Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.2 KB, 27 trang )

Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

Hoàng Thu Hằng

Khoa Luật
Luận án TS ngành: Luật kinh tế; Mã số: 62 38 50 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ; PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của hoạt động BHTG và
pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Nghiên cứu và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh
của pháp luật đối với quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG ở Việt Nam. Làm
sáng tỏ những vấn đề lí luận của pháp luật về hoạt động BHTG. Nghiên cứu ở góc độ pháp lí các
mô hình hoạt động BHTG trên thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam. Phân tích và làm sáng tỏ
thực trạng pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Trong đó, đánh giá những mặt tích cực và
những hạn chế của hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành của Việt Nam. Nghiên cứu
và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Hoạt động ngân hàng; Bảo hiểm tiền gửi

Content
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thực tiễn đã chứng minh, hoạt động ngân hàng giữ vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, hoạt động của các TCTD, NHTM luôn tiềm ẩn những rủi ro. Để phòng ngừa, khắc phục các rủi ro
trong kinh doanh, các TCTD, NH đã và đang áp dụng khá nhiều biện pháp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
dù đã áp dụng đồng thời các biện pháp phòng ngừa rủi ro, nhưng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
TCTD, NHTM vẫn không bị loại trừ triệt để. Nhất là các rủi ro xảy ra ngoài phạm vi kiểm soát của TCTD,
NHTM. Hoạt động BHTG ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội là bảo vệ quyền và lợi ích của người
gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp tổ chức gặp rủi ro trong kinh doanh tới mức bị


phá sản. Thông qua đó giúp củng cố niềm tin của người gửi tiền tại các tổ chức thuộc hệ thống NH quốc
gia. Đồng thời góp phần bảo đảm sự an toàn, lành mạnh của hệ thống NH.
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động BHTG đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho hoạt động
của tổ chức thực hiện hoạt động BHTG ở Việt nam. Người dân đã quen với sự có mặt của tổ chức BHTG
Việt Nam trong hoạt động NH. Tổ chức tham gia BHTG đã có trách nhiệm hơn đối với hoạt động kinh
doanh của mình cũng như đối với việc bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền. Có thể khẳng định rằng,
bước đầu, pháp luật về hoạt động BHTG đã giúp cho hoạt động NH trở nên ổn định, an toàn và lành
mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà pháp luật về hoạt động BHTG mang lại cho xã hội, pháp luật
về hoạt động BHTG cũng đã bộc lộ những bất cập, hạn chế đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện
hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận án.
* Về mục đích nghiên cứu, với Đề tài nghiên cứu là “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam”, Luận án nghiên cứu tổng thể các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ BHTG. Luận án xác
định rõ mục đích nghiên cứu là làm sáng tỏ cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của sự điều chỉnh pháp luật đối
với quan hệ BHTG. Trên cơ sở đó, Luận án đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt
Nam.
* Về nhiệm vụ nghiên cứu:Nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự ra đời và phát triển của hoạt động
BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG; Nghiên cứu và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối
với quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG ở Việt Nam; Làm sáng tỏ những vấn đề lí
luận của pháp luật về hoạt động BHTG; Nghiên cứu ở góc độ pháp lí các mô hình hoạt động BHTG trên
thế giới và khả năng áp dụng ở Việt Nam; Phân tích và làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về hoạt động
BHTG ở Việt Nam. Trong đó, đánh giá những mặt tích cực và những hạn chế của hệ thống pháp luật về
hoạt động BHTG hiện hành của Việt Nam; Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
* Về đối tượng nghiên cứu, Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau: Những vấn đề lí
luận cơ bản về hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG; những yếu tố tác động quá trình hình
thành và phát triển của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG; Thực trạng pháp luật về hoạt
động BHTG của Việt Nam và tham chiếu qui định pháp luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia trên
các nội dung như: Địa vị pháp lí của các chủ thể trong quan hệ pháp luật BHTG. Trong đó, tập trung

nghiên cứu về địa vị pháp lí của chủ thể thực hiện hoạt động BHTG ở Việt Nam - tổ chức BHTGVN; Mô
hình hoạt động BHTG; Công cụ thực hiện hoạt động BHTG; Nội dung hoạt động BHTG; Những định
hướng, yêu cầu và đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
*Về phạm vi nghiên cứu:
- Hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam: Luận án tập trung nghiên cứu các
văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam được ban hành từ năm 1994 trở lại đây. Cụ thể, từ
khi Nhà nước ta ban hành Quyết định số 101/TC-QĐ-BH ngày 01/01/1994 của Bộ tài chính về Qui tắc
bảo hiểm trách nhiệm của Quĩ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kì hạn. Đó là văn bản pháp luật
đầu tiên của Việt Nam về hoạt động BHTG.
- Hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của các quốc gia trên thế giới: Luận án lựa chọn
nghiên cứu các văn bản pháp luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia trên thế giới. Cụ thể, pháp luật
về hoạt động BHTG của Mĩ, trong đó chú ý đến Luật BHTG được ban hành từ năm 1829. Bởi vì, đây là
quốc gia triển khai áp dụng hoạt động BHTG đầu tiên trên thế giới và mô hình hoạt động BHTG hiện nay
được đánh giá là hiện đại nhất. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, Luận án cũng dành sự quan tâm
đáng kể đến việc nghiên cứu pháp luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia ở khu vực Châu Á như
Hàn Quốc, Đài Loan, Sinhgapo và khu vực Châu Âu như Đức, Canada.
- Các công trình khoa học: khi nghiên cứu về hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG,
Luận án còn tham khảo các công trình khoa học trong và ngoài nước dưới giác độ kinh tế - tài chính và
pháp lí.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu. Luận án nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam” dựa
trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác - Lên nin. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện
đề tài này, Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Phương pháp duy vật biện
chứng; Phương pháp duy vật lịch sử; Các phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống; Phương pháp so
sánh
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận án. Những kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm
sáng tỏ về phương diện lí luận trong khoa học pháp lí của hoạt động BHTG như khái niệm về hoạt động
BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG, bản chất kinh tế, bản chất pháp lí của hoạt động BHTG, khía
cạnh pháp lí của các mô hình hoạt động BHTG. Trên cơ sở đó, Luận án đánh giá thực tiễn áp dụng pháp
luật về hoạt động BHTG của Việt Nam hiện hành, chỉ ra những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp
luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho

hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nhà hoạch định chính sách. Đồng thời, đó
cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các hoạt động nghiên cứu, học tập về pháp luật tài chính, NH và
BHTG ở Việt Nam.
5. Kết cấu của Luận án. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án kết
cấu gồm 4 Chương.

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
1.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới. Hoạt động BHTG được ra đời với mục tiêu là “bảo vệ
người gửi tiền” từ thế kỉ 19 tại Mĩ. Những thành công của hoạt động BHTG tại quốc gia này đã góp phần
quan trọng làm cho loại hình BH đặc thù này “mở rộng” phạm vi hoạt động sang các quốc gia châu Âu
vào những năm 1960 và tiếp đó là các quốc gia châu Á. Một điểm khác biệt so với Việt Nam là tại các
quốc gia, Luật về BHTG được ban hành trước khi thiết lập và triển khai các hoạt động BHTG. Do đó,
song song với hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nhà nước, hoạt
động nghiên cứu về BHTG và pháp luật về BHTG cũng trở nên sôi động. Do phạm vi nghiên cứu của
Luận án, chỉ đề cập đến một số nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu sau đây: 1)Cuốn
Deposit Insurance around the world - A date base, các nhà nghiên cứu đã phân tích một số vấn đề lí luận
về BHTG; thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTG tại các quốc gia trên thế giới (68); đánh giá những thành
công, hạn chế của pháp luật các quốc gia trên các mặt như thiết kế hệ thống BHTG, mô hình hoạt động
BHTG, một số nội dung hoạt động BHTG. Những nghiên cứu của các tác giả có ý nghĩa rất lớn để các nhà
nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách ở mỗi quốc gia tham khảo. 2)Cuốn Deposit insurance and the
appropriate institutions được nhà nghiên cứu Gillian G. H. Garcia hoàn thành vào năm 2002 đã phân tích
sâu sắc về sự cần thiết của hoạt động BHTG, vai trò của BHTG đối với hoạt động của hệ thống tài chính,
NH ở các quốc gia. Đặc biệt, đưa ra kinh nghiệm thiết lập hệ thống BHTG phù hợp với các điều kiện về
kinh tế, xã hội ở các quốc gia. 3)cuốn Structuring a deposit insurance system from the Asian perspective
của Nhà nghiên cứu Choi J. B. đã phân tích các vấn đề lí luận về BHTG, cơ sở của việc thiết kế các qui
định pháp luật về BHTG và thực tiễn hoạt động BHTG tại các quốc gia châu Á. Mô hình hoạt động
BHTG và nội dung hoạt động BHTG không được thiết kế để áp dụng chung đối với tất cả các quốc gia
khác nhau. Tại các quốc gia châu Á, do các yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán, lịch sử, văn hóa,

cơ cấu một hệ thống BHTG phải được thiết kế phù hợp.
1.1.2.Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Tình hình nghiên cứu dưới giác độ kinh tế - tài chính. Ở giác độ kinh tế - tài chính, đã có khối lượng
lớn các công trình nghiên cứu về BHTG. Các công trình nghiên cứu đó có thể chia làm các nhóm như
nhóm Luận văn, Luận án nghiên cứu về BHTG; nhóm bài báo về BHTG.
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu thuộc Luận văn, Luận án, Đề tài khoa học nghiên cứu về
BHTG. Trong nhóm này, phải kể đến các “đại diện” sau:
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Lê Thị Kim Oanh, 2004, về “Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam”, bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng, Hà Nội; Luận án đã nghiên cứu công
phu những điều kiện về kinh tế, xã hội, tài chính, NH tác động đến sự hình thành và phát triển của BHTG
ở các nước và ở Việt Nam; đánh giá thực trạng hoạt động BHTG ở Việt Nam; phân tích những phương
hướng nâng cao hoạt động BHTG ở Việt Nam.
- Luận án Tiến sĩ của Đào Văn Tuấn năm 2005, với Đề tài: “Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Học viện Ngân Hàng, Hà Nội đã phân tích thực
trạng hoạt động BHTG ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế. Luận án đã
phân tích những giải pháp mang tính chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG ở Việt Nam
trong bối cảnh các NH thực sự tham gia vào cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực NH.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thu Hương về “Hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam trong thời kì hội nhập” được bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2010 đã đề cập đến
một số nội dung về hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Việt Nam, thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế sâu và rộng như hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hiển về “Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ” bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2008 cũng nghiên cứu một
số nội dung trong hoạt động BHTG ở Việt Nam, vai trò, chức năng của tổ chức BHTGVN trong việc thực
hiện các hoạt động BHTG, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTGVN nhằm thực
hiện các mục tiêu đặt ra.
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Học viện của Học viện Ngân hàng được thực hiện và bảo vệ
thành công năm 2009 với tên gọi “Bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo đảm an toàn tài chính quốc gia tại
Việt Nam - thực trạng và giải pháp” có đưa ra một số vấn đề lí luận về BHTG, vai trò của BHTG trong
việc bảo đảm an toàn tài chính quốc gia, chỉ ra những mặt tích cực của BHTG và những mặt tiêu cực của

