Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện việt nam thực thi cam kết WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.96 KB, 27 trang )

Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO

Ngô Khánh Phượng

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS.Nguyễn Văn Tuyến
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Nghiên cứu các vấn đề lý luận thuế xuất nhập khẩu nói chung và thuế xuất
nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO. Phân tích thực trạng pháp
luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO, đánh giá
mức độ phù hợp của các quy định pháp luật đó với thực tiễn hoạt động thuế xuất nhập
khẩu của Việt Nam, mức độ tương thích và phù hợp với các cam kết WTO. Đưa ra
những đề xuất, kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật của Việt Nam
hiện nay.

Keywords: Thuế xuất khẩu; Thuế nhập khẩu; Luật Hải quan; Thuế; Pháp luật Việt
Nam

Content
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 7/11/2006, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).Với sự gia nhập WTO, trước áp lực mạnh mẽ của việc cam kết và
thực thi lĩnh vực thuế quan trong hoạt động xuất nhập khẩu, đã và đang đặt ra những yêu cầu
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất nhập khẩu và một
trong những yêu cầu đó, cũng được xác định là yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất tại thời
điểm hiện nay khi Việt Nam vừa gia nhập và đang bước những bước đầu tiên thực hiện cam
kết về thuế quan của WTO là cần điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong nước cho


phù hợp với các cam kết về thuế quan của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Nghiên cứu đề tài “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực
thi cam kết WTO” với tính chất là một hướng tiếp cận vấn đề còn khá mới mẻ trong gian
đoạn này, nhằm phân tích thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhận
diện những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất
nhập khẩu là hoạt động cần thiết trong bối cảnh hiện nay cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn.

2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ được đề cập dưới dạng các
bài viết được đăng tải rải rác trên tạp chí hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các
chuyên gia, các đại diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng vấn của
các cơ quan báo chí. Cụ thể, đề cấp đến hệ thống pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam có bài viết của Tiến sĩ Đinh Ngọc Thịnh - Học viện Tài chính với tiêu đề: Hoàn thiện
chính sách thuế trong quá trình hội nhập WTO, đăng tải trên báo điện tử VNN ngày
17/8/2007; hoặc đề cập đến chính sách chung về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
điều kiện gia nhập WTO có các bài viết được đăng tải trên các website báo điện tử hoặc tạp
chí như: Luật thuế xuất nhập khẩu phải minh bạch hơn để gia nhập WTO của Nguyễn Sa
(Vietnamnet) hoặc Gia nhập WTO: Thuế xuất nhập khẩu chịu tác động trực tiếp (Vnmedia) và
Việt Nam với WTO (chuyên đề số 01/2007 được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tư pháp)…
Vì vậy, có thể nói đề tài Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực
thi cam kết WTO là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài đã được nghiên cứu từ
trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công
trình khoa học, các bài viết, và các ý kiến của các chuyên gia cũng như các kinh nghiệm thực
tiễn có liên quan đến đề tài trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tên gọi của đề tài nghiên cứu là “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO” được xác định trong bối cảnh thực tiễn pháp lý của Việt
Nam (văn bản pháp luật được ban hành sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của

WTO và có liên quan trực tiếp đến cam kết về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia
nhập WTO) chỉ điều chỉnh hoạt động thuế xuất nhập khẩu nhằm thực thi cam kết của Việt
Nam với WTO, đặc biệt quan tâm đến yêu cầu nổi trội là phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo
cam kết của Việt Nam với WTO (không bao gồm toàn bộ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
theo hệ thống pháp luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam).
Trong phạm vi bài này, bên cạnh thuế xuất khẩu là một bộ phận cấu thành trong hệ
thống pháp luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam thì tác giả có tập trung nhiều hơn về thuế
nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về thuế xuất nhập khẩu và cam kết về thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO, đề tài đánh giá khái quát thực trạng các quy
định của pháp luật Việt Nam về thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện thực thi cam kết WTO.
Bên cạnh việc đánh giá thực trạng và các quy định pháp luật hiện hành về thuế xuất

3
nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO, đề tài nêu và phân tích một
số vấn đề liên quan đến thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa được đề cập hoặc được điều
chỉnh bởi pháp luật về thuế xuất nhập khẩu hoặc vẫn còn những bất cập cần phải xem xét để
sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp nghiên cứu đề tài được sử dụng trong quá trình thực hiện Luận văn
bao gồm:
- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp duy vật lịch sử;
- Các phương pháp khác như: phương pháp so sánh, thống kê, khảo sát.
6. Kết quả mới đạt được của Luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận thuế xuất nhập khẩu và thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO;
- Phân tích thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện

thực thi cam kết WTO, đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp luật đó với thực tiễn
hoạt động thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, mức độ tương thích và phù hợp với các cam kết
WTO từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
của Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành ba chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu và pháp luật về thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực
thi cam kết WTO. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu hàng hóa và pháp luật về xuất khẩu,
nhập khẩu trong điều kiện việt nam thực thi cam kết wto
1.1. nhu cầu về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của thị trường việt nam sau khi gia
nhập wto

4
1.1.1. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
Những cam kết về hàng hóa của Việt Nam khi gia nhập WTO là nguyên nhân chính
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu:
Thứ nhất, lần đầu tiên Việt Nam mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa
cho các doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, các điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu như:
- Rào cản ở các nước nhập khẩu ít hơn (thuế giảm, hàng rào phi thuế dần được bãi bỏ
…);
- Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được đối xử công bằng hơn trên thị trường thế giới;
- Các nước thuộc WTO không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may của
Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường các nước này;
- Doanh nghiệp dễ dàng định hướng hoạt động xuất khẩu của mình hơn do được tiếp cận

với thông tin về thị trường nhập khẩu.
Thứ ba, Việt Nam buộc phải cắt giảm rào cản thuế quan và phi thuế quan, giảm bảo hộ
và trợ cấp xuất khẩu, bởi vậy hàng nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn trước.Cụ thể là:
- Giảm thuế nhập khẩu: Việt Nam cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu của 3800 dòng thuế
(chiếm 35,5% tỷ trọng); phải dừng ở mức thuế tại thời điểm gia nhập là 3700 dòng thuế
(chiếm 34,5% tỷ trọng; mức thuế trần cao hơn mức thuế khi gia nhập WTO là 3170 dòng thuế
(chiếm 30% tỷ trọng).
- Thay đổi các biện pháp hạn chế nhập khẩu: Việt Nam buộc phải cho phép nhập khẩu
một số mặt hàng mà trước đây Việt Nam không cho phép nhập khẩu, bao gồm:
 Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày
31/5/2007 phù hợp với quy định của Việt Nam;
 Bỏ biện pháp cấm nhập khẩu đối với mặt hàng thuốc lá điếu và xì gà;
 Việt Nam cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm với mức
thuế suất được xác định trong Biểu cam kết về thuế và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật theo
quy định của Việt Nam;
 Việt Nam đảm bảo cơ chế cấp phép nhập khẩu văn hóa phẩm nhằm mục đích kiểm
duyệt sẽ tuân thủ theo quy định về minh bạch hóa WTO.
 Việt Nam cam kết từ ngày 01/01/2009 sẽ mở cửa thị trường dịch vụ phân phối (trừ
một số mặt hàng nhạy cảm).

