơ quan có thẩm
quyền giải là một cơ quan cấp Bộ quản lý cấp trung ương, ở địa phương do cơ quan đang đăng
ký hộ tịch hoặc Tòa án công nhận, sau đó cơ quan hộ tịch đăng ký vào sổ.

2.5 Trình tự, thủ tục đăng kí nuôi con nuôi
- Nộp, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ của người xin nhận con nuôi.
- Chuyển hồ sơ của người xin nhận con nuôi cho Sở Tư pháp để giới thiệu trẻ.
- Sở Tư pháp giới thiệu trẻ làm con nuôi.
- Sở Tư pháp báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em cho Cục Con nuôi, kèm theo hồ sơ của con nuôi
để Cục con nuôi thẩm định kết quả.
- Cục Con nuôi lấy ý kiến của người nhận con nuôi và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
về trẻ được giới thiệu làm con nuôi.
- Quyết định cho trẻ làm con nuôi và tổ chức giao nhận con nuôi
Quy trình cơ bản tương đồng với Công ước Lahay 1993, tuy nhiên pháp luật Việt Nam chưa có
đầy đủ các quy định cần thiết bảo đảm đúng yêu cầu về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con
nuôi theo chuẩn mực Công ước như: chưa có quy định đảm bảo đầy đủ quyền quyết định của
Cục Con nuôi với tư cách là cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế.
2.6 Nhận xét, đánh giá quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài ở Việt Nam với pháp luật một số nƣớc trên thế giới và bài học cho Việt
Nam
- Về nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi: đều trên cơ sở bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho trẻ.
- Về điều kiện nuôi con nuôi: điều kiện đối với người nhận nuôi: đa số theo nước nhận nuôi (trừ
một vài trường hợp), Việt Nam quy định độ chênh lệch tuổi giữa người nuôi là con nuôi trong
khi các nước quy định tuổi tối thiểu. Điều kiện đối với con nuôi: dưới tuổi trưởng thành, độ tuổi
các nước khác nhau. Điều kiện ý chí: phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận
làm con nuôi hoặc phải được sự đồng ý của người giám hộ và sự đồng ý của đứa trẻ được nhận
làm con nuôi (khác nhau về độ tuổi trẻ đồng ý).
- Về hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi: Việt Nam kết hợp giữa nuôi trọn vẹn và đơn giản, một
số nước xác định theo hình thức con nuôi, một số nước quy định con nuôi và cha mẹ đẻ vẫn có
ràng buộc về cấp dưỡng, thừa kế.
- Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi: có nhiều quy định khác nhau dựa vào việc tham gia
Công ước Lahay hoặc hình thức nhà nước.
Rút ra nhận xét:
- Việt Nam phải quy định rõ về nuôi con nuôi trọn vẹn.

- Tập trung thẩm quyền quyết định cho làm con nuôi được trao cho cơ quan trung ương
- Xem xét lại việc cho nhận trẻ từ cơ sở nhân đạo tránh hiện tượng trục lợi, cạnh tranh.



CHƢƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Thực trạng giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam
3.1.1 Những ưu điểm
- Các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam đã đảm bảo sự gắn kết giữa nuôi con nuôi
trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi đã phát huy hiệu lực, phản ánh đúng bức tranh toàn
cảnh nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã: tìm được mái ấm gia đình
thay thế cho nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ( từ 2003 – tháng 6/2008: 5.809 trường hợp;
năm 2009: 1.061 trường hợp; 7 tháng đầu 2010 có 674 trường hợp); cải thiện đời sống của trẻ em
tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng (1.000.000 đồng / tháng / trẻ - gấp 3 lần hỗ trợ của Nhà nước; từ năm
2005-2007, tổng số tiền các Văn phòng hỗ trợ cho 80 cơ sở nuôi dưỡng là 6.298.089 USD); cải
tiến hơn trình tự, thủ tục giải quyết việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài khắc phục tình
trạng tiêu cực, thỏa thuận ngầm.
3.1.2 Những tồn tại, bất cập trong việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
3.1.2.1 Về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi:
Tồn tại “thực quyền” tại cơ sở nuôi dưỡng hoặc cơ quan chủ quản do:
- Nhu cầu người nước ngoài xin con nuôi lớn;
- Việt Nam không quy định cơ quan nào có quyền ghép trẻ;
- Có hiện tượng gom trẻ cho các văn phòng quan tâm đến cơ sở nuôi dưỡng.
- Có cạnh tranh trong giới thiệu trẻ.
- Thẩm quyền quyết định ghép hồ sơ của người xin nhận con nuôi và trẻ của Cơ quan trung
ương chỉ là mắt xích, chia sẻ nhiều quyền năng cho chính quyền địa phương.

