Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở
Việt Nam
Nguyễn Duy Hoàn
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Anh Sơn
Năm bảo vệ: 2011
Abstract. Trình bày một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm
tiền gửi như: sự hình thành, phát triển, khái niệm, bản chất, mục đích của bảo hiểm
tiền gửi và vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Nghiên cứu thực trạng pháp luật về
hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các nhu
cầu và cơ sở hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; Luật Bảo hiểm; Tiền tệ
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới, điều đó đặt ra nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng tiềm ẩn những
thách thức đối với hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam.
Do vậy, cần có sự cân bằng giữa sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính - ngân
hàng và sự phát triển ổn định của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ đã sử dụng
công cụ Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) để bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn hệ
thống ngân hàng thông qua các công cụ kiểm soát rủi ro mà Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
(BHTGVN) thực hiện.
Được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2000, BHTGVN đã chứng minh được vị trí
và vai trò của mình trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần ổn định hệ thống tài - ngân
hàng và nền kinh tế. Tuy nhiên, trước bối cảnh hội nhập sâu rộng và đổi mới mạnh mẽ của hệ
thống tài chính - ngân hàng, nhiều quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực BHTG, đặc biệt là
mô hình tổ chức không còn phù hợp và cần có sự hoàn thiện. Xây dựng Luật BHTG với mô
hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro đã trở thành yêu cầu tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay.
Trước thực trạng đó, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có một số nghiên cứu về BHTG như: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam của TS. Lê Thị Thu Thủy, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội, năm 2008. Cuốn
chuyên khảo này đã đề cập đến mọi vấn đề của BHTG như một cuốn giáo trình về BHTG, cung
cấp cho bạn đọc nhiều thông tin quý báu về BHTGVN và thế giới, tuy nhiên công trình này
chưa đi sâu vào từng khía cạnh của BHTG. Một số công trình khác chủ yếu tập trung vào quy
chế pháp lý và hoạt động nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, tiếp nhận và xử lý, phí BHTG, lợi ích
của BHTG như: Bảo hiểm tiền gửi - Nguyên lý, thực tiễn và định hướng, TS. Nguyễn thị Kim
Oanh, Nhà xuất bản Lao động xã hội, tháng 12 năm 2004; Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền
gửi tại Việt Nam, ThS. Lê Thị Thúy Sen, Viện Nhà nước Pháp luật, năm 2008. Ngoài ra cũng
có một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí đề cập đến vai trò của tổ chức BHTG trong việc
bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách tổng quát
về mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam trong bối cảnh sau khi Việt Nam gia nhập WTO và đặc
biệt sau khủng hoảng tài chính - ngân hàng vừa qua thì hiện nay chưa có công trình nào. Trong
bối cảnh nước ta đang hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính - ngân hàng, trong đó có việc
hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động BHTG thì việc nghiên cứu đề tài
"Pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" là cần thiết.
Hơn nữa, đây là một lĩnh vực mới ở Việt Nam nên tài liệu tham khảo trong nước không
nhiều, đặc biệt là sách nghiên cứu về vấn đề này hầu như rất ít. Một số tài liệu tham khảo có
thể tìm thấy như các bài viết của các chuyên gia kinh tế, chuyên gia pháp lý đăng trên các tạp
chí nghiên cứu của ngành ngân hàng và của BHTGVN: Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền
theo pháp luật về BHTG tại Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện GS.TSKH
Đào Trí Úc, Thông tin BHTG số 03 tháng 4 năm 2007; Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền
gửi, Đặng Dung, Giám đốc văn phòng luật sư DDZ, Báo điện tử Vietnamnet, ngày
03/3/2010. Tài liệu tham khảo nước ngoài về BHTG cũng ít vì đây là lĩnh vực mới chưa được
nhiều người quan tâm nghiên cứu, biên dịch.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ hơn nguyên lý, vai trò của tổ chức BHTG, đánh giá
khách quan về thực trạng mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam. Tìm hiểu các quy định pháp
luật liên quan đến tổ chức và hoạt động BHTG ở một số nước phát triển và trong khu vực để
thấy được sự khác nhau và kinh nghiệm quốc tế về mô hình tổ chức BHTG, trên cơ sở đó có
thể vận dụng vào điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam.