5
1.1.2. Nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu của thị trường Việt Nam
Trong giai đoạn 2007-2010, thị trường xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam phát triển
cả chiều rộng lẫn chiều sâu; hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang 219 nước và nhập khẩu từ
151 nước; 165 nước cho Việt Nam hưởng Quy chế tối huệ quốc, trong đó có 151 nước là
thành viên của WTO.
Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 48,38 tỷ USD, ước tính bằng USD thì
tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9%, thuộc loại cao ở châu á và thế giới, tăng
21,5% so với năm 2006.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đều tăng, chủ yếu do giá trên

thị trường thế giới tăng, ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Tổng kim
ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007.
Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu cả năm là 57,1 tỷ USD, giảm 8,9%so với năm 2008 và
nhập khẩu là 69,95 tỷ USD, giảm 13,3%. Như vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước
năm 2009 là 127,05 tỷ USD, giảm 11,4% so với năm 2008, cán cân thương mại hàng hoá
thâm hụt 12,85 tỷ USD, bằng 22,6% xuất khẩu.
Như vậy, ngoài việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới do Việt Nam gia nhập WTO, hoạt
động xuất nhập khẩu còn xuất phát từ chính nhu cầu nội tại của bản thân doanh nghiệp và
không nằm ngoài quy luật của hoạt động thương mại quốc tế.
1.2. kháI niệm xuất nhập khẩu hàng hóa và thuế xuất nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa
Trong lý luận thương mại quốc tế, xuất khẩu được định nghĩa “là việc bán hàng hóa và
dịch vụ cho nước ngoài” và nhập khẩu “là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc
gia khác”.
Luật thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa như sau:
“1. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa
vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật.
2. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài
hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo
quy định của pháp luật” (Điều 28)
Bên cạnh đó, Luật thuế giá trị gia tăng 2009 cũng đưa ra khái niệm về hàng hóa xuất
khẩu, bao gồm “hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài, kể cả ủy thác xuất khẩu; hàng hóa bán

6
vào khu phi thuế quan; hàng bán cho cửa hàng miễn thuế; hàng hóa gia công chuyển tiếp
theo quy định của pháp luật thương mại; hàng hóa gia công xuất khẩu tại chỗ; hàng hóa xuất
để bán tại hội chợ triển lãm nước ngoài”.
1.2.2. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về thuế tuỳ cách thức tiếp cận nghiên cứu:

Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng
quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, nhằm
thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trên giác độ phân phối thu nhập thì thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước
Một trong các khái niệm về thuế được thừa nhận chung là: “Thuế là một khoản đóng
góp bắt buộc của các pháp nhân, thể nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp
luật quy định, không mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung
toàn xã hội” [11].
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1992 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu 1998 mặc dù có sửa đổi, bổ sung làm đầy đủ hơn khái niệm về xuất
nhập khẩu hàng hóa, nhưng cũng không đưa ra định nghĩa về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
“Hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng
hóa từ thị trường trong nước đưa ra khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong
nước, đều thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” (Điều 1).
Điều 2, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 cũng không đưa ra định nghĩa khái
quát về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà quy định cụ thể đối tượng chịu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu bao gồm:
“Trừ hàng hóa quy định tại Điều 3 của Luật này, hàng hóa trong các trường hợp sau
đây là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
1. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam;
2. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi
thuế quan vào thị trường trong nước”

7

Như vậy, tính đến thời điểm này thì khái niệm “thuế xuất khẩu”, “thuế nhập khẩu” vẫn
chưa được quy định chính thức trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào.
1.3. những cam kết quốc tế của việt nam về thuế xuất nhập khẩu khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giời (WTO)
1.3.1. Cam kết chung của Việt Nam khi gia nhập WTO
Các nội dung chủ yếu của báo cáo liên quan đến thuế xuất nhập khẩu là:
- Thuế nhập khẩu, các khoản thu khác: cam kết thuế nhập khẩu trên cơ sở các kết quả
đàm phán song phương và phương án tổng hợp theo Quy chế MFN. Ngoài thuế nhập khẩu,
Việt Nam sẽ không áp dụng các khoản phụ thu đối với hàng nhập khẩu (trên thực tế đã được
Việt Nam bãi bỏ).
- Hạn ngạch thuế quan: Việt Nam chỉ cam kết sẽ áp dụng, phân bổ và quản lý hạn
ngạch thuế quan một cách minh bạch, không phân biệt đối xử và tuân theo đúng các quy định
của WTO.
- Miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Miễn, giảm thuế trên cơ sở MFN và sẽ
không gắn việc miễn, giảm thuế với yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hóa. Một số ưu đãi đầu
tư dưới dạng miễn, giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ không được áp dụng nữa.
- Biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu:
* Đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân khối lớn trên cơ sở bảo lưu quyền áp dụng các biện
pháp như quy định độ tuổi người sử dụng và đưa ra chế độ cấp bằng lái đặc biệt.
* Đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu thuốc lá điếu và xì gà nhưng kèm theo điều kiện Việt
Nam sẽ chỉ định một doanh nghiệp được quyền nhập khẩu toàn bộ.
* Với ô tô cũ, Việt Nam cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 05 năm
nhưng bảo lưu quyền áp dụng thuế nhập khẩu cao và các biện pháp quản lý kỹ thuật chặt chẽ.
* Việt Nam bảo lưu quyền cấp phép nhập khẩu văn hóa phẩm, chủ yếu để kiểm duyệt nội
dung nhưng bảo đảm cơ chế cấp phép nhằm mục đích kiểm duyệt này sẽ tuân theo các quy
định về minh bạch hóa của WTO và biện pháp cấm nhập khẩu thiết bị và phần mềm mã hóa
thuộc diện bí mật quốc gia.
- Xác định trị giá tính thuế hải quan: Việt Nam sẽ không áp dụng giá tính thuế tối
thiểu (thực tế đã được bãi bỏ) và sẽ tuân thủ hoàn toàn các quy định của WTO về nguyên tắc,
trình tự xác định trị giá tính thuế nhập khẩu.

- Các quy định về thuế xuất khẩu, phí và lệ phí, thuế nội địa đối với hàng xuất khẩu
và hạn chế xuất khẩu: WTO không có quy định điều chỉnh về thuế xuất khẩu. Tuy nhiên,
một số thành viên yêu cầu Việt Nam phải cắt giảm thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng.

8
Theo đó, Việt Nam cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu cho các loại phế liệu kim loại đen và kim
loại màu nhưng không phải ràng buộc toàn bộ biểu thuế xuất khẩu và cũng không xem việc
giảm thuế xuất khẩu là một phần của sự cân bằng nhân nhượng trong đàm phán gia nhập
WTO. Ngoài ra, Việt Nam chấp nhận áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, phí và lệ phí
cũng như thuế nội địa hóa đối với hàng xuất khẩu theo đúng Hiệp định GATT của WTO.
1.3.2. Các cam kết cụ thể về thuế quan của Việt Nam
Việt Nam đồng ý ràng buộc mức thuế trần cho toàn bộ biểu thuế quan (gồm 10.600
dòng thuế). Trong đó, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chủ yếu là các
dòng có thuế suất trên 20%), ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng và ràng
buộc mức thuế trần (cao hơn mức thuế suất hiện hành) với khoảng 3.700 dòng thuế.
Mức thuế quan bình quân toàn bộ biểu thuế được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống
13,4%, thực hiện dần trong vòng 5 - 7 năm (trong đó, hàng nông sản giảm từ 23,5% xuống
20,9% và hàng công nghiệp giảm từ 16,8% xuống 12,6%).
Về hạn ngạch thuế quan, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng đối với 4 mặt hàng gồm:
trứng, đường, thuốc lá, muối (mặc dù muối trong WTO thường không được áp dụng hạn
ngạch, nhưng Việt Nam kiên quyết giữ để bảo vệ lợi ích của người dân sống bằng nghề làm
muối). Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch tương đương với mức thuế MFN
hiện hành: trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50 - 60%, thuốc lá: 30%, muối ăn: 30%,
thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
1.4. pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện việt nam thực thi cam kết wto
1.4.1. Khái niệm pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong điều kiện thực thi
cam kết WTO
Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
được hiểu là quy định của pháp luật Việt Nam đối với các vấn đề liên quan đến thuế xuất
khẩu, nhập khẩu trong phạm vi Việt Nam đã đàm phán và ký kết khi tham gia WTO, bao

gồm: quy định pháp luật điều chỉnh về biểu khung thuế xuất nhập khẩu, thuế suất xuất nhập
khẩu của hàng hóa, hạn ngạch thuế quan, biện hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu,
miễn giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu… hay còn gọi là những quy định pháp luật về thuế
xuất nhập khẩu liên quan trực tiếp đến việc Việt Nam có hoàn thành nghĩa vụ theo cam kết
WTO hay không.
1.4.2. Điều chỉnh pháp luật của Việt Nam đối với thuế xuất nhập khẩu trong điều
kiện thực thi cam kết WTO
Riêng năm 2005, Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản luật, pháp lệnh, trong đó có hơn