- Cấp Tỉnh có quá nhiều quyền năng nên dễ thiếu công bằng, minh bạch, quy hoạch định mức
nhận con nuôi của từng nước.
- Cơ quan trung ương kiểm tra, giám sát chỉ mang tính hình thức.
3.1.2.2 Về việc báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi
80% cha mẹ nuôi đều gửi báo cáo đúng kỳ hạn nhưng đa số mang tính chất hình thức, việc xử
lý báo cáo có một số vấn đề:
- Không có quy định hình thức, nội dung, thông tin cần thiết, bản dịch nên xử lý còn ở mức độ
khiêm tốn.
- Xử lý cha mẹ không nộp báo cáo mang tính hình thức, chiếu lệ.
- Nguồn nhân lực xử lý báo cáo thiếu, cập nhập số liệu thủ công, không thể thực hiện được việc
nghiên cứu sâu.
3.1.2.3 Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi
Nhiều địa phương chạy theo lợi ích vật chất, cha mẹ nghèo đói nên quyết định cho con mà
không xuất phát từ lợi ích và quyền của trẻ em, cũng như không hiểu về hệ quả pháp lý của nuôi
con nuôi
3.1.2.4 Trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có nhiều vi phạm.
a. Hiện tượng làm sai lệch hồ sơ, nguồn gốc trẻ em
i. Về hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài.
- Giấy khai sinh: Giấy khai sinh giả; thẩm quyền đăng ký khai sinh, giấy chứng
sinh,
- Hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi: Hồ sơ không có biên bản trẻ bị bỏ rơi, không đúng, mâu
thuẫn với giấy khai sinh. Khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi: bị gạch, không đúng thủ tục,
không ghi đầy đủ thông số, không đúng ngày trẻ ra đời.
ii. Về hồ sơ của người nhận con nuôi:
- Đơn xin con nuôi, giấy cam kết thông báo sự phát triển không đúng, bị làm sai
lệch …
- Bản sao hộ chiếu không đầy đủ các trang
- Hiện tượng làm sai lệch hồ sơ đương sự, sai lệch nguồn gốc của tre em, như tại
Nam Định, trung tâm Việt Lâm, Phú Thọ. Hình phạt không đủ sức răn đe nên sai
sót giấy tờ chỉ bị nhắc nhở

b. Sai phạm về nghiệp vụ của cơ quan có thẩm quyền đăng ki nuôi con nuôi.
- Chưa thực hiện đầy đủ ghi chú vào sổ hộ tịch.
- Thời gian giải quyết lâu không có lý do chính đáng.
- Cán bộ hộ tịch không có Sổ thụ lý hồ sơ.
- Phần tự khai còn bị tẩy, xóa.
- Hồ sơ còn thiếu nhiều loại giấy tờ
- Hồ sơ lưu trữ đều không đánh bút lục, bìa hồ sơ không in đầy đủ các thông số cần thiết.
- Đối với trẻ em cho làm con nuôi từ các trung tâm
- Sai lệch về biên bản bàn giao, sai diện trẻ làm con nuôi, giấy xác nhận sức khỏe không đúng,
một số giấy tờ trong hồ sơ hết hạn hoặc chưa được hợp pháp hóa lãnh sự.
- Sai phạm trong việc xét duyệt điều kiện cho và nhận con nuôi.
- Sai phạm trong Giao nhận con nuôi
c. Sai phạm về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi
- Cấp Tỉnh chậm chễ trong ra quyết định hoặc thời hạn ra quyết định rất lâu. Chưa phù hợp với
Công ước Lahay khi chưa giao cho Bộ quyết định.
- Cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em, chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo
đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi; kiểm tra hồ sơ trẻ em chỉ mang tính hình
thức
d. Còn bất cập về cơ chế tài chính, thiếu minh bạch và nhiều sai phạm trong việc tiếp
nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài
- Bất cập về cơ chế tài chính: nguồn tài chính hạn chế, tài chính thu từ hồ sơ (50.000.000 đồng /
1 hồ sơ trong đó Cục con nuôi giữ lại 5% quản lý phí, còn 95% chuyển cho Tỉnh) chuyển rất
chậm (20 Sở Tư pháp thông báo cho Cục con nuôi tài khoản để nhận khoản tiền này)
- Vấn đề minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ
nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng là vấn đề khá phức tạp. Cơ sở
nuôi dưỡng báo cáo sử dụng tiền hỗ trợ nahan đạo chưa đầy đủ, chính xác. Công tác quản lý các
tổ chức con nuôi nước ngoài trong việc hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế.