Điểm mới của luận văn là bên cạnh việc tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về tổ chức và hoạt động BHTG tại Việt Nam, luận văn có sự so sánh, đối chiếu với
thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đánh giá khách quan, từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam.
Luận văn này có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng luật BHTG cũng
như góp phần vào công tác tuyên truyền đến công chúng về lĩnh vực BHTG tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nguyên lý hoạt động BHTG, thực trạng pháp luật
về tổ chức BHTG tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, nêu ra những bất cập và hướng hoàn thiện pháp
luật về tổ chức BHTG ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên lý hoạt động BHTG, thực trạng
các quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam, trên cơ sở
so sánh, đối chiếu với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về mô hình tổ chức BHTG.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được viết trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn được các
nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra, những tài liệu được công bố trên tạp chí, bài viết, bài báo,
báo cáo tổng kết của ngành BHTGVN và các cơ quan từ hoạt động thực tiễn ở Việt Nam và
các tài liệu, các nguồn từ nước ngoài.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: thống kê, so sánh, đối chiếu,
phân tích, chứng minh, tổng hợp, quy nạp… để rút ra những kết luận khoa học của mình.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn
nguyên lý chung về BHTG, pháp luật về tổ chức BHTG tại Việt Nam và sau khi nghiên cứu
pháp luật về BHTG của một số nước trên thế giới và tìm hiểu thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
để từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức
BHTG tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Sự hình thành, phát triển của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển bảo hiểm tiền gửi trên thế giới
Nguồn gốc ra đời của BHTG gắn liền với việc bảo vệ ngầm, dần chuyển sang bảo vệ
công khai tiền gửi. Hoạt động BHTG công khai được thực hiện đầu tiên ở New York (Mỹ)
vào năm 1829 với tên gọi "chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng", nhằm đáp ứng sự
đổ vỡ mang tính chất định kỳ của các ngân hàng Mỹ vào thế kỷ XIX.
Sau thời gian thử nghiệm thành lập tổ chức BHTG ở một số bang đạt hiệu quả, thì cùng với
chính sách ngân hàng tự do ở Mỹ (1886) và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) đã
làm hàng loạt ngân hàng ở Mỹ hoạt động rất khó khăn và đỉnh cao là năm 1933 có 4000 ngân
hàng thương mại phải ngừng hoạt động. Trong bối cảnh như vậy, để ứng phó với tình huống
phức tạp nhằm ổn định tình hình kinh tế, chính trị thì phải bảo vệ người gửi tiền và Chính phủ
Mỹ đã quyết định thành lập BHTG Liên bang (FDIC) năm 1933. FDIC bắt đầu hoạt động ngày
1/4/1934 và đây là mô hình BHTG công khai đầu tiên trên thế giới. FDIC có vị trí pháp lý độc lập
với Chính Phủ, chịu sự kiểm soát trực tiếp của Quốc hội. Tính đến nay, FDIC là tổ chức BHTG
công khai sớm nhất và được đánh giá có nhiều thành công, là mô hình được nhiều quốc gia tham
khảo và vận dụng. Đến nay, đã có hơn 100 quốc gia sử dụng hệ thống BHTG công khai bảo vệ
người gửi tiền và hiện nay có nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển thành lập hệ thống
BHTG.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam
Bối cảnh trong nước
Vào những năm 1988 - 1990 hàng loạt các hợp tác xã tín dụng đô thị bị đổ vỡ trên toàn
quốc gây ra những bất ổn về kinh tế và chính trị. Trước tình hình đó, bảo vệ người gửi tiền là
rất quan trọng đòi hỏi phải có một tổ chức BHTG chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế.