9
20 văn bản luật, pháp lệnh là những văn bản mới có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ thành
viên của Việt Nam với WTO đã được thông báo cho Ban thư ký WTO. Việc sửa đổi Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi tháng 6/2005) là một bước chuẩn bị quan trọng cho
quá trình gia nhập WTO, theo đó Việt Nam đã xem xét và sửa đổi các quy định về thuế xuất
nhập khẩu trên cơ sở bước đầu phù hợp với các cam kết về thuế quan của Việt Nam khi gia
nhập WTO.
Những cơ sở để pháp luật Việt Nam điều chỉnh về thuế xuất, nhập khẩu trong điều kiện
thực thi cam kết WTO bao gồm:
- Nguyên tắc của WTO: Việt Nam phải thừa nhận các nguyên tắc của hệ thống thương
mại toàn cầu, chuyển hóa các quy định, nguyên tắc pháp luật đó vào các văn bản pháp luật.
Tuy nhiên, hệ thống luật lệ của WTO khá đồ sộ và phức tạp nên khi sửa đổi pháp luật cho phù
hợp với cam kết WTO thì Việt Nam cần phải chú ý đến việc hoạch định chính sách xây dựng
pháp luật cụ thể, tìm hiểu và học hỏi từ kinh nghiệm của các nước đi trước.
- Cam kết về thuế quan của Việt Nam khi gia nhập WTO: căn cứ vào các cam kết về mở
cửa thị trường hàng hóa, đặc biệt là cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu, Việt Nam cần sửa đổi,
bổ sung những quy định chưa phù hợp với điều kiện hội nhập, chưa đồng bộ với pháp luật
hiện hành; đồng thời loại bỏ mạnh các biện pháp phi thuế quan trong thương mại hàng hóa.
- Năng lực của các doanh nghiệp trong nước: Việt Nam cần căn cứ vào trình độ, năng
lực và khả năng thích ứng hiện tại của doanh nghiệp trong nước để điều chỉnh những cam kết
gia nhập WTO của mình phù hợp để vừa đảm bảo tuân thủ thực thi các cam kết WTO và đảm

bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước.
- Phạm vi bảo hộ nền kinh tế trong nước: Việt Nam cần cần nhắc việc tuân thủ cam kết
WTO với việc bảo hộ nền kinh tế trong nước, vì vậy Việt Nam có thể quy định mức thuế suất
nhập khẩu hợp lý tại mỗi thời điểm hay cơ chế chống bán phá giá, chống trợ cấp ….để đảm
bảo mục tiêu cuối cùng là sản xuất trong nước có thể đứng vững, phát triển khi thực hiện hội
nhập WTO, mở cửa thị trường, tự do hóa thương mại.
Để đảm bảo việc điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu đạt được hiệu quả, quan
điểm về điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu cần thống nhất như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần tôn trọng nguyên tắc của tổ chức thương mại quốc tế, bao gồm
ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc tối huệ quốc (MFN - Most Favoured Nation), nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (NT - National Treatment), nguyên tắc cạnh tranh công bằng (Fair
Competition).
Thứ hai, việc sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật cho phù hợp với cam kết WTO sẽ
không được hiểu là việc bắt buộc Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan trong một thời

10
gian ngắn hay càng sớm càng tốt mà Việt Nam có quyền điều chỉnh dần dần thuế suất trong
khoảng thời gian mà Việt Nam đã đạt được để đưa ra lộ trình khi gia nhập WTO.
1.5. xu hướng phát triển của thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong giai đoạn hội nhập toàn
cầu
1.5.1. Xu hướng chung của các nước trên thế giới
Hầu hết các nước đã bãi bỏ thuế xuất khẩu hoặc nếu có đánh thì ở mức rất thấp, còn
thuế nhập khẩu mặc dù hiện nay nhiều quốc gia vẫn duy trì nhưng đang ngày càng được hạ
thấp nhằm tiến dần đến mốc xóa bỏ hoàn toàn, bởi vì:
- Xu thế hướng về xuất khẩu do khoa học và kỹ thuật phát triển nhanh chóng, trong khi
thị trường trong nước đã bão hòa, cần thiết tăng thêm sức cạnh trong cho hàng hóa xuất khẩu.
- Thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu đều là thuế đánh vào tiêu dùng. Trong hai cách
đánh thuế tiêu dùng phổ biến là đánh theo xuất xứ (original) và đánh theo điểm đến
(destination) thì các nước thông thường là đánh theo điểm đến (đánh vào hàng nhập khẩu,
không đánh vào hàng xuất khẩu).

- Thuế nhập khẩu có tác dụng tạo ra mặt bằng cạnh tranh tương đối bình đẳng cho hàng
hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước.
1.5.2. Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này cũng được
thể hiện rõ nét trên các khía cạnh sau:
- Nhà nước đang xây dựng chiến lược toàn diện để khuyến khích phát triển sản xuất
nguyên liệu trong nước thay dần nguyên liệu nhập khẩu.
- Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nguyên nhiêu liệu nhập khẩu để sản
xuất hàng hóa chủ yếu tiêu thụ nội địa như: ô tô, xe máy; hàng điện tử; nước giải khát…;
đồng thời cũng có chiến lược xuất khẩu các sản phẩm hàng Việt Nam để tái tạo sự cần đối
ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu của mình.
- Nhà nước tăng cường hoạt động ngoại giao, khuyến khích các nước mở cửa thị trường
thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập trên nguyên tắc có đi có lại
Kết luận chương 1
Qua việc nghiên cứu trên, luận văn đã làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách và pháp luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu của Việt Nam.

11
Thứ hai, các cam kết của Việt Nam về thuế xuất nhập khẩu khi Việt Nam gia nhập
WTO.
Thứ ba, cơ sở để pháp luật Việt Nam điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu khi Việt Nam thực
thi cam kết WTO bởi vì cơ sở này giúp việc điều chỉnh của Việt Nam phù hợp với yêu cầu gia
nhập WTO và tình hình hiện tại của kinh tế, xã hội Việt Nam.
Chương 2
Thực trạng pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện việt nam thực thi cam kết
wto và phương hướng, giảI pháp hoàn thiện

2.1. thực trạng pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện việt nam thực thi cam kết
wto

2.1.1. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO)
Về xuất khẩu hàng hóa, theo số liệu thống kê của Bộ Công thương: năm 2007, xuất
khẩu của Việt Nam đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng trưởng với tốc độ cao. Kim
ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2006 (7,9 tỷ USD) và vượt 15,5% so
với kế hoạch. Năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hoá ước đạt 65 tỷ USD, tương đương 73%
GDP, tăng 33,9% so với năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của năm 2008 đạt
mức cao gấp nhiều lần so với những năm trước đó. Năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm 2008.
Về nhập khẩu hàng hoá: Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ
USD, tăng 35,5% so với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu năm
2008 của Việt Nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007. Tuy nhiên, năm 2009 nhập
khẩu của Việt Nam giảm khá mạnh, đạt 69,95 tỷ USD, giảm 13,3% so với năm 2008.
Dưới đây là tổng hợp một số đánh giá về tình hình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam trong thời gian 03 năm thực thi cam kết WTO:
Thứ nhất, hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam tăng mạnh, hàng hóa xuất khẩu
còn hạn chế do doanh nghiệp Việt Nam chưa tập trung vào sản xuất các mặt hàng có lợi thế
cạnh tranh và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, công tác hành chính còn nhiều thủ tục rườm rà chưa tạo môi trường thuận lợi
và thông thoáng.
Thứ ba, số lượng và chất lượng nguồn cán bộ quản lý chưa đáp ứng về nghiệp vụ, ngoại
ngữ, pháp luật và có năng lực đàm phán quốc tế.