BHTG trong việc bảo đảm vai trò đó và nguyên nhân của những mặt tiêu cực nói trên, đề ra một số giải
pháp nâng cao chất lượng của BHTG trong việc bảo đảm an toàn tài chính ở Việt Nam…
Thứ hai, nhóm bài báo nghiên cứu về BHTG. Từ năm 2000, khi hoạt động BHTG bắt đầu triển khai
thực hiện tại Việt Nam, đã có rất nhiều bài báo, bài tham luận của các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh
vực kinh tế, nhà quản lí trong lĩnh vực tài chính, NH (như PGS.TS Lê Hoàng Nga - Học viện Ngân hàng;
TS Lê Thị Kim Oanh; Ths Thúy Sen…) được đăng tải trên các tạp chí như Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí tài
chính tiền tệ, các tờ báo điện tử, các website của BHTG Việt Nam, NHNN Việt Nam…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu dưới giác độ kinh tế - tài chính về BHTG đã xây dựng được một
số vấn đề thuộc hệ thống lí luận về BHTG, đánh giá thực trạng hoạt động nghiệp vụ của BHTG Việt Nam,
đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức BHTG Việt Nam, bảo đảm
quyền và lợi ích của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn cho cả hệ thống NH Việt Nam trong thời kì
hội nhập. Đó là hệ thống tri thức có giá trị rất lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Tình hình nghiên cứu dưới giác độ pháp lí. Bên cạnh các công trình nghiên cứu khoa học về BHTG
dưới giác độ kinh tế - tài chính, cho đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu ở giác độ pháp lí với
những qui mô khác nhau về pháp luật điều chỉnh quan hệ BHTG. Trong phạm vi liên quan đến Đề tài
nghiên cứu của Luận án, có thể kể đến các công trình nghiên cứu đáng chú ý như sau:
- Cuốn Chuyên khảo “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” của TS. Lê Thị Thu Thuỷ được ra
đời năm 2008 (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội). Đây là công trình nghiên cứu có qui mô lớn nhất
cho đến thời điểm này về pháp luật điều chỉnh quan hệ BHTG ở Việt Nam.
Chuyên khảo đã đề cập khái quát về sự hình thành của BHTG trên thế giới, ở Việt Nam; một số vấn đề
lí luận cơ bản về BHTG như khái niệm BHTG, đặc trưng của BHTG, hạn chế của BHTG; nội dung pháp
luật về BHTG của Việt Nam; khảo sát thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam và đề xuất một số
phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam.
Tuy nhiên, Chuyên khảo còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề cần nghiên cứu như chưa xây dựng hệ thống lí luận
pháp luật về hoạt động BHTG; chưa có những đánh giá về bản chất pháp lí của hoạt động BHTG; chưa
làm rõ sự tương đồng, khác biệt giữa hoạt động BHTG và hoạt động BHTM; chưa có những phân tích về
khía cạnh pháp lí của các mô hình hoạt động BHTG; chưa khảo sát toàn diện thực trạng pháp luật về hoạt
động BHTG Việt Nam… Tuy vậy, mặc dù nội dung nghiên cứu còn ở mức khái quát nhưng Chuyên khảo
đã trở thành tiền đề để các nhà khoa học, nhà quản lí tiếp tục nghiên cứu về giác độ pháp lí của hoạt động
BHTG - một loại hình hoạt động BH đặc thù trong nền kinh tế.

- Bài viết: “Mô hình bảo hiểm tiền gửi hiện nay và những vấn đề quan tâm khi xây dựng Luật bảo hiểm
tiền gửi” của TS. Đinh Dũng Sỹ. Trong đó, TS Đinh Dũng Sỹ đã phân tích khía cạnh pháp lí của các mô
hình BHTG như mô hình BHTG chuyên chi trả, mô hình BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình
BHTG giảm thiểu rủi ro.
- Bài viết: “Bàn về mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kì hội nhập quốc tế” của TS. Lê Thị Thu
Thuỷ cũng đã phân tích khía cạnh pháp lí của các mô hình BHTG trên thế giới; đưa ra một số kiến nghị
về việc thiết lập mô hình BHTG ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Bài viết: “Địa vị pháp lí của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” của TS. Đinh Dũng Sỹ. Trong đó, Tác
giả bài báo đã có những nghiên cứu về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG Việt Nam hiện nay, xu hướng xác định
vị trí pháp lí có tính “độc lập tương đối”của tổ chức BHTG, nhằm bảo đảm hiệu quả các hoạt động BHTG.
- Bài viết: “Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề an toàn tín dụng” của TS. Đinh Dũng Sỹ. Trong đó, Tác giả
bài báo phân tích sâu sắc bản chất của hoạt động tín dụng, NH; tính rủi ro của hoạt động đó; vai trò của
BHTG trong bảo đảm an toàn đối với hoạt động tín dụng, NH; đưa ra các yêu cầu trong việc thiết lập các
qui định pháp luật về BHTG nhằm bảo đảm sự an toàn đối với hoạt động tín dụng, NH.
- Bài viết: “Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam thực
trạng và phương hướng hoàn thiện”, được đăng trên Thông tin BHTGVN, số 3, năm 2007 của GS.TSKH
Đào Trí Úc. Bài viết đã đề cập đến các qui định của pháp luật về BHTG của Việt Nam trong vấn đề bảo vệ
người gửi tiền; đánh giá những yếu tố kinh tế, xã hội tác động đến việc hoàn thiện các qui định pháp luật
Việt Nam về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG.
- Chuyên đề nghiên cứu mang tên: “Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ
người gửi tiền và bảo đảm an sinh xã hội” đã phân tích bản chất của BHTG, phân tích các mô hình BHTG
trên thế giới, vai trò của BHTG đối với việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và
phương hướng xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền tại tổ chức tham gia
BHTG.
- Ngoài ra, nhiều bài báo được các chuyên gia pháp lí, chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế - tài chính đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành pháp lí như Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật,…
hoặc ý kiến các Đại biểu Quốc hội và ý kiến các chuyên gia trao đổi tại các Hội thảo chuyên ngành về xây
dựng Luật BHTG ở Việt Nam; Toàn bộ hồ sơ Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi được xây dựng từ tháng 9
năm 2011 đến trước ngày 18/6/2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
18/6/2012 cũng được Tác giả của Luận án quan tâm nghiên cứu khi thực hiện Đề tài nghiên cứu này.

- Luận án tiến sĩ của Bùi Hữu Toàn về “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế” mới được bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học xã hội vào tháng 8 năm 2012 cũng đã
phân tích khái quát một số vấn đề lí luận về BHTG, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến pháp luật về
BHTG, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam.
1.1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu
Đánh giá khái quát: có thể nhận thấy, các công trình đã nghiên cứu với các mức độ khác nhau đến
những vấn đề thuộc hai nhóm sau đây:
Một là, nhóm những nghiên cứu các qui định pháp luật về BHTG như: Các chủ thể trong quan hệ
BHTG, bao gồm chủ thể thực hiện hoạt động BHTG, chủ thể tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức
tham gia BHTG, chủ thể quản lí nhà nước về BHTG, chủ thể giám sát tài chính trong mạng an toàn tài
chính quốc gia; Mô hình BHTG và các vấn đề liên quan đến thiết kế một mô hình BHTG; Các nội dung
hoạt động BHTG như hoạt động cấp Giấy chứng nhận BHTG, giao kết hợp đồng BHTG; thu nộp phí
BHTG; kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG; hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG; chi
trả BHTG; thanh lí tổ chức tham gia BHTG; Quĩ BHTG như cơ chế tạo lập quĩ BHTG, quản lí quĩ BHTG,
sử dụng quĩ BHTG…
Hai là, nhóm những nghiên cứu về thực hiện các qui định pháp luật về BHTG; đánh giá việc thực thi
pháp luật về BHTG.
Về kết quả nghiên cứu: Một là, đã khái quát được ở một mức độ nhất định những nội dung cơ bản của
hoạt động BHTG, các qui định của pháp luật về hoạt động BHTG và thực tiễn áp dụng. Hai là, đã có đánh
giá trên một số khía cạnh về thực trạng của pháp luật về hoạt động BHTG và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam. Ba là, đã đặt tiền đề cho các hoạt động nghiên cứu về quan hệ BHTG, hoạt động BHTG và hoàn
thiện pháp luật về BHTG nói chung và hoạt động BHTG nói riêng.
Các vấn đề được đặt ra: Một là, các nghiên cứu liên quan đến BHTG và pháp luật về BHTG được
thực hiện trong thời kì Việt Nam chưa có Luật BHTG. Hệ thống qui định pháp luật về BHTG chỉ được thể
hiện trong các văn bản dưới luật và mang tính tản mạn, không đồng bộ. Hai là, các công trình nghiên cứu
cũng đã đề cập đến một số quan diểm lí luận về BHTG, quan hệ BHTG, nhưng chưa phân tích một cách
sâu sắc tính đặc thù của quan hệ BHTG, hoạt động BHTG, những yếu tố tác động đến việc xây dựng luật
BHTG, cơ sở để xây dựng một mô hình hoạt động BHTG phù hợp điều kiện thực tế ở Việt Nam. Ba là,
các kiến nghị, đề xuất mang tính đơn lẻ chỉ đề cập đến việc sửa đổi, bổ sung các qui định về các vấn đề
khác nhau liên quan đến BHTG trong các văn bản pháp luật hiện hành, mặc dù các nghiên cứu có hướng