3.1.2.5 Sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi
nước ngoài còn chồng chéo và chưa tốt

Luật nuôi con nuôi quy định chưa hoàn thiện nên thực tế thực thi gặp nhiều vấn đề:
- Ở địa phương, mối quan hệ giữa các cơ quan Tư pháp, Công an, ủy ban nhân dân còn lỏng
lẻo, thiếu sự hợp tác.
- Ở cấp tỉnh: Mối quan hệ giữa Sở Tư pháp, công an Tỉnh và Sở Lao động Thương binh và Xã
hội chưa tốt (giữa Sở Tư pháp và Công an cấp Tỉnh; Giữa Sở Tư pháp và Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội
- Ở cấp Trung ương, sự hợp tác giữa Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội còn
thiếu chặt chẽ trong việc hoạch định chính sách về nuôi con nuôi quốc tế, về cơ sở bảo trợ xã hội,
về các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính, hỗ trợ nhân đạo.

3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt
Nam
3.2.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lí
- Về hình thức của nuôi con nuôi
- Về báo cáo định kỳ về sự phát triển của trẻ em: Chế tài xử phạt nặng, xây dựng cơ sở dữ liệu
để kiểm tra, kiểm soát hồ sơ cũng như tạo điều kiện cập nhật và xử lý báo cáo định kỳ.
3.2.2 Hoàn thiện, đổi mới hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài
- Tăng cường thẩm quyền cho Cục Con nuôi nhằm đáp ứng yêu cầu Công ước, tập trung quản
lý thống nhất lĩnh vực nuôi con nuôi vào đầu mối (ghép trẻ, củng cố, tăng cường năng lực, biên
chế và quyền hạn có thể đảm nhiệm được trọng trách nặng nề hơn trong điều kiện nước ta tham
gia Công ước Lahay.
- Đối với Sở Tư pháp: cần có nhiều cán bộ chuyên trách về nuôi con nuôi, các cán bộ phải nâng
cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi đạo đức để đáp ứng được yêu cầu giải quyết việc
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Đối với Cơ sở nuôi dưỡng, cần tiêu chuẩn hóa các cơ sở nuôi dưỡng
- Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: cần chỉ đạo thường xuyên và quản lý chặt chẽ việc giải
quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài tại địa phương và giao thẩm quyền
quyết định việc nuôi con nuôi cho Bộ Tư pháp.
- Đối với tổ chức con nuôi nước ngoài, pháp luật cần có những quy định đảm bảo sự cạnh tranh

lành mạnh giữa các tổ chức con nuôi nước ngoài.
3.2.3 Một số giải pháp khác
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương để
bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong và ngoài nước một cách chặt chẽ, đúng
pháp luật.
- Tăng cường công tác quản lý Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam: chế độ báo cáo,
quản lý các khoản hỗ trợ nhân đạo, ….
- Tăng cường công tác thanh tra, kiếm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
- Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao nhận thức của cán bộ,
nhân dân về vấn đề nuôi con nuôi, về sự cần thiết, ý nghĩa nhân đạo của việc nuôi con nuôi.



KẾT LUẬN CHUNG
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, Việt Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu rộng
với cộng đồng khu vực và quốc tế. Quan hệ giao lưu quốc tế giữa Việt nam và các nước ngày
càng cải thiện và phát triển. Cùng với các quan hệ xã hội khác, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài cũng có những bước tiến quan trọng. Nhìn chung, các văn bản pháp luật về nuôi con
nuôi của Việt Nam thời gian qua đã góp phần quan trọng điều chỉnh các quan hệ nuôi con nuôi
tại Việt Nam, bảo đảm tinh thần nhân đạo, với mục đích là tìm cho trẻ em không nơi nương tựa
một mái ấm gia đình thay thế, tôn trọng nguyên tắc ưu tiên cho nhận con nuôi trong nước, nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài chỉ là biện pháp cuối cùng.
Việc Việt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc từng bước hội nhập vào khuôn
khổ hợp tác đa phương về tư pháp quốc tế. Trên thực tế, các quy định pháp luật liên quan đến trẻ
em được cho làm con nuôi, người nhận con nuôi, trình tự, thủ tục và các giấy tờ liên quan đến hồ
sơ nhận nuôi con nuôi, hoạt động của các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam đều được
thực hiện khá nghiêm túc, chặt chẽ, nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích của trẻ, góp phần
đưa công tác quản lý nuôi con nuôi đi vào nền nếp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện các quy định pháp
luật về nuôi con nuôi còn có những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Do đó, việc hoàn thiện pháp
luật nuôi con nuôi nói chung và pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng để phù
hợp với pháp lụât quốc tế là yêu cầu hiện nay. Để quan hệ nuôi có nuôi có yếu tố nước ngoài đáp
ứng đúng mục đích của nó, một mặt, phải hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi một cách toàn diện,
thống nhất, đồng bộ. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi phải tương thích
với pháp luật các nước và thông lệ quốc tế, phải có tính khả thi. Bên cạnh đó, cần phải tăng
cường mở rộng quan hệ hợp tác về nuôi con nuôi với các nước. Mặt khác, cần phải phổ cập,
nâng cao hiểu biết pháp luật nuôi con nuôi cho nhân dân nhằm đảm bảo hiệu quả của việc nuôi
con nuôi.