12
Thứ tư, môi trường chính sách luôn thay đổi cũng đã gây ra không ít khó khăn cho
doanh nghiệp trong công tác xuất nhập khẩu hàng hóa.
2.1.2. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO
2.1.2.1. Nội dung quy định pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong điều
kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO

Đến nay, sau 03 năm thực thi các cam kết WTO, Việt Nam đã liên tục ban hành văn bản
pháp luật nhằm cụ thể hóa những cam kết WTO như:
- Nghị quyết 977/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 13 tháng 12 năm 2005 về việc Ban hành
Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và
khung thuế suất đối với từng nhóm hàng;
- Nghị quyết 295/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 3/8/2007 về việc ban hành Biểu thuế xuất
khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu
đãi đối với từng nhóm hàng;
- Quyết định 106/2007/QĐ-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành
Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi;
- Quyết đinh 107/2007/QĐ-BTC ngày 25/12/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành
Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam;
- Quyết định 157/QĐ-BTC ngày 23/1/2008 về việc đính chính hiệu lực thi hành Danh
mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam theo Quyết định 107/2007/QĐ-BTC ngày
25/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Các văn bản pháp luật khác.
Bên cạnh quy định quy định về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã phù hợp với cam
kết của WTO, vẫn có những quy định không phù hợp với nguyên tắc chung của WTO, nhưng
do chính sách đó mang tính chất đặc trưng riêng của nền kinh tế Việt Nam nên trong quá trình
đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã nỗ lực cố gắng để các quy định này trở thành một
phần cam kết WTO của Việt Nam. Cụ thể là:
* Các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu thuế nhập khẩu
Tất cả phụ thu nhập khẩu đã được xóa bỏ từ tháng 12/2004. Các khoản phụ thu nhập
khẩu cuối cùng đối với nhựa PVC và ống thép hàn đã được loại bỏ theo Quyết định
81/2004/QĐ-BTC ngày 15/10/2004 và Quyết định số 102/2004/QĐ-BTC ngày 27/12/2004.
Đại diện của Việt Nam cũng xác nhận rằng Việt Nam đồng ý ràng buộc thuế nhập khẩu và

13
phụ thu thuế nhập khẩu bằng không trong Biểu Nhân nhượng và cam kết về hàng hóa.
* Hạn ngạch thuế quan

Theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, hiện nay có bốn nhóm hàng hóa thuộc diện quản lý
theo hạn ngạch thuế quan, bao gồm muối, thuốc lá nguyên liệu, trứng gia cầm và đường tinh
luyện. Khi đàm phán gia nhập WTO, mặc dù có nhiều quan ngại của các nước thành viên về
việc áp dụng hạn ngạch của Việt Nam (đặc biệt sản phẩm muối). Tuy nhiên, trước việc giải
thích về các cơ sở pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như thực tế việc quản lý hạn ngạch
của các sản phẩm này, Việt Nam đã được chấp nhận cho phép áp dụng hạn ngạch đối với bốn
loại sản phẩm đó.
* Phí và lệ phí liên quan nhập khẩu
Việt Nam cam kết rằng các loại phí và lệ phí liên quan nhập khẩu sẽ được rà soát để
điều chỉnh cho phù hợp với quy định của WTO. Việt Nam cam kết các khoản phí đặc biệt cao
hơn đối với một số mặt hàng nhập khẩu sẽ được bãi bỏ từ thời điểm gia nhập. Thông tin liên
quan đến việc áp dụng và mức phí, số thu từ phí và việc áp dụng các loại thuế đó sẽ được
cung cấp cho các thành viên WTO.
* Trị giá hải quan
Về tỷ giá tính thuế, Nghị định 149 quy định đối với các đồng ngoại tệ chưa được công
bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì xác định theo nguyên
tắc tỷ giá tính chéo giữa tỷ giá đồng USD với đồng Việt Nam và tỷ giá giữa đồng USD với
các ngoại tệ đó.
Tuy nhiên, hiện nay, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá tính chéo giữa đồng Việt Nam
với 23 ngoại tệ trên website của Ngân hàng Nhà nước theo định kỳ 10 ngày/lần.
Vì vậy, Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị định số
149/2005/NĐ-CP ngày 8/12/2005: Đối với các đồng ngoại tệ chưa được Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì xác
định theo tỷ giá tính chéo giữa đồng Việt Nam với một số ngoại tệ áp dụng tính thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế. Còn
đối với các đồng ngoại tệ chưa được công bố tỷ giá tính chéo thì vẫn xác định theo nguyên tắc
tỷ giá tính chéo giữa tỷ giá đồng đô la Mỹ (USD) với đồng Việt Nam và tỷ giá giữa đồng đô
la Mỹ với các ngoại tệ đó do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế.
* Miễn, giảm thuế nhập khẩu
Bộ Tài chính đang chủ trì dự thảo Nghị định mới trên tinh thần thu hẹp chính sách miễn,

giảm thuế nhập khẩu. Bởi vì thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

14
(WTO), hiện chúng ta đã cắt giảm hàng chục ngàn dòng thuế thuế nhập khẩu, trong đó có rất
nhiều mặt hàng hiện chỉ còn phải chịu thuế nhập khẩu 0%; hầu hết các mặt hàng nằm trong
diện miễn, giảm thuế hiện chỉ còn phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu 1-5%, nên việc miễn,
giảm thuế không còn nhiều tác dụng.
Hệ thống thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với
tình hình khi gia nhập WTO.
Thứ nhất, các văn bản pháp luật quy định về thuế xuất nhập khẩu còn thiếu tính ổn định,
rõ ràng làm cho chính sách thuế không minh bạch theo quy định của WTO và doanh nghiệp bị
động khi có sự thay đổi về thuế.
Thứ hai, quy định mức thuế suất vừa theo phân loại hàng hoá, vừa theo xuất xứ làm cho
biểu thuế quá phức tạp và dẫn đến nhiều mức thuế cho cùng một mặt hàng.
Thứ ba, chưa xây dựng được một cơ chế quản lý hàng hóa nhập khẩu rõ ràng trong khi
tồn tại song song hai biểu thuế nhập khẩu khác nhau với mức chênh lệch nhiều (AFTA và
MFN áp dụng chung).
Thứ tư, khi gia nhập WTO thì việc duy trì hàng rào thuế xuất khẩu sẽ không đưa lại
nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, không khuyến khích hoạt động xuất khẩu.Vì vậy, quy
định thuế suất xuất khẩu ngoài mức 0% là cần xem xét sửa đổi cho phù hợp với tình hình kinh
tế thương mại quốc tế.
Thứ năm, pháp luật về thuế xuất nhập khẩu chưa xác định cụ thể về thời hạn và lộ trình
bảo hộ để các doanh nghiệp chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy lợi thế sẵn có
của mình.
Thứ sáu, pháp luật về thuế xuất nhập khẩu chưa xác định một cơ chế phối hợp cụ thể
giữa các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình tiến hành
hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ bảy, quy định thủ tục hành chính vẫn còn khá phức tạp, rườm rà, hiệu quả hoạt
động xuất nhập khẩu chưa cao, không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.