đến việc góp ý xây dựng Luật BHTG, chưa có những phân tích sâu sắc, đầy đủ về cơ sở kinh tế, xã hội
của những đề xuất đó.
Trong bối cảnh tình hình nghiên cứu như trên, việc chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền
gửi ở Việt Nam” là nhằm giải quyết các vấn đề sau đây: Thứ nhất, làm rõ cơ sở lí luận của pháp luật về
hoạt động BHTG. Vấn đề này được dựa trên hai yếu tố cơ bản: i) làm rõ bản chất, đặc điểm của hoạt động
BHTG; phân biệt hoạt động BHTG và hoạt động BHTM, phân tích rủi ro trong hoạt động BHTG, các loại
hình hoạt động BHTG; ii) trên cơ sở những đặc thù của hoạt động BHTG, xác định những yêu cầu,
nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động BHTG và nội dung pháp luật về hoạt động
BHTG. Thứ hai, đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật về hoạt động BHTG tại Việt Nam, bao gồm
các qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp
vụ BHTG, mô hình hoạt động BHTG, nội dung hoạt động BHTG, xử lí vi pháp luật và giải quyết tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG. Những nghiên cứu đó sẽ là những luận cứ khoa học cho
việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Thứ ba, các đề
xuất về phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam phải nhằm hướng
đến việc xây dựng một mô hình hoạt động BHTG phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và thực trạng hệ
thống tài chính, NH ở Việt Nam, vừa giải quyết được những vấn đề thực tiễn trước mắt và vừa bảo đảm
tính ổn định, lâu dài.
1.2. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN
Trên cơ sở các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, Luận án có những đóng góp mới nhất định về mặt khoa
học cũng như trong nghiên cứu hoàn thiện, áp dụng pháp luật về BHTG. Cụ thể: Một là, Luận án tiếp tục
phát triển và hoàn thiện thêm một bước cơ sở lí luận của pháp luật về BHTG. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học trước đây về BHTG, Luận án tiếp tục làm rõ bản chất kinh tế, bản chất
pháp lí của hoạt động BHTG, so sánh giữa hoạt động BHTG và hoạt động BHTM,… trên cơ sở đó, khái
quát những đặc thù của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG. Hai là, Luận án đánh giá một
cách tổng thể, toàn diện về thực trạng của hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam. Trong
nhiều công trình nghiên cứu trước đây, cũng đã có một số đánh giá về thực trạng pháp luật về BHTG nói
chung, về một số nội dung hoạt động BHTG nói riêng. Tuy nhiên, những đánh giá đó mới chỉ được thực
hiện đơn lẻ và từ các góc độ nghiên cứu khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các
công trình nghiên cứu đó, Luận án đánh giá một cách tổng thể, toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam, chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành về

hoạt động BHTG của Việt Nam, những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về hoạt động BHTG. Đồng
thời, Luận án nghiên cứu và tham chiếu những qui định pháp luật về hoạt động BHTG của một số nước,
đưa ra những kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG nói chung. Ba là, Luận án mạnh
dạn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam. Những đề xuất của
Luận án được đưa ra trên cơ sở đánh giá mặt tích cực, hạn chế của hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG của
Việt Nam hiện nay, nghiên cứu tình hình kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động NH ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc pháp luật về hoạt động BHTG của một số nước
trên thế giới. Nội dung cốt lõi của các đề xuất đó là xác định địa vị pháp lí của tổ chức trực tiếp thực hiện hoạt
động BHTG ở Việt Nam, mô hình hoạt động BHTG, qui định về các nội dung hoạt động BHTG. Trên cơ sở
đó, pháp luật về hoạt động BHTG sẽ trở thành công cụ pháp lí quan trọng bảo đảm các mục tiêu chính sách
công của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH.

CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Khái niệm về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Mặc dù hoạt động BHTG được ra đời và tồn tại ở nhiều
quốc gia, nhưng hầu như pháp luật của các nước không đưa ra định nghĩa về BHTG. Pháp luật các nước
thường qui định mục tiêu, nhiệm vụ của BHTG cũng như liệt kê các quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức
tham gia thực hiện hoạt động BHTG. Một số quốc gia đưa ra định nghĩa về BHTG trong Luật BHTG
nhưng không định nghĩa về hoạt động BHTG. Tại một trong những công trình nghiên cứu khoa học pháp
lí về BHTG đưa ra định nghĩa về BHTG.

Trên cơ sở các quan niệm về BHTG, tác giả của Luận án đưa ra khái niệm về hoạt động BHTG là
một loại hình hoạt động BH, theo đó tổ chức thực hiện hoạt động BHTG bảo đảm chi trả một phần hoặc
toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền được BH tại tổ chức tham gia
BHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia BHTG bị chấm
dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính
sách công của nhà nước.


*Nội dung của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động BHTG được nhiều chủ thể tham gia thực
hiện. Cụ thể: tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ BHTG, tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền
tại tổ chức tham gia BHTG được BH, các cơ quan quản lí về tài chính, NH (như ngân hàng trung ương,
Bộ Tài chính), các tổ chức giám sát tài chính trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Trong đó, mỗi chủ thể
có vị trí, vai trò và mục đích, thẩm quyền khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, chỉ giới hạn nghiên cứu về nội dung hoạt động BHTG của tổ
chức thực hiện hoạt động BHTG (gọi chung là tổ chức BHTG) và trong mối liên hệ với tổ chức tham gia
BHTG và người thụ hưởng từ hoạt động BHTG. Bởi vì, đây là chủ thể có vị trí “đặc biệt” trong quan hệ
BHTG, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ BHTG, qua đó nhằm thực hiện mục tiêu chính sách công của nhà
nước trong lĩnh vực tài chính, NH. Với giới hạn đó và ở góc độ khái quát nhất, hoạt động BHTG bao gồm
các nhóm nội dung sau đây:
Một là, nhóm các hoạt động nhằm xác lập quan hệ BHTG. Đây là một trong những chuỗi hoạt động
BHTG, theo đó, tổ chức BHTG tiến hành các thủ tục để cấp giấy chứng nhận BHTG hoặc giao kết hợp
đồng BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG tùy theo việc tham gia BHTG được qui định là bắt buộc hay
tự nguyện. Hai là, nhóm các hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ BHTG. Ba là, nhóm các hoạt động kiểm tra,
giám sát chủ thể tham gia BHTG, cảnh báo rủi ro sớm đối với chủ thể tham gia BHTG. Đây là một trong
các hoạt động BHTG được tổ chức BHTG tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm phát hiện những rủi ro
trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Bốn là, nhóm các hoạt động hỗ trợ tài chính đối với chủ thể
tham gia BHTG. Năm là, nhóm các hoạt động liên quan đến việc tổ chức BHTG tham gia vào quá trình xử
lí tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động. Sáu là, nhóm các hoạt động chấm dứt BHTG. Trên
thực tế, khi xuất hiện sự kiện BHTG, phù hợp qui định của pháp luật, quan hệ BHTG bị chấm dứt giữa các
bên.
Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động BHTG hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG; Hoạt động BHTG góp phần duy trì và nâng cao niềm tin
của người gửi tiền vào hệ thống NH; Hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro trong hoạt động NH, góp phần
duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia; Hoạt động BHTG thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh giữa các tổ chức nhận tiền gửi, tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực tài chính; hoạt động BHTG
góp phần tái cấu trúc NH.
2.1.2. Bản chất pháp lí của hoạt động BHTG. Chủ thể thực hiện hoạt động BHTG là tổ chức tài

chính đặc thù có tên gọi là (Tổng) Công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG; Đối tượng được BH của hoạt
động BHTG là nghĩa vụ trả các khoản tiền gửi của chủ thể nhận tiền gửi đối với người gửi tiền; Chủ thể
thụ hưởng (được tổ chức thực hiện hoạt động BHTG chi trả tiền BH) từ hoạt động BHTG không phải là
chủ thể tham gia BHTG - chủ thể đã nộp phí BHTG mà là người gửi tiền; Mục đích của hoạt động BHTG
là nhằm thực hiện các chính sách công của nhà nước.
Phân biệt hoạt động BHTG và hoạt động BHTM. BHTG và BHTM là hai loại hình BH ra đời và tồn
tại trong điều kiện nền KTTT và đều chịu sự tác động của nền KTTT. Nhưng, hai loại hình hoạt động BH
này có những điểm khác biệt về: 1)mục tiêu hoạt động; 2)chủ thể thực hiện các nghiệp vụ BHTG; 3)chủ
thể tham gia BHTG; 4) phí và phương thức nộp phí BH; 5)Chủ thể thụ hưởng từ hoạt động BH.
2.1.3. Các loại hình hoạt động BHTG
Căn cứ vào qui định của pháp luật về phạm vi thẩm quyền của tổ chức BHTG và mục tiêu chủ yếu của
hoạt động BHTG: Loại hình hoạt động BHTG chuyên chi trả, loại hình hoạt động BHTG chi trả với quyền
hạn mở rộng; loại hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro.
Căn cứ vào qui định của pháp luật về hình thức sở hữu của chủ thể BHTG: Loại hình hoạt động BHTG
do Nhà nước hoặc tư nhân thực hiện và hỗn hợp.
Căn cứ vào qui định của pháp luật về cách thức tham gia BHTG của tổ chức nhận tiền gửi: Loại hình
hoạt động BHTG tự nguyện và bắt buộc.
Căn cứ vào cách thức thực hiện hoạt động BHTG: Loại hình hoạt động BHTG được thực hiện công
khai và không công khai.
2.1.4. Những rủi ro trong hoạt động BHTG
Rủi ro đạo đức là những rủi ro xuất phát từ những hành vi vượt quá những rào cản đạo đức của chủ
thể trong quan hệ BHTG. Đó là loại rủi ro đặc thù trong lĩnh vực BH hình thành do những nguyên nhân
khác nhau và có những biểu hiện khác nhau. Trọng tâm của rủi ro đạo đức là những tác động khác nhau
của hoạt động BHTG đến các chủ thể trong quan hệ BHTG.
Rủi ro lựa chọn nhầm lẫn chủ thể tham gia BHTG là hiện tượng tổ chức BHTG chấp nhận tổ chức
tham gia BHTG tham gia BHTG có mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh cao hoặc không tương thích
với mức phí BHTG.
Rủi ro phân biệt đối xử giữa các tổ chức tham gia BHTG có thể xảy ra do sự ưu đãi của Nhà nước đối
với các tổ chức tham gia BHTG nhất định, tạo sự bất bình đẳng giữa các tổ chức tham gia BHTG đó với các tổ
chức khác trong hệ thống BHTG.