Bối cảnh quốc tế
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997, BHTG là công cụ tài chính được
một số Chính phủ ở Châu Á sử dụng hữu hiệu trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và lấy lại
niềm tin của công chúng.
Trước bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, đòi hỏi sự ra đời của tổ chức BHTG là hết
sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu khách quan của thị trường tài chính cũng như toàn bộ
nền kinh tế. Vì vậy, trong khoản 1 Điều 17, Luật Tổ chức tín dụng ban hành năm 1997 đã
quy định: "Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn tiền gửi hoặc bảo hiểm
tiền gửi". Điều đó là cơ sở quan trọng để tổ chức BHTG ra đời.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo Quyết định 218/1999/QĐ-Ttg, hoạt
động theo Nghị định 89/1999/NĐ-CP và đi vào hoạt động từ ngày 7/7/2000. BHTGVN là tổ
chức tài chính nhà nước thực hiện chính sách BHTG, là công cụ tài chính được Chính phủ sử
dụng để thay mặt Chính phủ bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính -
ngân hàng.
1.2. Khái niệm, bản chất, mục đích của bảo hiểm tiền gửi
1.2.1. Khái niệm, bản chất bảo hiểm tiền gửi
1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc
tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi bao gồm: phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tổ
chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi
tiền.
Tổ chức BHTG: Tổ chức BHTG là đối tác nhận đóng góp tài chính (phí BHTG) từ tổ
chức tham gia BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người
gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức đó chấm dứt
hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Tổ chức tham gia BHTG: Là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có
hoạt động huy động tiền gửi, tham gia BHTG.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm: Là khách hàng có tiền gửi thuộc đối
tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG.
1.2.1.2. Bản chất bảo hiểm tiền gửi
BHTG cũng mang bản chất chung của các loại hình bảo hiểm khác, hoạt động theo nguyên lý
lấy số đông bù số ít nhưng BHTG hoạt động có tính chất đặc thù, là hoạt động cung cấp dịch vụ
công, không vì mục tiêu lợi nhuận.
1.2.2. Mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Là nhằm thực hiện chính sách công, vì vậy đa số các nước thiết kế để bảo vệ số đông
người gửi tiền; góp phần đảm bảo hệ thống tài chính - ngân hàng hoạt động lành mạnh, ổn
định.
1.2.2. Phân biệt bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm thương mại
- Về tính chất hoạt động: Cũng giống như các loại hình bảo hiểm thương mại khác, hoạt
động BHTG mang tính chất chung của hoạt động bảo hiểm tức là dựa trên nguyên tắc lấy số
đông bù số ít.
- Về cơ chế bảo hiểm: Ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác, một bên là tổ chức bảo
hiểm và một bên là đối tượng được bảo hiểm. Còn ở BHTG thì khác, mặc dù người gửi tiền
là người được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG nhưng không xuất hiện mối quan hệ
trực tiếp về BHTG giữa người gửi tiền và tổ chức BHTG trừ trường hợp xảy ra đổ vỡ của tổ
chức tín dụng.
- Đối tượng được hưởng các quyền lợi bảo hiểm: Mặc dù người gửi tiền được hưởng các
quyền lợi trực tiếp từ chính sách BHTG nhưng họ không phải trực tiếp tham gia BHTG.
- Đối tượng tham gia BHTG: Các tổ chức tín dụng (TCTD) hoặc không phải là TCTD
nhưng có hoạt động huy động tiền gửi của tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng tham gia
BHTG. Đối tượng tham gia bảo hiểm của các loại hình bảo hiểm thương mại là các tổ chức
hoặc cá nhân.
- Cơ chế tham gia BHTG: Cơ chế tham gia BHTG thông thường là bắt buộc, còn đối với
các loại hình bảo hiểm khác thì có thể tự nguyện hay thỏa thuận.