Việc đồng bộ hóa các quy định pháp luật cũng như việc ban hành các văn bản pháp luật
sau khi Việt Nam gia nhập WTO phải phù hợp, đáp ứng các điều kiện:
- Khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo hộ hợp lý các ngành sản xuất trong
nước phù hợp với tiến trình thực thi cam kết WTO;
- Cụ thể hóa cam kết về thuế xuất nhập khẩu của WTO phù hợp với tiến trình Việt Nam
cam kết theo hướng ổn định, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với

15
tiến trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế.
2.1.2.2. Đánh giá các quy định pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam
trong điều kiện thực thi cam kết WTO
 Quy định pháp luật về khung thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Một trong những thay đổi đầu tiên quan trọng của việc sửa đổi pháp luật là việc ngày 28
tháng 09 năm 2007 ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Biểu khung thuế xuất khẩu, Biểu
khung thuế nhập khẩu ưu đãi, có hiệu lực từ ngày 1/1/2008 (theo Nghị quyết 295/2007/NQ-
UBTVQH12 của ủy ban thường vụ Quốc hội) để thay thế Biểu khung thuế cũ (Nghị quyết
977/2005).
Việc ban hành khung thuế xuất nhập khẩu mới này nhằm mục đích:
* Hạ các mức thuế suất trần và sàn của khung thuế vì hầu hết các mức thuế của nhiều mặt
hàng trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo cam kết đều thấp hơn mức trần của khung và một
số mặt hàng có mức thuế suất cam kết thấp hơn mức sàn của khung.
* Thực hiện Danh mục Biểu thuế chung ASEAN mới (AHTN 2007) vì từ năm 2008 Việt
Nam phải thực hiện theo Danh mục này.
Để thực hiện cam kết WTO, Việt Nam đã ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi với
10.680 dòng thuế chi tiết trên cơ sở Biểu khung thuế nhập khẩu gồm 1.221 nhóm mặt hàng.
Biểu khung thuế mới này giữ nguyên mức sàn khung của 1.019 nhóm hàng và giảm mức thuế
suất trần khung của 1.149 nhóm hàng (chiếm 94%) và giảm mức thuế suất sàn khung của 202
nhóm hàng (chiếm khoảng 16,5%). Đồng thời, khung thuế suất trần của một số nhóm hàng
được điều chỉnh tăng lên so với trước là dầu mỏ (từ 0-8% lên 0-20%); than đá (từ 0-5% lên 0-
20%); quặng kim loại (từ 0-3%; 0-5% và 5-20% lên thành 0-20%) và các mặt hàng được giảm

thuế suất trần và sàn là nhóm hàng phế liệu sắt thép (từ 30-40% xuống 10-30%); phế liệu kim
loại màu (từ 40-50% xuống còn 10-40%) để phù hợp với cam kết gia nhập.
Nhằm nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của thuế xuất khẩu, Nghị quyết số 710/2008/NQ-
UBTVQH12 về việc ban hành Biểu thuế xuất khẩu để sửa đổi Biểu thuế xuất khẩu cũ theo
hướng tăng mức trần của khung hiện có và bổ sung thêm khung thuế xuất khẩu cho một số
mặt hàng. Cụ thể như:
* Tăng thuế xuất khẩu: cá và động vật sống dưới nước đã hoặc chưa chế biến (từ 0-3% lên 0-
10%); dầu thô (0-20% và 2-20% lên 5-50%)
* Bổ sung một số mặt hàng có khung thuế xuất khẩu là 0% vào diện chịu thuế xuất khẩu như:
sắn (0% - 10%); khoáng sản (Pirít sắt chưa nung, đất sét, đá phấn, quặng apatit): 0% - 30%;
nhiên liệu khoáng, dầu khoáng và các nguyên nhiên liệu khác từ dầu mỏ (khí, xăng dầu, nhựa

16
đường, ): 0% - 40%
* Bổ sung khung thuế suất 0% - 20% cho các loại hàng hoá khác là vật tư, nguyên vật liệu,
bán thành phẩm; mức 0% - 10% cho các mặt hàng còn lại để dự phòng kinh tế có nhiều biến
động
Tiếp theo đó, ngày 17 tháng 10 năm 2009 ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị
quyết 830/2009/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung khung thuế suất một số nhóm hàng tại Biểu
thuế xuất khẩu kèm theo Nghị quyết số 710/2008/NQ-UBTVQH12 và sửa đổi khung thuế
suất nhóm hàng 02.01 tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi kèm theo Nghị quyết số
295/2007/NQ/UBTVQH12.Cụ thể như:
* Nhóm hàng số 29 theo Nghị quyết số 710/2008 bao gồm: da thuộc (0-25%), da sống (5-
25%) thì đến Nghị quyết 830/2009 thuế suất hàng “da thuộc” vẫn được giữ mức thuế 0-25%
nhưng hàng “da sống” đã chia cụ thể thành “da sống, trừ da sống của cá sấu” (5-25%) và da
sống của cá sấu (0-25%).
* Nhóm hàng 02.01 “thịt trâu, bò tươi và ướp lạnh” cũng đã được điều chỉnh từ thuế suất 5-
20% (Nghị quyết 295/2007) lên 5-33% (Nghị quyết 830/2009) thể hiện định hướng bảo vệ
hàng trong nước (đặc biệt là hàng nông sản) trước hàng nhập khẩu từ các nước tràn vào Việt
Nam.

Nghiên cứu các quy định về Biểu khung thuế xuất nhập khẩu do Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội ban hành, chúng ta thấy:
Thứ nhất, Biểu khung thuế xuất nhập khẩu gây ra sự thiếu ổn định trong chính sách
pháp luật, không thể hiện được rõ ràng quan điểm của Việt Nam về cắt giảm thuế quan theo
cam kết WTO, gây ra sự bị động cho các cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc ban hành
Biểu thuế xuất nhập khẩu chi tiết cũng như khó khăn cho doanh nghiệp có hoạt động xuất
nhập khẩu.
Thứ hai, Biểu khung thuế không thể hiện được lộ trình cắt giảm thuế quan nhằm thực
thi cam kết WTO, chỉ đưa ra mức thuế suất dao động để cơ quan chuyên ngành tùy vào từng
thời điểm mà ban hành mức thuế suất cụ thể nên mức thuế suất này luôn có sự điều chỉnh
mang tính chất bộc phát nên rất dễ dẫn đến việc Việt Nam vi phạm nghĩa vụ cắt giảm thuế
hàng nhập khẩu.
Ví dụ, mã hàng 0201.10.00 “thịt trâu, bò, tươi hoặc ướp lạnh - thịt nửa con và cả con
không đầu”: thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập là 35%, thuế suất cam kết cắt giảm là
30%, thời hạn thực hiện là năm 2012; tại Biểu khung thuế kèm theo Nghị quyết 295/2007 quy
định là nhóm 0201 “thịt trâu, bò, tươi hoặc ướp lạnh” với khung thuế suất “5-20%” và được
sửa đổi khung thuế suất “5-33%” (Nghị quyết 830/2009).