2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN
GỬI
2.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Pháp luật về hoạt động BHTG là hệ
thống các qui phạm pháp luật của nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt
động BHTG. Pháp luật về hoạt động BHTG là một bộ phận trong hệ thống pháp luật của quốc gia; có mối
liên hệ mật thiết với bộ phận pháp luật về NH; Pháp luật về hoạt động BHTG là phương tiện pháp lí ghi
nhận và bảo đảm thực thi các mục tiêu chính sách công của nhà nước trong lĩnh vực tài chính - NH.
Pháp luật về hoạt động BHTG bao gồm các bộ phận sau: 1), bộ phận pháp luật về chủ thể thực hiện các
hoạt động BHTG. 2) bộ phận pháp luật về công cụ thực hiện hoạt động BHTG. 3) bộ phận pháp luật về nội
dung hoạt động BHTG. 4) bộ phận pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG.
2.2.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
2.2.3.1. Nhóm các qui định pháp luật về chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Trên cơ sở
khảo sát các hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam và các quốc gia, Luận án cho rằng, tổ
chức BHTG là một định chế tài chính đặc thù, có tư cách pháp nhân, được thành lập và hoạt động trên cơ
sở pháp luật, thực hiện các hoạt động BHTG nhằm bảo đảm các mục tiêu chính sách công của nhà nước.
Tổ chức BHTG mang những đặc trưng pháp lí cơ bản sau: 1) về vị trí pháp lí. Mặc dù được thành lập
bởi Quốc hội hay Chính phủ, tổ chức BHTG có vị trí pháp lí độc lập tương đối với các cơ quan nhà nước
khác. 2) về tư cách pháp lí. Tổ chức BHTG được pháp luật qui định có tư cách pháp nhân, có các quyền và
nghĩa vụ pháp lí trong quan hệ pháp luật BHTG. 3) về mục tiêu hoạt động. Mục tiêu hoạt động của tổ
chức BHTG liên quan chặt chẽ đến mục tiêu chính sách công của nhà nước. 4) về trình tự thành lập, tổ
chức BHTG được thành lập theo các trình tự được pháp luật qui định.
2.2.3.2. Nhóm các qui định pháp luật về nội dung hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Thứ nhất, các qui định pháp luật về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi.
* Về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi thông qua hoạt động giao kết hợp đồng bảo hiểm tiền gửi.
Hợp đồng BHTG là một loại hợp đồng BH, ghi nhận cam kết giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia
BHTG trên cơ sở qui định của pháp luật về hoạt động BHTG, trong đó, tổ chức tham gia BHTG có nghĩa
vụ đóng phí BHG, tổ chức BHTG có nghĩa vụ chi trả tiền BHTG cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện
BHTG.
Hợp đồng BHTG có những điểm đặc thù: 1)Chủ thể của hợp đồng BHTG gồm tổ chức BHTG và tổ
chức tham gia BHTG. 2)Hợp đồng BHTG là sự thỏa thuận giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia

BHTG nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng BHTG dựa trên những qui định của pháp luật về hoạt động
BHTG. 3)Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ BHTG, đó là các chủ thể có những quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ nghĩa vụ BHTG. Cụ thể, tổ chức BHTG có nghĩa vụ chi trả tiền BHTG cho người thụ hưởng từ hoạt
động BHTG khi xảy ra sự kiện BHTG.
*Về xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi thông qua hoạt động cấp giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm
tiền gửi. Giấy Chứng nhận tham gia BHTG là hình thức pháp lí của loại hình BHTG mà tổ chức tham gia
BHTG theo cách thức bắt buộc. Pháp luật qui định rõ loại tổ chức nhận tiền gửi nào phải tham gia BHTG;
thủ tục tham gia BHTG; điều kiện cấp, thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG; chủ thể có thẩm quyền
cấp, thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG… Tổ chức tài chính nhận tiền gửi phải thực hiện các thủ tục
pháp lí để được cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG nhằm bảo đảm và thúc đẩy sự ổn định, an toàn trong
hoạt động NH của quốc gia.
Thứ hai, các qui định pháp luật về tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Một là, về tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi và qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Qui định các nguồn và cơ chế tạo lập quĩ BHTG, cơ chế sử dụng quĩ BHTG trong trạng thái bình
thường và trong trường hợp xử lý đổ vỡ NH, qui mô quĩ BHTG nhằm bảo đảm tính hiệu quả cho hoạt
động BHTG. Các phương pháp tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi: tạo lập quĩ BHTG trước và sau khi tổ chức
tham gia BHTG bị đổ vỡ, theo phương pháp tổng hợp, nghĩa là, quĩ BHTG được tạo lập từ trước và sau
khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ.
Hai là, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG được sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả tiền BH
cho người gửi tiền. Chi trả BHTG là việc tổ chức BHTG thực hiện trả tiền cho người gửi tiền khi xảy ra sự
kiện BHTG. Mức chi trả BHTG do pháp luật về hoạt động BHTG qui định hoặc do các bên trong hợp đồng
BHTG thỏa thuận là căn cứ để tổ chức BHTG tiến hành chi trả cho người gửi tiền.
Thứ ba, các qui định pháp luật về kiểm tra, giám sát chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi, cảnh báo
rủi ro sớm đối với chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức BHTG còn có thẩm quyền thực hiện hoạt
động kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG thông qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại
chỗ; đưa ra những cảnh báo sớm về nguy cơ rủi ro (nếu có) đối với tổ chức đó. Thực chất, đây là hoạt
động quản lí rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG.
Thứ tư, các qui định pháp luật về hỗ trợ tài chính đối với chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi. Pháp
luật qui định về hỗ trợ tài chính với tư cách là một trong những biện pháp cần thiết được áp dụng trong
trường hợp tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả. Mục đích cơ bản của việc qui định

và áp dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính nhằm giúp cho việc cơ cấu lại tổ chức tham gia BHTG có nguy
cơ mất khả năng thanh toán. Các biện pháp hỗ trợ tài chính được tổ chức BHTG áp dụng đối với tổ chức
tham gia BHTG khá đa dạng, bao gồm: cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ, có thể cấp trực tiếp hoặc gián tiếp
các khoản hỗ trợ cho các tổ chức tham gia BHTG được nhận hỗ trợ
Thứ năm, các qui định pháp luật về chấm dứt bảo hiểm tiền gửi và thủ tục chi trả tiền bảo hiểm
tiền gửi cho người thụ hưởng.
*Về chấm dứt bảo hiểm tiền gửi. Cũng như những quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật BHTG sẽ
chấm dứt khi gặp các sự kiện pháp lí tương ứng. Đối với loại hình BHTG tự nguyện được thể hiện bằng
hình thức pháp lí là hợp đồng BHTG, các bên thoả thuận về các điều khoản nhằm chấm dứt hợp đồng
BHTG giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia BHTG. Đối với loại hình BHTG bắt buộc, tổ chức tham
gia BHTG bị thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG là một sự kiện làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ
pháp lí trong quan hệ BHTG giữa tổ chức tham gia BHTG và tổ chức BHTG.
2.2.3.3. Nhóm các qui định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền
gửi
Khái niệm, phân loại tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
- Tranh chấp từ hoạt động BHTG là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể trong quan hệ BHTG
về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí của họ. Hoạt động BHTG có tính đặc thù trong nền kinh tế, có
liên quan đến quyền, lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau như tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền tại
tổ chức tham gia BHTG. Chủ thể trong quan hệ tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG bao gồm tổ chức
BHTG, tổ chức tham gia BHTG, người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG.
- Xuất phát từ đặc điểm, tính chất của quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động BHTG là vừa
mang tính bình đẳng, vừa mang tính bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do đó, tính chất
quan hệ tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG giữa các bên chủ thể khá đa dạng: có thể mang tính hành
chính hoặc dân sự.
Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoạt động BHTG phải bảo đảm các yêu cầu nhất định. Với những nét đặc thù của tranh chấp phát sinh từ
hoạt động BHTG, các phương thức giải quyết tranh chấp cũng khá đa dạng: Đối với các tranh chấp mang
tính hành chính, bên bị vi phạm có thể áp dụng phương thức khiếu nại, khiếu kiện hành chính hoặc có thể áp
dụng cơ chế tài phán hành chính (Tòa án hành chính); Đối với các tranh chấp mang tính chất dân sự, phương
thức giải quyết có thể là thương lượng, hoà giải, hoặc giải quyết bằng tổ chức tài phán nhà nước như Toà án.

2.2.3. Nguyên tắc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Thứ nhất,
pháp luật về hoạt động BHTG phải thể chế hóa các mục tiêu chính sách công của nhà nước trong lĩnh vực
TC, NH. Thứ hai, pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm vị trí pháp lí độc lập “tương đối” của tổ
chức BHTG. Thứ ba, pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm gây dựng, duy trì được sự tin tưởng,
tâm lí yên tâm của người gửi tiền đối với hệ thống NH và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Luận án phân tích các yếu tố tác động đến sự ra đời và quá trình phát triển của pháp luật về hoạt động
BHTG, bao gồm: Ðiều kiện kinh tế, xã hội; Yêu cầu đối với sự ổn định, phát triển bền vững trong hoạt động
của hệ thống ngân hàng và bảo đảm an sinh xã hội; Khuôn khổ pháp lí phát triển hoàn chỉnh; Hệ thống kế
toán và công bố thông tin lành mạnh.
2.4. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
2.4.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên thế giới. Năm
1829, New York thực hiện chương trình Bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng. Đến nay, có khoảng 100 quốc
gia và vùng lãnh thổ triển khai các hình thức khác nhau của hoạt động BHTG. Nhận thức rõ vai trò quan
trọng của hoạt động BHTG đối với hệ thống NH cũng như nền kinh tế, Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) đã
được thành lập ngày 05/6/2002 tại Thuỵ sĩ theo sáng kiến của Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế,
Cộng đồng tài chính quốc tế. Mục tiêu hoạt động của IADI là góp phần bảo đảm sự ổn định của hệ thống
tài chính quốc tế, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BHTG, khuyến khích giao lưu quốc tế giữa các
tổ chức thực hiện hoạt động BHTG và các tổ chức liên quan, tăng cường phối hợp khi xảy ra khủng hoảng
tài chính trên toàn cầu.
2.4.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Năm
1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế. Hệ thống NH cũng thực hiện nhiều cải
cách quan trọng từ năm 1988. Nhà nước ta ban hành Qui tắc BH trách nhiệm của Quĩ tín dụng nhân dân
đối với khoản tiền gửi có kì hạn kèm theo Quyết định số 101/TC-QĐ-BH ngày 01/01/1994. Ngày
12/12/1997, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng. Khoản 1 Điều 17 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 qui định "Tổ chức tín dụng có trách nhiệm
tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ qui định".
Qui định này là tiền đề pháp lí để Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG và Quyết