References
A - TÀI LIỆU CHUYÊN KHẢO
1. Nguyễn Hồng Bắc (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong thời Kì đổi mới và hội nhập, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội;
2. Nguyễn Hồng Bắc (2003), Một số vấn đề cần giải quyết khi Việt Nam gia nhập Công ước
Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các nước, Tạp chí LH số 3;
3. Th.s. Nguyễn Bá Bình (2009) - Gia nhập Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Trường Đại học Luật Hà Nội;
4. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật Nuôi con nuôi;
5. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi (2003-
2008), Hà Nội;
6. Bộ Tư pháp, Cục con nuôi (2008), Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định số
68/2006/NĐ-CP, Hà Nội;
7. Bộ Tư pháp, Cục Con nuôi quốc tế (2007), Tìm hiểu Công ước Lahay về nuôi con nuôi,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
8. Bộ Tư pháp, Cục con nuôi, Báo cáo rà soát quy định pháp luật hiện hành về nuôi con

nuôi;
9. Bộ Tư pháp, Cục con nuôi, Báo cáo thống kê hoạt động lý lịch tư pháp, chứng thực, nuôi
con nuôi năm 2010;
10. Bộ Tư pháp, Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi (2003-2008);
11. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật nuôi con nuôi;
12. Bộ Tư pháp (2010) Đề cương giới thiệu Luật nuôi con nuôi;
13. Bộ Tư pháp - Unicef – Nhận con nuôi từ Việt Nam, những phát hiện và khuyến nghị của
nhóm chuyên gia đánh giá. (2009);
14. Bộ Tư pháp (2009), Bản thuyết minh về dự án Luật Nuôi con nuôi.
15. Chính Phủ (2009), Tờ trình số 89/TTr-CP ngày 16/6/2009 của Chính phủ trình Ủy ban
thường vụ Quốc hội;
16. Cổng thông tin điện tử Bộ tư phâp, Hoàng Quốc Hùng - Thanh tra Bộ Tư pháp, "Nghiệp
vụ thanh tra việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài".
17. Phạm Thùy Dương (2006), Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài -
Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn th. sĩ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội;
18. TS. Vũ Đức Long (2005), Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trước yêu cầu gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
nuôi con nuôi giữa các nước, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2005;
19. TS. Vũ Đức Long (2000), “Vịêt Nam và các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi”, Tạp chí
Luật học (5), tr. 23-27.
20. Đào Thị Thu Hường (2004), Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
hướng tới gia nhập Công ước Lahay 1993, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội;
21. Nguyễn Phương Lan (2009), Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi, Tạp chí luật học
số 3;
22. Nguyễn Phương Lan (2004), Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật
Việt Nam, Tạp chí Luật học số 3;
23. Nguyễn Phương Lan (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con
nuôi ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
24. Nhà pháp luật Việt – Pháp, Chế định pháp lý về nuôi con nuôi, Nxb Tư pháp, Hà Nội

1998;
25. Trường Đại học Luật Hà Nội - Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp trường (2011) “Nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật nuôi con nuôi năm 2010”, Hà Nội, 2011;
26. Tạp chí dân chủ và pháp luật (2009), Số chuyên đề: “Pháp luật về nuôi con nuôi”, Hà
Nội, 2009;
27. Vũ Thị Huyền Trang (2010), Người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo
pháp luật Việt Nam hiện hành, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội;
28. Nguyễn Thị Hồng Trinh (2010), Bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội;
30. INSUNYN

B - VĂN BẢN PHÁP LUẬT
31. Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các
nước;
32. Bộ luật Dân sự 2005;
33. Luật Hôn nhân và gia đình 2000;
34. Luật Nuôi con nuôi 2010;
35. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài;
36. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 23/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP;
37. Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Nuôi con nuôi;
38. Bộ luật Dân sự Pháp năm;
39. Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga;
40. Bộ luật gia đình của Bungari;
41. Luật Nuôi con nuôi của Trung Quốc (sửa đổi, bổ sung năm 1999);
42. Luật tư pháp quốc tế Ba Lan năm 1965;

43. Luật tư pháp quốc tế của Đức sửa đổi ngày 25/7/1986;
44. Luật về nhận nuôi con nuôi của nước Bờ biển Ngà;
45. Luật về cha mẹ của Thụy Điển năm 1949;
46. Luật về nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi tại Hà Lan năm 1989;

C - TRANG WEB
47. />8 “Đến với Công ước Lahay…”;
48. “Tham gia
Công ước Lahay về nuôi con nuôi quốc tế: Cơ hội đã chín muồi”;
49. “Gia nhập Công ước
Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”;
50. ngày 23/09/2009;
51. ngày 04/04/2009;



×