17
 Quy định pháp luật về thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Để thực thi cam kết WTO, ngày 20/12/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số
106/2007/QĐ-BTC kèm theo Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi (căn cứ Nghị
quyết số 295/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 28 tháng 09 năm 2007) đã bãi bỏ Quyết định số
39/2006/QĐ-BTC (căn cứ Nghị quyết 977/2005). Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu
ưu đãi này được sửa đổi khá lớn so với Biểu thuế trước đây:
* Về mặt danh mục: Danh mục biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đã được thay đổi hoàn toàn theo
Danh mục hài hoà và mô tả hàng hoá của ASEAN (AHTN 2007) đến cấp độ 8 chữ số và được
chi tiết đến cấp độ 10 chữ số và tổng số dòng thuế trong Danh mục đã được thu gọn so với
Danh mục trước đây.
* Về mặt thuế suất: Hơn 1.700 dòng thuế đã được cắt giảm mức thuế. Các mức thuế nhập

khẩu ưu đãi tại các Quyết định sửa đổi đơn lẻ đã được cập nhật thống nhất. Riêng nhóm mặt
hàng thuộc diện giảm thuế suất để thực hiện bình ổn giá tiếp tục áp dụng mức thuế suất tạm
thời quy định tại Phụ lục I. Đồng thời, mặt hàng xe ô tô đã qua sử dụng, mã hàng và thuế suất
thuế nhập khẩu ưu đãi được quy định theo từng mức đối với từng loại xe (xe ô tô chở người từ
15 chỗ ngồi trở xuống và từ 16 chỗ ngồi trở lên; các loại xe ô tô khác).
Tuy nhiên, do Quyết định 106/2007 có một số sai sót trong in ấn và thiếu sót về nội
dung nên Bộ Tài chính đã bổ sung hai quyết định để đính chính lại. Quyết định số
211/2008/QĐ-BTC ngày 01 tháng 02 năm 2008 đính chính sai sót như sau: mã số
2710.19.13.00 và 2710.19.14.00 theo Quyết định 106/2007 được in 0% được sửa lại thành
15%; đồng thời bổ sung dòng thuế 8503.00.19.00 với thuế suất là 5%. Tiếp theo đó, Quyết
định số 1474/2009/QĐ-BTC ngày 15 tháng 06 năm 2009 nhằm đính chính nhóm hàng “chì ở
dạng thanh, que và hình” như sau: theo quyết định 106/2007 “chì ở dạng thanh, que và hình”
thuộc phân nhóm 78.03 với thuế suất là 5%, được đính chính lại theo quyết định 1474/2009 là
thuộc phân nhóm 7806 và vẫn giữ nguyên thuế suất là 5%.
Ngoài ra, từ 2006 đến hết 2009, Bộ Tài chính đã ban hành khoảng 64 Quyết định và 32
Thông tư để sửa đối thuế suất xuất khẩu, nhập khẩu trong Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi của các mặt hàng riêng lẻ. Thuế suất của xăng dầu đã được sửa đổi 26 lần
(2006: 7 lần, 2007: 5 lần, 2008: 6 lần, 2009: 8 lần) hay thuế suất xe ô tô mới cũng có nhiều
thay đổi (tháng 1/2007 giảm từ mức 90% xuống còn 80% và đến tháng 8/2007 xuống còn
70% và ngày 16/11/2007 giảm xuống còn 60%; tiếp đó nửa đầu năm 2008 đã có 2 đợt tăng
thuế: tháng 3/2008 tăng từ 60% lên 70% và chỉ sau hơn một tháng Bộ tài chính đã điều chỉnh
thuế nhập khẩu tăng từ 70% lên 83%) và một số mặt hàng khác.
Việc ban hành quá nhiều văn bản điều chỉnh về thuế suất hàng hóa đã khiến cho Biểu
thuế trở nên phức tạp và thiếu tính tập trung, cần thiết phải đưa ra một Biểu thuế xuất khẩu,

18
nhập khẩu ưu đãi mới thống nhất và áp dụng chung cho toàn bộ các mặt hàng. Vì vậy, Bộ tài
chính đã ban hành Thông tư 216/2009/TT-BTC ngày 12-11-2009 để bãi bỏ Quyết định số
106/2007/QĐ-BTC ngày 20/12/2007 và các văn bản sửa đổi, bổ sung trước đó. Theo quy định
của Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi mới này:

* Cắt giảm mức thuế, cụ thể là giảm từ 1% đến 6%, trong đó mức giảm chủ yếu là 2% - 3%;
mức thuế trung bình là 10,54% (mức thuế trung bình trước đó là 11,14%). Trong đó, các mức
thuế suất phổ biến là từ 0% đến 30%, chiếm khoảng 91% tổng số dòng thuế.
* Theo biểu thuế mới, có tổng cộng 1.654 dòng thuế phải thực hiện cắt giảm theo cam kết
WTO. Đối với các nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất là xăng dầu, ô tô xe máy, linh
kiện và máy móc trang thiết bị, sắt thép thì các mức thuế dự kiến cho các nhóm này đều là
mức trần WTO (trừ xăng dầu).
+ Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu ưu đãi mới đã tập hợp các mức thuế suất đã điều
chỉnh sửa đổi, bổ sung từ đầu năm 2008 đến nay nhằm giúp cơ quan quản lý và DN dễ tra
cứu, áp dụng.
+ Biểu thuế mới cũng đã gộp thuế suất của các mặt hàng nhằm đơn giản hóa các mức
thuế suất khi thực hiện cắt giảm theo cam kết vào năm 2010. Theo đó có khoảng 40 mức thuế,
thay vì lẽ ra phải chi tiết đến hơn 130 mức thuế khi cắt giảm theo cam kết (biểu thuế trước có
64 mức thuế suất).
+ Bên cạnh những điểm mới trên, biểu thuế xuất khẩu nhập khẩu mới đã khắc phục một
số bất cập trong thực tế như tránh mức thuế suất chênh lệch quá lớn, khắc phục bất hợp lý về
mức thuế suất giữa nguyên liệu, phụ tùng linh kiện và thành phẩm, xây dựng mức thuế suất
giống nhau đối với các mặt hàng có tính chất tương tự để hạn chế gian lận thương mại.
Tuy nhiên, trước ngày Biểu thuế mới được ban hành kèm theo Thông tư 216/2009 chính
thức có hiệu lực thi hành từ 1/1/2010; ngày 25 tháng 12 năm 2009 Bộ Tài chính đã ban hành
Quyết định 3291/2009/QĐ-BTC đính chính Thông tư 216/2009 nhằm đính chính mô tả và
thuế suất mã số thuộc nhóm 25.01, 30.03, 84.71. Theo đó, mã hàng 2501.00.41.20 và
2501.00.49.20 “muối tinh khiết” được đính chính lại mức thuế suất là 10% (tại Thông tư 216
là 15%); 3003.10.20.00 “chưa ampicilin (INN) hoặc muối của nó ” là 7% và 8471.50.50.00
“bộ xử lý dùng cho máy tính cá nhân (kể cả loại máy tính xách tay” là 3%. Quyết định này
cũng có hiệu lực thi hành từ 1/1/2010 và là một phần không tách rời của Thông tư
216/2009/TT-BTC ngày 12/11/2009 của Bộ Tài chính.
Có thể thấy, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện nay chỉ mang tính chất luật
khung, quy định những điểm cơ bản và tổng quát nhất về đối tượng điều chỉnh, hoạt động thu
và nộp thuế còn những vấn đề quan trọng và nhạy cảm nhất như thuế suất, giá tính thuế…lại

quy định cụ thể, chi tiết ở những văn bản dưới luật với tính ổn định không cao. Chính điều