định số 218/1999/QĐ-TTg về thành lập tổ chức BHTG Việt Nam. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Luật các Tổ chức tín dụng (được sửa đổi năm 2010) tiếp tục khẳng định trách nhiệm tham gia BHTG của
các TCTD được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Luật BHTG được Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 18/6/2012 là văn bản Luật đầu tiền của Việt Nam qui định về
BHTG. Tuy nhiên, nhiều qui định của luật còn mang tính chất khung, chưa cụ thể, đòi hỏi phải được
hướng dẫn bằng các qui định tại văn bản dưới luật trong thời gian tới. Đó là những tiền đề pháp lí quan
trọng để Nhà nước ta tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và nền kinh tế hội nhập, các chủ thể kinh doanh
phải tham gia vào những cuộc cạnh tranh gay gắt để tồn tại và phát triển. Trong lĩnh vực tài chính, các tổ
chức nhận tiền gửi ngày càng gia tăng về số lượng, phát triển về qui mô vốn và đa dạng về sản phẩm dịch
vụ. Các TCTD đang cố gắng đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu khắt khe của nền kinh tế. Thực tế
đó đã đặt các TCTD vào cuộc cạnh tranh khốc liệt. Một trong những nhân tố bảo đảm sự tồn tại và phát
triển bền vững của các TCTD là sự tin tưởng, yên tâm của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thông qua
hành vi lựa chọn các TCTD nhất định để gửi các khoản tiền của mình. Mặt khác, trong hoạt động kinh
doanh, các TCTD phải đối mặt với những rủi ro khác nhau, có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính. Vì
vậy, cần thiết phải có những biện pháp hữu hiệu mang tính chiến lược nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản
của cá nhân, tổ chức gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi cũng như bảo đảm sự an toàn, giảm thiểu rủi ro
cho chính các tổ chức này. Do đó, hoạt động BHTG đã ra đời. Đồng thời, sự xuất hiện của hoạt động
BHTG mang tính khách quan và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của pháp luật về hoạt động
BHTG tại các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Pháp luật về hoạt động BHTG là công cụ pháp lí quan trọng bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản
của cá nhân, tổ chức gửi tiền được thể hiện dưới hình thái giá trị trong mối quan hệ tín dụng với các tổ
chức nhận tiền gửi mà phần lớn là các TCTD. Đồng thời, bảo đảm cho hoạt động của các TCTD an toàn
thông qua các qui định pháp luật về nghiệp vụ BHTG. Từ đó, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, góp phần duy trì an ninh tài chính quốc gia, trật tự và an toàn xã hội.
Hoạt động BHTG có những đặc thù so với các hoạt động BH khác. Pháp luật qui định chủ thể thực
hiện các hoạt động BHTG là tổ chức tài chính “đặc biệt”: (tổng), công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG do
nhà nước thành lập. Các DN BH không thực hiện các hoạt động BHTG. Các nội dung hoạt động BHTG
không chỉ nhằm thực hiện các hoạt động BHTG thuần túy, mà còn nhằm phòng ngừa hiện tượng “đổ vỡ”

các TCTD gặp rủi ro, bảo đảm ổn định đối với hoạt động tài chính, NH của các nước.
Các loại hình hoạt động BHTG có thể được qui định khác nhau tại các quốc gia nhưng đã khẳng
định được vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hoạt động an toàn cho các TCTD, giúp đối phó những nguy
cơ rủi ro cao trong hoạt động NH nói riêng và trong hệ thống tài chính nói chung.
Kết quả nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG là tiền
đề để nghiên cứu nội dung điều chỉnh của pháp luật về hoạt động BHTG của các nước cũng như Việt
Nam. Trên cơ sở đó, đánh giá thực tiễn pháp lí về hoạt động BHTG ở Việt Nam; đưa ra những đề xuất
nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.

CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÍ ĐẶT RA
3.1. VỀ CHỦ THỂ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ MÔ HÌNH HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI. Chủ thể giữ vị trí, có vai trò đặc biệt trong hoạt động BHTG là tổ chức
BHTG. Vì vậy, Luận án tập trung nghiên cứu về tổ chức BHTGVN - chủ thể thực hiện hoạt động BHTG theo
pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam trên các mặt: địa vị pháp lí, cơ cấu, tổ chức, thẩm quyền.
3.2. VỀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
3.2.1. Về hoạt động cấp Giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Đối tượng phải tham gia BHTG theo qui định hiện nay bao gồm các TCTD và các tổ chức không phải
là TCTD nhưng được thực hiện một hoặc nhiều hoạt động NH, phải hoàn thành thủ tục tham gia BHTG để
được cấp giấy Chứng nhận tham gia BHTG trước khi tiến hành hoạt động. Hồ sơ đăng kí tham gia BHTG
được gửi đến BHTGVN. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, BHTGVN phải cấp giấy
Chứng nhận tham gia BHTG cho tổ chức tham gia BHTG.
3.2.2. Về hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Về hoạt động tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi và qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG của BHTGVN được
hình thành từ NSNN, phí BHTG và nguồn khác như các nguồn thu từ hoạt động đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi của
BHTGVN, từ nguồn vốn vay hoặc tiếp nhận vốn hỗ trợ của Chính phủ, vay có bảo lãnh của Chính phủ, phát
hành trái phiếu
Về hoạt động sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi. Quĩ BHTG được sử dụng để thực hiện các hoạt động
BHTG như chi trả tiền BH cho người gửi tiền tại TCTD khi xảy ra sự kiện BHTG, hỗ trợ tài chính đối với

TCTD gặp khó khăn trong kinh doanh, mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu, tín phiếu NHNN hoặc TCTD
nhà nước.
3.2.3.Về hoạt động kiểm tra, giám sát, cảnh báo rủi ro đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi. Ngoài trách nhiệm chi trả tiền BHTG cho người thụ hưởng, BHTGVN còn có thẩm quyền kiểm tra,
giám sát TCTD, đưa ra những cảnh báo sớm về nguy cơ rủi ro (nếu có) đối với tổ chức đó.
3.2.4. Về hoạt động hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Pháp luật về hoạt động
BHTG của Việt Nam qui định TCTD chỉ được BHTGVN hỗ trợ tài chính khi có hai điều kiện là: 1)rơi
vào tình trạng có nguy cơ mất khả năng chi trả; 2)TCTD chưa bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt của
NHNN Việt Nam.
3.2.5. Về chấm dứt hoạt động bảo hiểm tiền gửi. BHTGVN có quyền thu hồi giấy Chứng nhận tham
gia BHTG của các tổ chức tham gia BHTG trong những trường hợp nhất định: không nộp đủ phí BHTG
quá thời hạn ba tháng kể từ ngày phải nộp, NHNN có văn bản chấm dứt hoạt động nhận tiền gửi, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chấm dứt các giao dịch để thanh lí
tài sản hoặc Toà án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lí tài sản. Căn cứ pháp lí chấm dứt hoạt động
BHTG: TCTD không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và có văn bản của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền yêu cầu chấm dứt các giao dịch để thanh lí tài sản hoặc Tòa án thông báo quyết định mở
thủ tục thanh lí tài sản theo qui định của pháp luật về phá sản.
3.3. VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Các tranh chấp phát sinh từ hoạt động BHTG được coi là có nguy cơ tiềm tàng. Song, thực tế, các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực BHTG chưa được qui định tại các văn bản qui phạm pháp luật BHTG.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
1. Pháp luật về hoạt động BHTG của nước ta chưa xác định rõ vị trí pháp lí của BHTGVN. Hiện nay,
BHTGVN được qui định là tổ chức tài chính nhà nước thực hiện các hoạt động BHTG. Qui định này chỉ
là một nội dung của sự phân loại theo tiêu chí chủ sở hữu của tổ chức, hoàn toàn không phải là hình thức
pháp lí của BHTGVN. Qui định hình thức pháp lí của BHTGVN không rõ ràng có ảnh hưởng nhất định
đối với việc xác định vị thế “độc lập” của BHTGVN trong tổ chức, cơ cấu cũng như thực hiện các hoạt
động BHTG.
Như vậy, BHTGVN dường như là một tổ chức “lưỡng tính”. Cách thức tổ chức, thành lập các bộ phận
chức năng của BHTGVN có nhiều điểm tương tự như doanh nghiệp nhà nước. Có những quan hệ pháp
luật mà BHTGVN tham gia như là quan hệ hành chính, như trong trường hợp BHTG thực hiện quyền cấp,

cấp đổi, thu hồi giấy Chứng nhận BHTG; quyết định chấm dứt BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG. Vì
vậy, BHTGVN vừa mang dáng dấp của cơ quan quản lí hành chính vừa có đặc điểm của tổ chức kinh tế.
Về vị trí pháp lí của BHTGVN, theo qui định hiện hành, BHTGVN là một tổ chức do Thủ tướng Chính
phủ thành lập và chịu sự quản lí của các cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính, NH như Bộ Tài
chính, NHNN Việt Nam. Do đó, BHTGVN khó có thể chủ động, linh hoạt thực hiện kịp thời các hoạt
động BHTG.
Mặt khác, nhiều qui định về quyền hạn, trách nhiệm của BHTGVN không phù hợp điều kiện thực tế ở
nước ta cũng như không tương thích với năng lực của BHTGVN. Hoặc, có những quyền hạn, trách nhiệm
của BHTGVN được qui định trong pháp luật về BHTG có sự trùng lặp, chồng chéo với các qui định pháp
luật trong lĩnh vực NH đã gây phức tạp cho các bên chủ thể liên quan.
2. Những bất cập về tạo lập quĩ BHTG trong pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam khiến cho
năng lực tài chính của BHTGVN bị hạn chế đáng kể: Vốn điều lệ do NSNN cấp vốn đã thấp nhưng không
được chuyển đủ ngay cho BHTGVN; Nguồn thu từ phí thấp do áp dụng thu phí BHTG đồng hạng. Mặt
khác, thực tiễn hoạt động NH tại Việt Nam cho thấy việc thực hiện thu phí đồng hạng không tạo được sự
bình đẳng giữa các TCTD hoạt động có hiệu quả và các tổ chức yếu, kém. Bởi vì, việc qui định và áp
dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng không phản ánh được mức độ rủi ro của mỗi TCTD có thể gây ra đối
với cả hệ thống BHTG. Pháp luật hiện hành không qui định về qui mô quĩ BHTG cũng như tiêu chí xác
định qui mô quĩ BHTG, qui định mức trần tỉ lệ dự trữ của quĩ BHTG.
3. Qui định về quản lí quĩ BHTG có điểm chưa hợp lí: pháp luật cho phép BHTGVN mua trái phiếu, tín
phiếu của TCTD nhà nước hoặc gửi tiền tại TCTD nhà nước. Qui định này có thể sẽ dẫn đến việc BHTGVN
trở thành người gửi tiền không được BH đối với những khoản tiền gửi của mình tại TCTD nhà nước. Điều này
có thể gây nên những tác động rất xấu đến hoạt động BHTG, quĩ BHTG bị hao tổn và liên quan đến các rủi ro
đạo đức.
4. Qui định về sử dụng quĩ BHTG trong việc chi trả cho người gửi tiền có điểm chưa phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội hiện nay. Đó là về chủ thể được bảo vệ, loại tiền gửi được BH và không được BH, hạn
mức chi trả BHTG thấp (50 triệu đồng) có thể làm giảm sự tin tưởng của người gửi tiền và ảnh hưởng đến sự
an toàn của hệ thống ngân hàng.
5. Qui định về hoạt động hỗ trợ tài chính của BHTGVN chưa được đầy đủ như căn cứ pháp lí để
BHTGVN thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính đối với TCTD là sự xác nhận của NHNN về việc một TCTD
đủ điều kiện nhận hỗ trợ tài chính; về nghĩa vụ của TCTD nhận hỗ trợ tài chính đối với BHTGVN; về mức hỗ

trợ tài chính, pháp luật hiện hành chưa có qui định về mức hỗ trợ tài chính cho TCTD trong cơ cấu quĩ BHTG.
6. Hoạt động kiểm tra, giám sát đối với TCTD của BHTGVN đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định.
Về căn cứ pháp lí của hoạt động kiểm tra, giám sát, Theo qui định tại Quyết định số 75/2000/QĐ-
TTg, TCTD phải thực hiện chế độ thông tin, báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh theo qui định của
BHTGVN. Đồng thời, BHTGVN được quyền qui định về chế độ thông tin, báo cáo, tài liệu về hoạt động
kinh doanh của TCTD như qui trình, hình thức, chế tài Tuy nhiên, ngày 16/3/2000, NHNN Việt Nam đã
ban hành Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 qui định về các loại báo cáo mà TCTD - tổ chức tham gia
BHTG phải nộp cho BHTGVN. Sự chống chéo này đã gây khó khăn cho hoạt động tuân thủ pháp luật của
TCTD.
Về nội dung hoạt động kiểm tra, giám sát, thẩm quyền của BHTGVN là kiểm tra các TCTD trong việc
chấp hành các qui định pháp luật về an toàn trong hoạt động NH đã thể hiện sự trùng lắp, chồng chéo với hoạt
động thanh tra của Thanh tra NHNN Việt Nam. Mặc dù, về lí luận cũng như về thực tiễn, hoạt động thanh tra
của Thanh tra NHNN có những điểm khác biệt với hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN về các mặt như
chủ thể thực hiện, tính chất, mục đích, đối tượng và hệ quả pháp lí.
Về qui trình giám sát, hoạt động giám sát từ xa được qui định thực hiện theo từng quí. Theo đó, thông
thường ngày 20 tháng đầu quí mới hoàn thành kết quả giám sát của quí trước. Do đó, chưa bảo đảm cảnh
báo kịp thời đối với các tổ chức tham gia BHTG có “vấn đề”, tác dụng cảnh báo sớm còn thấp.
Về năng lực và kinh nghiệm giám sát an toàn hoạt động NH của BHTGVN còn yếu. Điều này đã được
kiểm nghiệm trong thực tiễn hơn 10 năm hoạt động. Nội dung các cuộc kiểm tra trên của BHTGVN vẫn
chỉ dừng lại ở các nội dung kiểm tra việc tính và nộp phí BHTG, việc niêm yết chứng nhận BHTG, quản
lí, hạch toán tiền gửi thuộc đối tượng BHTG, chấp hành qui định về thông tin, báo cáo đối với tổ chức
TCTD.
Về chế tài, pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành chưa đề cập đến các biện pháp chế tài pháp lí mà
BHTGVN có thể áp dụng đối với TCTD vi phạm các qui định về an toàn trong hoạt động NH. Trong quá
trình thực hiện các chức năng của mình, nếu phát hiện TCTD vi phạm các qui định về an toàn đối với hoạt
động NH, BHTGVN chỉ có thể yêu cầu TCTD thực hiện các biện pháp chấn chỉnh kịp thời, báo cáo bằng
văn bản lên NHNN.
Về giá trị pháp lí văn bản pháp luật qui định về hoạt động kiểm tra, giám sát. Mặc dù hệ thống pháp
luật về hoạt động BHTG được xây dựng và thực hiện trong khoảng mười năm, song những qui định pháp
luật về hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN chỉ được thể hiện dưới hình thức văn bản dưới luật.

Trong đó, văn bản có giá trị pháp lí cao nhất là Nghị định do Chính phủ ban hành. Trong khi đó, những
qui định pháp luật về các vấn đề có liên quan đến hoạt động tài chính, ngân hàng đều đã có luật điều
chỉnh. Thực tế đó làm hạn chế đáng kể hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát của BHTGVN.
7. Qui định về sự kiện BHTG trong pháp luật BHTG chưa rõ ràng, chưa có sự tách bạch giữa trường
hợp thu hồi giấy Chứng nhận tham gia BHTG và chấm dứt BHTG, qui định về sự kiện BHTG chưa tương
thích với các qui định về giải thể, phá sản các TCTD. Mặt khác, chưa có qui định bảo đảm quyền nhận
tiền chi trả của người gửi tiền trong trường hợp TCTD không thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người gửi
tiền; chưa dự liệu các tranh chấp có thể phát sinh và phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực hoạt động BHTG.

CHƢƠNG 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
4.1. YÊU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Thứ nhất, hoàn
thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải thể chế hóa được quan điểm chủ trương và chính sách của Đảng
và Nhà nước, thể hiện được tính đặc thù của hệ thống NH Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị của
Việt Nam; Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở
nước ta; Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải kế thừa những nội dung phù hợp đã được
trải nghiệm qua thực tiễn hơn mười năm thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG, bảo đảm tính kế thừa
những qui định phù hợp, đồng thời khắc phục được những thiếu sót, bất cập của pháp luật về hoạt động
BHTG hiện hành; Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải trên cơ sở tham khảo, học tập
kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nước; Thứ năm, hoàn thiện pháp
luật về hoạt động BHTG phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ với các hệ thống pháp luật về
tài chính; Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm tính kĩ thuật lập pháp.
4.1.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Thứ nhất,
hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo đảm phù hợp với Chiến lược phát triển ngành NH, với
các mục tiêu cơ bản về phát triển các TCTD đến năm 2010 và định hướng chiến lược đến năm 2020; Thứ
hai, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải gắn liền với Chiến lược phát triển dịch vụ NH, NHNN
Việt nam đã đặt ra các chỉ tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng và có tác động đến định hướng hoàn thiện

pháp luật về BHTG trong thời gian tới; Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải gắn liền với
định hướng phát triển hoạt động huy động vốn; Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG phải bảo
đảm phù hợp với định hướng phát triển dịch vụ ngoại hối của Nhà nước ta.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM
4.2.1. Xác định mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi phù hợp điều kiện ở Việt Nam. Cần qui định
mô hình hoạt động BHTG theo mô hình hiện nay. Bởi vì, sẽ kế thừa được bộ máy tổ chức và nhân sự hiện
có về kiểm tra, giám sát của tổ chức BHTGVN. Đồng thời, mang lại hiệu quả tốt nhất cho hoạt động kiểm
tra tại chỗ, giám sát từ xa đối với sự an toàn hoạt động NH, bảo đảm hệ thống NH hoạt động ổn định.
Đồng thời, cần qui định về lộ trình chuyển từ mô hình hoạt động BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng
như hiện nay sang mô hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro. Trong trường hợp hệ thống qui định về
xếp hạng các TCTD đã trở nên hoàn thiện và việc đánh giá các TCTD đã đi vào nền nếp thì có thể chính
thức triển khai áp dụng theo mô hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro.
4.2.2. Hoàn thiện các qui định về vị trí pháp lí của chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền
gửi.
Thứ nhất, về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG, cần kế thừa qui định về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG
Việt Nam là trực thuộc Chính phủ. Bên cạnh đó, cần xác định rõ mối quan hệ giữa tổ chức BHTG với các
chủ thể thuộc hệ thống giám sát tài chính của quốc gia.
Thứ hai, về mục tiêu hoạt động, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức BHTG ở Việt Nam.
Căn cứ vào mục tiêu chính sách công và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, mục tiêu hoạt động BHTG
cần được xác định rõ ràng.
4.2.3. Hoàn thiện các qui định pháp luật về nội dung hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
4.2.3.1. Về hoạt động xác lập quan hệ bảo hiểm tiền gửi.
*Cần hoàn thiện các qui định pháp luật về cấp giấy Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cần bổ
sung quyền hạn của BHTGVN trong việc phối hợp với cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực tài chính,
NH về thẩm định điều kiện của các TCTD đó trước khi tiến hành hoạt động; Cần bổ sung các biện pháp
chế tài pháp lí theo hướng nghiêm khắc đối với TCTD vi phạm nghĩa vụ tham gia BHTG như vi phạm qui
định về thực hiện cấp, cấp đổi, niêm yết giấy Chứng nhận tham gia BHTG. Các mức chế tài pháp lí như
mức phạt tiền phải bảo đảm mang tính răn đe đối với TCTD.
* Bổ sung các qui định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tiền gửi. Cần bổ sung các qui định tạo cơ sở

pháp lí cho các tổ chức tài chính khác có thể tham gia BHTG theo hình thức tự nguyện. Trong trường hợp
này, cần qui định về các điều kiện mà một tổ chức tài chính phải bảo đảm để có thể tự nguyện tham gia
BHTG; về thẩm quyền của các chủ thể quản lí trong lĩnh vực tài chính, NH cũng với BHTGVN thẩm định
các điều kiện của tổ chức tài chính tự nguyện tham gia BHTG; về hợp đồng BHTG; chế tài pháp lí có liên
quan.
4.2.3.2. Hoàn thiện các qui định pháp luật về hoạt động tạo lập, sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi.
*Cần qui định về việc xác định qui mô quĩ bảo hiểm tiền gửi. Qui mô quĩ BHTG phải đạt tỷ lệ 1,5% -
5% tổng giá trị tiền gửi được BH.
*Sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về tạo lập quĩ bảo hiểm tiền gửi.
Về phí BHTG - nguồn chủ yếu của quĩ BHTG, cần thiết phải thay đổi phương pháp thu phí BHTG
theo mức độ rủi ro; bổ sung quĩ BHTG từ lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của BHTGVN.
* Hoàn thiện qui định về sử dụng quĩ bảo hiểm tiền gửi trong việc chi trả bảo hiểm cho người thụ
hưởng: về chủ thể được bảo hiểm; về đối tượng được BHTG; qui định hạn mức chi trả BHTG phù hợp.
4.2.3.3. Sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật về hoạt động kiểm tra, giám sát, cảnh báo rủi ro đối
với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cần hoàn thiện qui định pháp luật về kiểm tra, giám sát của các chủ
thể trong hoạt động BHTG: mở rộng đối tượng kiểm tra, giám sát vì hiện nay pháp luật mới chỉ qui định đối
tượng kiểm tra, giám sát là QTDND cơ sở; qui định chế tài pháp lí nghiêm khắc đối với TCTD về chế độ
thông tin, báo cáo phục vụ công tác kiểm tra, giám sát; qui định chế độ giám sát đối với tổ chức BHTG trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; qui định thống nhất về thẩm quyền của các chủ thể có chức
năng kiểm tra, giám sát về tài chính, NH tránh chồng chéo hoặc thiếu sót về trách nhiệm, quyền hạn…
4.2.3.4. Cần bổ sung qui định về hoạt động hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi. Phải qui định rõ căn cứ pháp lí để BHTGVN thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính đối với TCTD; qui
định cơ chế để BHTGVN được tham gia thẩm định điều kiện áp dụng hoạt động hỗ trợ tài chính đối với tổ
chức tham gia BHTG; qui định về nghĩa vụ của TCTD được nhận hỗ trợ tài chính đối với BHTGVN.
nghiên cứu ban hành qui định pháp luật tạo cơ sở pháp lí cho việc thành lập, hoạt động, vị trí pháp lí của
ngân hàng bắc cầu trong hoạt động BHTG.
4.2.3.5. Qui định đầy đủ, rõ ràng về sự kiện pháp lí làm chấm dứt hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Pháp luật cần qui định về sự kiện BHTG theo hướng bao quát đến cả TCTD và chi nhánh NH nước ngoài;
qui định phân biệt rõ trường hợp thu hồi giấy Chứng nhận BHTG và chấm dứt BHTG; bổ sung sự kiện
BHTG là các trường hợp chấm dứt hợp đồng BHTG.