19
này đã ảnh hưởng đến tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và từ đó khó đáp ứng
được đòi hỏi về tính minh bạch, công khai của pháp luật thuế xuất nhập khẩu cũng như
nguyên tắc cơ bản của WTO.
2.1.2.3. Cơ sở điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt
Nam thực thi cam kết gia nhập WTO
Qua phân tích thực trạng trên, chúng ta có thể thấy rằng, việc sửa đổi và bổ sung pháp
luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO, trên thực tế
nhằm phục vụ cho mục đích quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của
hàng hóa khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
Những thay đổi trong quy định pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam từ Nghị
quyết 295/2007/NQ-UBTVQH12 ra đời cho đến khi một loạt các văn bản liên tục được ban
hành sau khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay đã phản ánh những thay đổi trong nhận thức
của các nhà làm luật cũng như các nhà quản lý đối với yêu cầu điều chỉnh, thay đổi hệ thống
pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam để thực thi cam kết WTO. Việt Nam đang ở
giai đoạn đầu của quá trình tiếp cận thị trường thương mại quốc tế cũng như thực thi cam kết
WTO, do vậy cần có những bước đi phù hợp để đảm bảo phát huy năng lực và thế mạnh của
các doanh nghiệp trong nước đồng thời tuân theo đúng lộ trình cam kết WTO để tránh vi
phạm nguyên tắc thực thi cam kết.
Qua phân tích trên, có thể thấy việc điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất nhập khẩu
khi Việt Nam gia nhập cam kết WTO dựa trên một số cơ sở thực tiễn sau:
Thứ nhất, nhận thức của những nhà làm luật, nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước là
yếu tố hàng đầu tác động đến điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu. Đã có thời kỳ (thời
kỳ bao cấp), chúng ta kêu gọi phát triển sản xuất với mục tiêu cung cấp toàn bộ sản phẩm và
dịch vụ tiêu dùng nội địa, chỉ xuất khẩu nếu có dư thừa đưa đến tình trạng “bế quan tỏa cảng”,
hạn chế rất nhiều sự “giao thoa” giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Hiện nay,
chúng ta vẫn thấy có sự không phù hợp trong hoạt động đầu tư, đó là việc đổ dồn tiền và công

sức để sản xuất một loại hàng hóa trong khi hàng hóa đó nếu nhập khẩu sẽ rẻ hơn về kinh phí
và tốt hơn về chất lượng. Vì vậy, trong giai đoạn mới gia nhập WTO này, chúng ta vẫn thấy
pháp luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa có một chiến lược định hướng rõ ràng cho
việc thực thi cam kết WTO vì trong nhận thức của nhà làm luật và nhà quản lý vẫn còn sự
mâu thuẫn và phân vân về thuế suất nhằm bảo hộ nền kinh tế trong nước và “mở cửa” để gia
nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế (WTO) và khu vực

20
(ASEAN, AFTA, APEC) đã và đang đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng và sửa đổi, bổ sung hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, chính việc vừa thực hiện yêu cầu cắt giảm thuế
quan theo WTO, vừa thực hiện cắt giảm thuế theo các Hiệp định song phương và khu vực dẫn
đến việc song song tồn tại nhiều Biểu thuế và mức thuế suất đối với cùng một loại hàng hóa
(thuế suất khác nhau phụ thuộc vào nguồn gốc hàng hóa từ nước, khu vực nào) làm cho hệ
thống pháp luật thuế của Việt Nam phức tạp, khó theo dõi cũng như gặp khó khăn trong việc
phân loại và quản lý thuế suất xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ ba, năng lực sản xuất trong nước còn thấp kém cũng là một yếu tố được tính toán,
cân nhắc trong việc xây dựng pháp luật đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, trong khi
năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức cạnh tranh với hàng hóa nhập
khẩu thì quốc gia sẽ áp dụng, trong phạm vi tối đa có thể, các biện pháp nhằm bảo hộ nền sản
xuất trong nước mà vẫn không vi phạm cam kết của WTO. Tuy nhiên, trong quá trình cắt
giảm thuế quan để thực thi cam kết WTO thời gian qua, các nhà hoạch định chính sách của
Việt Nam chưa thực sự đứng từ góc nhìn có lợi cho doanh nghiệp trong nước: chưa có một lộ
trình cắt giảm thuế cụ thể mà thường là tùy theo quyết định của cơ quan hoạch định chính
sách hoặc xây dựng lộ trình giảm thuế nhập khẩu từ từ đủ để doanh nghiệp trong nước có thể
làm quen với sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài vào thị trường Việt Nam.
Thứ tư, yêu cầu của quá trình chuyên môn hóa và phân công sản xuất quốc tế. Trong
quá trình hội nhập kinh tế thế giới, mỗi quốc gia phải xác định được lợi thế so sánh của quốc
gia mình (đặt biệt là lợi thế từ điều kiện tự nhiên như: khí hậu, đất đai, thủy văn ) để xác
định phương thức tiếp cận và xây dựng vị trí của quốc gia mình trong nền kinh tế thế giới.Do

vậy, việc xây dựng pháp luật cũng phải tính toán đến những tác động cạnh tranh từ các quốc
gia khác để đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp trong nước và lợi ích của quốc gia.Tuy
nhiên, việc điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam còn mang tính chủ
quan, tức là nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu
mà không xuất phát từ các yếu tố mang tính bản chất của hoạt động xuất nhập khẩu trong quá
trình Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO.
2.2. phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều
kiện việt nam thực thi cam kết wto
2.2.1. Các yêu cầu đặt ra đối với pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO
Hoàn thiện pháp luật và tăng cường điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra các yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng về
mặt quản lý nhà nước và đối với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nói riêng

21
cũng như tổng thể nền kinh tế nói chung. Các yêu cầu cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, yêu cầu khắc phục những tồn tại của pháp luật thuế xuất nhập khẩu hiện
hành. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các đối
tượng và nguồn thu. Biểu thuế suất của Việt Nam phức tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng
thuế, nhiều nhóm hàng, mặt hàng có nhiều mức thuế suất khác nhau, giữa các mức thuế lại có
sự chênh lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp
thuế lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ cần khai
báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi hơn hoặc chỉ cần
khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau khi nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi
kết cấu thành loại hàng hóa có trị giá thương mại cao hơn.
Thứ hai, yêu cầu hoàn thiện pháp luật thuế xuất nhập khẩu phải bảo đảm sự bảo hộ
đúng đắn nền sản xuất trong nước. Bảo hộ sản xuất trong nước cũng là một trong những chức
năng của thuế nhập khẩu. WTO có những ưu đãi về thuế nhập khẩu và các loại thuế nhập
khẩu bổ sung. Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu phù hợp để bảo hộ
một cách hợp lý nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh khốc liệt của xu hướng toàn cầu

hóa thương mại.
Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật thuế xuất nhập khẩu phải đảm bảo xác định số thu
ngân sách nhà nước giảm tương đối sát thực tế, và thực hiện theo đúng tiến trình giảm thuế
theo cam kết, đồng thời tạo ra sự thay đổi cơ cấu nguồn thu từ thuế hợp lý vì trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng giảm dần thuế nhập khẩu sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách nhà nước.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu phải hướng tới một hệ thống pháp luật
thống nhất, đồng bộ, có tính ổn định cao, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế trong nước và quốc tế.
2.2.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế xuất nhập khẩu ở
Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
Trên thực tế, Việt Nam mới gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) được 03
năm và đang ở giai đoạn đầu tiên trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và do đó còn
nhiều vấn đề phải quan tâm để các quy định về thuế xuất khẩu, nhập khẩu vừa áp dụng hiệu
quả trên thực tế vừa đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ của Việt Nam trong quá trình thực thi cam
kết WTO. Tuy nhiên, để thực thi các yêu cầu từ cam kết quốc tế (WTO) một cách đầy đủ, hợp
thức cũng như sức ép từ chính sách cải cách kinh tế, Việt Nam cần định ra các phương hướng
chiến lược và các giải pháp sách lược để hoàn thiện pháp luật thương mại nói chung và pháp
luật đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói riêng.

22
2.2.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt
Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
 Hoàn thiện pháp luật dựa trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng
về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập và pháp luật đã được nêu ra trong Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Từ nay đến năm 2010 và các năm tiếp theo,
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập
trung vào một số lĩnh vực pháp luật kinh tế trọng điểm, đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế”.