4.2.4. Bổ sung các qui định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm
tiền gửi. Bổ sung qui định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi, trong đó, làm
rõ phương thức giải quyết tranh chấp trong từng loại quan hệ BHTG: mang tính hành chính hay dân sự.
4.3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG
BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
4.3.1. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền
gửi: tuân thủ đúng qui trình kiểm tra, giám sát cũng như tổ chức giám sát chặt chẽ hoạt động kiểm tra,
giám sát thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG đối với TCTD và BHTGVN.
4.3.2. Tăng cƣờng hiện đại hóa bằng công cụ tin học trong thực hiện pháp luật về hoạt động bảo
hiểm tiền gửi: cần ưu tiên đầu tư và phát triển các hệ thống thông tin phục vụ chuyên ngành như các
chương trình quản lí TCTD, người gửi tiền có tiền gửi được bảo hiểm.
4.3.3. Chú trọng công tác nhân sự của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: phát triển nguồn nhân lực của
BHTGVN, nâng cao năng lực quản lí của đội ngũ cán bộ quản lí của BHTGVN.
4.3.4. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hoạt động bảo hiểm tiền gửi đến
các đối tượng khác nhau, đặc biệt là người gửi tiền nhỏ, cần có các cách thức tuyên truyền đa dạng, phong
phú giúp nâng cao nhận thức mục tiêu của pháp luật về hoạt động BHTG, quyền hạn, trách nhiệm của tổ
chức BHTGVN và các chủ thể khác.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
1.Thực tiễn pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam trong hơn mười năm qua đã chứng minh tư
tưởng, quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về việc thiết lập khung pháp lí cho hoạt động
BHTG, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền ở Việt Nam.
2. Chương 4 của Luận án đã phân tích khái quát yêu cầu, định hướng của công tác hoàn thiện pháp luật về
hoạt động BHTG, thực thi pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
3. Chương 4 đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ thể tham gia BHTG; phí BHTG; đối
tượng BHTG; sự kiện BHTG;… nhằm tạo cơ sở pháp lí toàn diện, đầy đủ cho hiệu quả điều chỉnh bằng
pháp luật các quan hệ BHTG ở Việt Nam.
4. Phân tích các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG nhằm đáp ứng
yêu cầu thực thi pháp luật về hoạt động BHTG và tiêu chuẩn quốc tế.
KẾT LUẬN
1. Hoạt động BHTG được ra đời tại Mĩ trên cơ sở Luật BHTG được Nghị viện thông qua với sứ

mệnh là “bảo vệ tiền gửi”. Cho đến nay, thành công của hệ thống BHTG tại Mĩ đã được chứng minh thông
qua tình hình tài chính, NH và sự giải cứu các NH “có vấn đề”, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của
người gửi tiền, ổn định và an toàn nền tài chính vĩ mô. Những thành công trong triển khai hoạt động BHTG
ở Mỹ đã góp phần quan trọng làm cho hệ thống BHTG nhanh chóng lan sang các nước châu Âu vào những
năm 1960 và sau đó là các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Thực tế đã chứng minh, cho dù lựa chọn mô
hình giám sát tài chính nào thì hệ thống giám sát tài chính sẽ phát huy tác dụng tốt nhất khi có cơ sở pháp
lí đồng bộ; quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể liên quan được qui định rõ ràng và có phối hợp hiệu
quả trong hành động. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua cũng là động lực cho các quốc gia
xem xét lại hệ thống giám sát của mình, niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính - ngân hàng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Kết quả nghiên cứu cho thấy: các quốc gia có hệ thống pháp luật về BHTG
đầy đủ và triển khai thực hiện hiệu quả, không để xảy ra đổ vỡ hệ thống.
2. Ở Việt Nam, thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đang
từng bước chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, hệ thống tài chính - ngân hàng nước
ta cũng đã liên tục được cải cách theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo phân bổ hiệu quả và an toàn các
nguồn lực tài chính. Mô hình hoạt động BHTG của Việt Nam đã được cộng đồng BHTG quốc tế công
nhận là mô hình tiên tiến, hiệu quả. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam còn
tản mạn, chắp vá, chưa đồng bộ, chưa tạo được cơ sở pháp lí cho BHTGVN thực hiện tốt sứ mệnh của
mình.
3. Pháp luật về hoạt động BHTG và thực thi pháp luật về hoạt động BHTG là các yêu cầu quan
trọng của quản lí nhà nước trong lĩnh vực BHTG nói riêng và trong lĩnh vực tài chính, NH nói chung. Để
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ BHTG, trên cơ sở kế thừa
những kết quả nghiên cứu của khoa học kinh tế, tài chính về BH và BHTG, Luận án đã khái quát một số
vấn đề về hoạt động BHTG, so sánh hoạt động BHTG và hoạt động BHTM, lấy đó làm tiền đề cho việc
nghiên cứu khía cạnh pháp lí của hoạt động BHTG và pháp luật về hoạt động BHTG. Trong đó, Luận án
tập trung xây dựng lí luận về các vấn đề lớn như Địa vị pháp lí của chủ thể thực hiện hoạt động BHTG;
tạo lập, quản lí và sử dụng quĩ BHTG; các nội dung của hoạt động BHTG; giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hoạt động BHTG ở Việt Nam. Đó là những luận cứ khoa học pháp lí cơ bản làm cơ sở cho việc đánh
giá thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
4.Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật về hoạt động BHTG của Việt Nam, khảo sát và đánh giá

thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam trong hơn mười năm qua, Luận án phân tích
những tác động tích cực của pháp luật về hoạt động BHTG đối với hoạt động tài chính, NH ở Việt Nam,
khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà Nước ta về định hướng xây dựng khung pháp lí cho hoạt
động tài chính, NH đáp ứng nhu cầu của nền KTTT, trong đó có chủ trương tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
hoạt động BHTG. Đồng thời, Luận án cũng phân tích những mặt “chưa được” của pháp luật về hoạt động
BHTG hiện hành. Những đánh giá này được đưa ra trên các mặt như: sự bất cập trong các qui định pháp
luật về địa vị pháp lí của tổ chức BHTG Việt Nam - chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động BHTG; về
các nội dung hoạt động BHTG và một số vấn đề liên quan. Những phân tích trên về thực trạng pháp luật về
hoạt động BHTG của Việt Nam là cơ sở để Luận án đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt
động BHTG nhằm tạo cơ sở pháp lí đầy đủ cho hoạt động BHTG ở Việt Nam.
5. Trên cơ sở những vấn đề đặt ra đối với hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG hiện hành, Luận án
phân tích những yêu cầu, định hướng của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG; đưa ra những
phương hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG về vị trí pháp lí của tổ chức BHTG Việt
Nam; quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức BHTG Việt Nam về tạo lập, sử dụng quĩ BHTG, thực hiện các nội
dung hoạt động BHTG. Mặt khác, Luận án cũng phân tích những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về hoạt động BHTG. Đây là yếu tố không thể thiếu để đánh giá tính hiệu quả của một hệ thống
pháp luật về hoạt động BHTG. Trong quá trình nghiên cứu pháp luật về hoạt động BHTG, Luận án cũng
nghiên cứu tham chiếu đến pháp luật về hoạt động BHTG của một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
được đánh giá là có hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG hiệu quả và các quốc gia có điểm tương đồng
về điều kiện triển khai thực hiện hoạt động BHTG với Việt Nam như Mĩ, Hàn quốc, Đài loan, Indonexia,
Canada, Pháp… Mặt khác, nghiên cứu những đánh giá của Hiệp hội BHTG quốc tế về công tác xây dựng
hệ thống pháp luật về hoạt động BHTG ở các nước. Việc nghiên cứu tham chiếu được tiến hành phù hợp
với các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án. Trên cơ sở đó, đưa ra những kết luận ứng dụng
tại Việt Nam thông qua đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG cũng như nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động BHTG ở Việt Nam.
6. Các qui định pháp luật về hoạt động BHTG bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế, xã hội và hệ
thống pháp luật khác liên quan. Cho đến nay, Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về
pháp luật về các hoạt động BHTG ở Việt Nam. Trong điều kiện kiến thức và khả năng nghiên cứu của Tác
giả còn hạn chế, với dung lượng cho phép của một Luận án, đề tài nghiên cứu lại có tính chuyên sâu, cho
nên, một số nội dung nghiên cứu đã đặt ra trong Luận án nhưng chưa được giải quyết triệt để. Đó là vấn

đề quản trị tài chính của tổ chức BHTG; vị trí pháp lí của tổ chức BHTG trong hệ thống tài chính quốc
gia; cơ chế giải quyết tranh chấp về hoạt động BHTG bằng Tòa án có thể trở thành ý tưởng cho những
công trình nghiên cứu tiếp theo để vấn đề được nghiên cứu sâu sắc và hoàn thiện hơn.

References
I. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Lê Thị Nguyệt Anh - Nguyễn Thị Hồng Ngọc (2009), “Bảo hiểm tiền gửi và việc xây dựng mạng
lưới an toàn tài chính quốc gia”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (10), Tr.19-21;
2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2011), Báo cáo kết quả hỗ trợ tài chính đến năm 2010, Hà Nội;
3. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2011), “Khảo sát mong muốn của người dân về chính sách BHTG”,
Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (18), Tr.10-11;
4. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2012), Báo cáo tổng kết thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về BHTG giai đoạn 1999-2011, Hà Nội;
5. BHTG Việt Nam (2010), “Sinhgapo mở rộng phạm vi bảo hiểm tiền gửi”, Thông tin BHTG Việt
Nam (15), Hà Nội;
6. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2012), Báo cáo tổng kết thực hiện vác văn bản quy phạm pháp luật
về BHTG giai đoạn 1999-2011,Hà Nội, Tr.8;
7. Bộ Tài chính (1994), Quyết định số 101/TC-QĐ-BH ngày 01/01/1994 của Bộ tài chính về Qui tắc
bảo hiểm trách nhiệm của Quĩ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kì hạn, Hà Nội;
8. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo thẩm định dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi, số 148/BC-HĐTĐ, ngày
06/9/2011, Hà Nội;
9. Chính phủ (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về Bảo hiểm tiền gửi, Hà Nội;
10. Chính phủ (2001), Nghị định số 48 ngày 13/8/2001 về Tổ chức và hoạt động của Quĩ Tín dụng
nhân dân, Hà Nội;
11. Chính phủ (2005) Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
thành lập BHTGVN, Hà Nội;
12. Chính phủ (2005), Nghị định 109/2005/ NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP;
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 qui định áp dụng Luật Phá sản
đối với các TCTD và Công ty tài chính, Hà Nội;

14. Chính phủ (2011), Tờ trình về Dự án Luật bảo hiểm tiền gửi, Số 162/TTr-CP ngày 19/9/2011, Hà
Nội;
15. Đặng Duy Cường (2007), “Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro”, Thông tin bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam (5);
16. Đặng Duy Cường, “Quỹ bảo hiểm tiền gửi mục tiêu và một số vấn đề đặt ra đối với bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam” Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, (8), Tr.22;
17. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thức VI của ĐCS Việt
Nam, Hà Nội;
18. Nguyễn Mạnh Dũng, “Kinh nghiệm tính phí bảo hiểm tiền gửi căn cứ vào mức độ rủi ro của các
ngân hàng tại Canada”, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ (4), Tr.31;
19. Nguyễn Mạnh Dũng, “Quy mô quỹ bảo hiểm tiền gửi bao nhiêu là phù hợp”? Tạp chí Ngân hàng
(22), Tr.60-63 và 68;
20. Nguyễn Sỹ Dũng, (2009)“Thiếu nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động BHTG rõ ràng là một
hạn chế”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (13), Tr.8-9;
21. Lê Thẩm Dương, (2010)“Bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính – khoảng trống pháp
lý”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (15), Tr.11-12;
22. Hoàng Thu Hằng (2007), “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (5);
23. Hoàng Thu Hằng (2011), “Đối tượng bảo hiểm tiền gửi trong pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của
Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (12);
24. Trần Đình Hảo (2008), “Về địa vị pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, Thông tin
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (6), Tr.11-12 và 28;
25. Nguyễn Thị Hiển (2008), Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, Tr.9;
26. Phạm Thị Hiền (2009), “Cần làm rõ hơn một số nội dung về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm
cũng như quy định về tính, nộp phí bảo hiểm tiền gửi”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (12),
Tr.25-26;
27. Phạm Thị Hiền, “Hoạt động giám sát từ xa tại các chi nhánh của DIV một số kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng giám sát trong thời gian tới”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (8), Tr.12;
28. Nguyễn Am Hiểu, “Một vài vấn đề về xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi”, Thông tin bảo hiểm tiền

gửi Việt Nam (12), Tr.12-13;
29. Nguyễn Duy Hoàn (2009), “Yêu cầu cấp thiết nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG tại Việt Nam”,
Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (12), Tr.4-8;
30. Học viện ngân hàng (2010), Đề tài nghiên cứu “Hệ thống giám sát tài chính quốc gia”, Đề tài
nghiên cứu cấp Học viện, Hà Nội;
31. Bùi Thu Hương (2010), Hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ BHTG Việt Nam trong thời kì hội nhập,
Luận án văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng năm 2010;
32. Dương Thu Hương (2007), “Hoàn thiện mô hình BHTG tại Việt Nam: Phương án hữu hiệu giải bài
toán hội nhập kinh tế”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (5), Tr.1-2;
33. Dương Thu Hương (2008), “Tính phí trên cơ sở rủi ro góp phần lành mạnh hóa hệ thống ngân
hàng”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (6), Tr.9-10;
34. Nguyễn Thị Thu Hương (2009), “Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi bao nhiêu là phù hợp?”,
Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (11);
35. Cao Sỹ Kiêm (2008), “Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ có bước tiến xa”, Thông tin bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam (9), Tr.2;
36. Trương Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh (2001), Một số điều cần biết về mặt pháp lý trong kinh doanh
bảo hiểm, NXb Thống kê, Hà Nội, 2001, Tr.22;
37. Lê Quốc Lý (2008),“Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề nâng cao năng lực tài chính”, Tạp chí Ngân
hàng (12), Tr.40;
38. Đỗ Thanh Nga (2011), “Bảo hiểm tiền gửi ĐàiLoan xử lí khủng hoảng tài chính và kinh nghiệm
cho Việt Nam”; Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (12), Tr.21-23;
39. Lê Hoàng Nga (2007), “Vai trò của bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống giám sát tài chính ở Việt
Nam”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (5), Tr.5-7;
40. Lê Hoàng Nga (2009), “Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và vấn đề an toàn, lành mạnh hệ thống tài
chính, ngân hàng Việt Nam, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (9), Tr.5-7;
41. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 -
2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội;
42. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2006), Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 của Ngân
hàng nhà nước Việt nam về việc hướng dẫn một số nội dung tại định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01/9/1999 và Nghị định 109/2005/ NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ;

43. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam v/v hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Nghị
định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về thủ tục cấp, cấp đổi, thu hồi giấy Chứng nhận BHTG,
chấm dứt BHTG, Hà Nội;
44. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Báo cáo thường niên các năm từ năm 1997 đến năm 2008,
Hà Nội;
45. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Báo cáo tác động của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, Hà
Nội;
46. Ngân hàng Nhà nước Việt nam (2011), Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
giai đoạn 1999 – 2010, Hà Nội;
47. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Báo cáo thường niên các năm 1997-2006;
48. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Tổng hợp, tiếp thu,giải trình ý kiến góp ý của các Bộ,
Ngành về dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi – Giải trình của NHNN Việt Nam;
49. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Tổng hợp, tiếp thu,giải trình ý kiến góp ý của các TCTD,
BHTGVN,ý kiến qua website NHNN Việt nam về dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi - Ý kiến của
BHTGVN;
50. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Tổng hợp, tiếp thu,giải trình ý kiến góp ý của các Bộ,
Ngành về dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi – Giải trình của NHNN Việt Nam;
51. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Tổng hợp, tiếp thu,giải trình ý kiến góp ý của các Bộ,
Ngành về dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi – Ý kiến của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam;
52. Nguyễn Trọng Nghĩa (2010), “Cơ chế xử lý đổ vỡ ngân hàng”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam (15), Tr.8-10;
53. Nguyễn Trọng Nghĩa (2008), “Một số ý kiến về bảo hiểm tiền gửi với hoạt động ngân hàng”,
Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (9), Tr.3-4 và 7;
54. Nhóm nghiên cứu Phòng NCTH&HTQT (2009), “Thấy gì từ việc xử lí khủng hoảng ngân hàng ở
Mĩ của Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam;
55. Nguyễn Thị Kim Oanh (2002), “Rủi ro đạo đức trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Ngân
hàng (8), Tr.55;
56. Nguyễn Thị Kim Oanh (2003), “Bàn về tính phí bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Ngân hàng (14);
57. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), “Bảo hiểm tiền gửi, nguyên lý thực tiễn và định hướng”, NXB Lao

động – xã hội, Hà Nội, Tr.93;
58. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi, Luận án
Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội, 2004;
59. Nguyễn Thị Kim Oanh (2005), “Bảo hiểm tiền gửi - thực tiễn và triển vọng”, Tạp chí Thị trường tài
chính tiền tệ số ra ngày 01/7/2005, Hà Nội, Tr.7;
60. Nguyễn Thị Kim Oanh (2009), “Đột biến rút tiền gửi, thách thức không thể xem nhẹ”, Thông tin
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Hà Nội;
61. Nguyễn Thị Kim Oanh, (2010), “Hậu khủng hoảng tài chính và sự phát triển của bảo hiểm tiền
gửi”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (14), Tr.5-8;
62. Phòng Nghiên cứu tổng hợp và Hợp tác quốc tế (DIV), “Chính sách hạn mức bảo hiểm tiền gửi
trong khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua và vấn đề đặt ra với Việt Nam”, Thông tin bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam (12), Tr. 29-31;
63. Quốc hội (2000), Luật kinh doanh bảo hiểm, Ngày 09/12/2000, Hà Nội, Khoản 1, Điều 3;
64. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội;
65. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự, Hà Nội 2005;
66. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội;
67. Quốc hội (2008), Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật 2008 của Nhà nước CHXHCN Việt
Nam, Hà Nội;
68. Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội;
69. Quốc hội (2010), Luật trọng tài thương mại, Hà Nội
70. Quốc hội, Bộ luật dân sự 2005, Điều 567;
71. Quốc hội, Luật Bảo hiểm tiền gửi, ngày 18/6/2012;
72. Quốc hội, Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 12;
73. Sebastian Schich (2008), Khủng hoảng tài chính: Bảo hiểm tiền gửi và các vấn đề liên quan của
mạng an toàn tài chính, OECD;
74. Lê Thị Thúy Sen (2004), “Sự ra đời của BHTG trên thế giới, châu Á và Việt Nam”, Tạp chí tài
chính - tiền tệ (9), Tr.33;
75. Lê Thị Thúy Sen (2009), “Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề an sinh xã hội”, Thông tin bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam (10), Tr.30-31;
76. Bùi Khắc Sơn (2007), “Xây dựng Luật BHTG - yêu cầu tất yếu và cấp bách khi Việt nam gia nhập

WTO”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (5);
77. Bùi Khắc Sơn (2005), “Bảo hiểm tiền gửi Việt nam phát triển và hội nhập”, Bài phỏng vấn do
Thanh Bích thực hiện, Tạp chí Thị trường Tài chính, (7), Tr.5;
78. Đinh Dũng Sỹ (2002), “Bảo hiểm tiền gửi và vấn đề an toàn tín dụng”, Tạp chí Luật học (6);
79. Đinh Dũng Sỹ (2008), “Mô hình BHTG ở Việt nam hiện nay và những vấn đề cần quan tâm
nghiên cứu khi xây dựng Luật BHTG”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (6), Tr.5-8;
80. Đinh Dũng Sỹ (2009), “Địa vị pháp lý của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam”, Thông tin bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam (10), Tr.6-9;
81. Đinh Dũng Sỹ (2009), “Vai trò của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam”, Thông tin bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam (13), Tr.25;
82. Nguyễn Minh Tân (2009), “Về cơ chế tài chính để nâng cao năng lực tài chính của bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (10), Tr.10-11 và 29;
83. Võ Trí Thành, (2009); “Ý nghĩa, nguyên tắc xây dựng và việc áp dụng hệ thống BHTG tại Việt
Nam”, Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (13), Tr.11và 13;
84. Đinh Xuân Thảo (2011), “Cải cách thể chế giám sát tài chính bảo vệ tốt hơn người gửi tiền”,
Thông tin bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (16), Tr.4-5;
85. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 75/QĐ-TTg ngày 28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ
kèm theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của BHTG Việt Nam, Hà Nội;
86. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020, Hà Nội;
87. Hồ Sỹ Thụy (2005), “Giám sát của bảo hiểm tiền gửi Việt nam đối với hoạt động của các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Thị trường tài chính (1), Tr.31;
88. Lê Thị Thu Thuỷ (2007), “Bàn về mô hình bảo hiểm tiền gửi trong thời kì hội nhập quốc tế”, Tạp
chí Luật học (12);
89. Lê Thị Thu Thủy (2008), Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội;
90. Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (2002), Từ điển thuật ngữ kinh doanh BH, Hà Nội;
91. Nguyễn Danh Trọng, “Trao đổi một số nội dung về Dự thảo Luật bảo hiểm tiền gửi”, Thông tin
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (8);

92. Đào Văn Tuấn (2005), Giải pháp hoàn thiện chính sách BHTG ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Ngân Hàng, Hà Nội, Tr. 99;
93. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà
Nội, 2007, Tr.73-81;

×