Với chủ trương đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập kinh tế quốc tế, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật đối với thuế xuất khẩu,
nhập khẩu ở Việt Nam cần phải:
- Bảo đảm phù hợp với đường lối xây dựng chính sách, pháp luật thương mại;
- Đảm bảo sự tương thích và phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, phù
hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
 Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu với
cam kết quốc tế của Việt Nam khi gia nhập WTO
Sự tương thích này đi liền với các hoạt động sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ các văn bản quy
phạm pháp luật trong nước không tương thích hoặc trái ngược với các cam kết khi trở thành
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới, bên cạnh các bảo lưu được phép.
Để đảm bảo tính đồng bộ, thống đòi hỏi sự thực thi các nguyên tắc pháp lý trong tiếp
cận pháp luật quốc tế, bao gồm các nội dung: tính đến nội dung cam kết WTO khi xây dựng
và ban hành văn bản, xem xét tham khảo và quyết định chuyển hoá thành quy định của pháp
luật trong nước dưới nhiều hình thức như ban hành văn bản mới; sửa đổi, bổ sung các văn bản
hiện hành hoặc huỷ bỏ văn bản không phù hợp; thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật;
ưu tiên áp dụng các cam kết WTO trong trường hợp quy định của cam kết khác với quy định
của pháp luật quốc gia.
2.2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Trên cơ sở cụ thể hóa các phương hướng trên đây, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ bao gồm:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.

23
Cụ thể là:
- Tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu và các văn bản hướng dẫn khác;
- Hệ thống hóa pháp luật theo lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu; phân tích, so sánh đối
chiếu với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, loại bỏ những văn bản đã hết hiệu

lực, bãi bỏ các văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo; xây dựng mới các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu;
- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế, thực hiện
cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế suất nhập khẩu, biểu thuế xuất nhập khẩu theo lộ trình
cam kết WTO.
- Cần tăng cường thông tin về chính sách cắt giảm thuế quan theo lộ trình thực hiện cam
kết WTO; ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trong các lĩnh vực xác định giá trị hải
quan theo các nguyên tắc của Hiệp định GATT.
Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý điều hành công tác thuế xuất
khẩu, nhập khẩu.
Cụ thể là:
- Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ quản lý nhà nước, trình độ chuyên môn bằng
cách: cập nhật kiến thức pháp luật, hiểu đúng và đầy đủ hệ thống các văn bản quy phạm có
liên quan, nắm vững các thông lệ thương mại quốc tế đặc biệt là cam kết của Việt Nam về
thuế xuất nhập khẩu;
- Chú trọng khâu tuyển dụng đối với đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực quản lý,
điều hành thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm mục đích thu hút được những cán bộ có trình độ
chuyên môn, có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt;
- Tập trung đầu tư hệ thống trang thiết bị, phương tiện làm việc đáp ứng được với nhu
cầu giải quyết công việc, đảm bảo việc cập nhật thông tin, kiến thức, tin học hóa công tác
quản lý nhà nước
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống cơ quan nhà nước tham gia quản lý, điều hành hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu.
Cụ thể là:
- Giảm thiểu những biện pháp quản lý mang tính chất hành chính;
- Tổ chức kênh đối thoại về xây dựng thể chế giữa các Bộ quản lý chuyên ngành, các
doanh nghiệp để ban hành các văn bản pháp luật phù hợp nhằm tháo gỡ vướng mắc cho doanh

24
nghiệp;

- Hình thành cơ quan đầu mối giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc nhận diện và
áp dụng các biện pháp tự vệ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu;
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tham gia quản lý, điều hành hoạt động
xuất khẩu khẩu nhằm mục đích giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh trong thực
tiễn.
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập
khẩu. Cụ thể là:
- Tăng cường thông tin cho doanh nghiệp về chính sách, pháp luật, đặc biệt trong các
lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, lộ trình cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế
của Việt Nam.
- Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đi
kèm với các biện pháp xử lý nghiêm khắc và kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về xuất
khẩu, nhập khẩu.
Kết luận chương 2
Trong Chương này, luận án đã tập trung làm rõ các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, quy định pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam theo tiến trình từ khi
Việt Nam gia nhập WTO đến nay và phân tích những biến đổi và thiếu sót của luật nhằm đưa
ra những kết luận để đánh giá về thực trạng của pháp luật Việt Nam trong điều kiện thực thi
cam kết WTO.
Thứ hai, Luận văn đã đưa ra một số phương hướng để hoàn thiện pháp luật: thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật trong nước
với cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật: hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật; nâng cao năng lực
của đội ngũ cán bộ quản lý; hoàn thiện hệ thống cơ quan nhà nước tham gia quản lý, điều
hành; nâng cao ý thức pháp luật của doanh nghiệp.
Kết luận chung
Việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu là một chặng đường không dễ
dàng. Pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu có thể được xem có tính hệ
thống với rất nhiều văn bản, từ luật cho đến các Nghị định, thông tư, liên quan đến hàng loạt
các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu với hàng

loạt các quy định liên quan về : Quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu); Quy định về nhập
khẩu; Thuế hải quan; Các loại thuế và phí khác; Hạn ngạch thuế quan, miễn giảm thuế; Việc

25
áp dụng thuế nội địa; Hạn chế định lượng nhập khẩu: cấm, hệ thống giấy phép nhập khẩu và
hạn ngạch; Xác định Trị giá hải quan; Những quy định về xuất xứ; Các thủ tục hải quan khác;
Chống bán phá giá, thuế đối kháng, các biện pháp tự vệ; Thuế quan, phí và lệ phí dịch vụ, áp
dụng thuế nội địa đối với hàng xuất khẩu; Hạn chế xuất khẩu; Chính sách trong nước ảnh
hưởng tới xuất nhập khẩu hàng hóa;
Do vậy, còn nhiều vấn đề trên phương diện lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục
nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn khung pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, đảm
bảo quyền lợi và cơ hội xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam và xây dựng cơ sở pháp luật
vững chắc và tiếp cận dần đến các quy định chung của WTO. Từ góc độ tiếp cận đó, bản luận
văn này đã cố gắng phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về thuế xuất
nhập khẩu nhằm mục đích phân tích bản chất và đặc điểm của thuế xuất nhập khẩu, đánh giá
thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu, nhận diện và phân tích một số vấn đề liên quan
và đưa ra một số quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Thiết nghĩ, đây là một nhiệm vụ cần huy động được tâm huyết của các nhà hoạch định chính
sách, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực liên quan và cần mang
tính chiến lược tổng thể, một mặt phải giải quyết được những nhiệm vụ trước mắt, đồng thời
bao quát những giải pháp lâu dài. Tác giả của luận văn hy vọng rằng những nghiên cứu nêu ra
tại luận văn này sẽ có thể góp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thuế xuất
nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.

References
1. Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Bỏo cỏo một năm thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Bộ Tài chớnh, Vụ
Chớnh sỏch thuế, Hà Nội 2006
2. Bỏo cỏo Hoạt động thương mại năm 2005 và phương hướng cụng tỏc năm 2006, Bộ
Thương mại (nay là Bộ Cụng Thương), Hội nghị Thương mại toàn quốc, thỏng 3/2006

3. Bộ Ngoại giao (2000), Tổ chức thương mại thế giới, NXB Chớnh trị Quốc gia, Hà
Nội.
4. TS. Nguyễn Minh Chớ, TS. Phạm Thế Hưng, CN Triệu Thị Thanh Hương, (2004),
Cỏc điều ước quốc tế về thương mại, NXB Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Bựi Hữu Đạo (Vụ Khoa học – Bộ Thương mại (nay là Bộ Cụng Thương)), Hệ thống
quản lý chất lượng - cụng cụ để nõng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế;

×