- Hình thức pháp lý tham gia: Tham gia BHTG là sự bắt buộc đối với tổ chức tham gia
BHTG, không thông qua hợp đồng bảo hiểm. Đây là sự khác biệt tương đối đặc trưng, còn ở
các loại hình bảo hiểm thương mại khác là sự thỏa thuận giữa tổ chức bảo hiểm và người
được bảo hiểm, phải thông qua hợp đồng bảo hiểm.
- Nội dung bảo hiểm: Ở BHTG là sự bắt buộc theo những quy định của pháp luật còn ở các
loại hình bảo hiểm khác thì có thể do sự lựa chọn của chủ thể về nội dung tham gia bảo hiểm.
Ngoài sự khác biệt nêu trên, còn có những khác biệt về mô hình tổ chức, về hoạt động, sản
phẩm dịch vụ…
1.3. Một số vấn đề về liên quan đến mô hình tổ chức và hoạt động bảo hiểm tiền gửi
1.3.1. Về mô hình bảo hiểm tiền gửi
1.3.1.1. Mô hình bảo hiểm tiền gửi tự nguyện và bắt buộc
BHTG tự nguyện được ít nước áp dụng hoặc ở giai đoạn đầu thử nghiệm, đa số các nước
áp dụng hình thức BHTG là bắt buộc. Theo Kent và Sobaci, trong tổng số 68 hệ thống BHTG
được nghiên cứu chỉ có 13 hệ thống BHTG tham gia tự nguyện, 55 hệ thống tham gia BHTG
bắt buộc. Ở Việt Nam hiện nay, theo mô hình BHTG công khai và bắt buộc đối với các
TCTD có nhận tiền gửi của công chúng.
1.3.1.2. Mô hình chức năng
(i) Mô hình chi trả;
(ii) Mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng;
(iii) Mô hình giảm thiểu rủi ro, Hiện nay trên thế giới, xu hướng chung là theo mô hình tổ
chức giảm thiểu rủi ro vì mục tiêu của BHTG là thực hiện chính sách công mà mô hình tổ
chức giảm thiểu rủi ro là thực hiện tốt nhất chính sách công.
1.3.1.3. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi
(i) Tổ chức BHTG tư nhân: Tổ chức này không phải là một pháp nhân, tài sản của quỹ
độc lập với tài sản của Hiệp hội ngân hàng. Nhà nước không cấp vốn mà chỉ định ra các điều
kiện pháp lý cho tổ chức BHTG thành lập và hoạt động, vốn là do các ngân hàng đóng góp.
(ii) Tổ chức BHTG công: Theo mô hình này, tổ chức BHTG có tư cách pháp nhân, có
quyền hạn như một cơ quan thuộc chính phủ nên có thẩm quyền ban hành các văn bản mang
tính chất quy phạm pháp luật, được nhà nước cấp vốn ban đầu khi thành lập. Xu thế chung là
theo mô hình tổ chức BHTG của nhà nước, trong số 68 quốc gia được nghiên cứu, chỉ có 11
nước tổ chức theo mô hình tư nhân. Mô hình này rất phù hợp với những nước có thị trường
tài chính chưa phát triển, hoạt động của hệ thống ngân hàng tiềm ẩn rủi ro lớn, trong đó có
Việt Nam.
1.3.2. Về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
1.3.2.1. Năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Theo thông lệ quốc tế, Quỹ dự trữ bắt buộc của tổ chức BHTG trên tổng số dư tiền gửi
được bảo hiểm ở mức an toàn là ở mức từ 1.15% đến 1.5%. Ở Việt Nam tỷ lệ này là 0,9% là
thấp.
1.3.2.2.Về các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi
(i) Nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia BHTG;
(ii) Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia BHTG;
(iii) Nghiệp vụ xử lý đổ vỡ ngân hàng;
(iv) Nghiệp vụ chi trả và giám sát thanh lý tài sản sau chi trả.
1.3.2.3. Về cơ chế bảo hiểm tiền gửi
(i) Tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm;
(ii) Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm;
(iii) Thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm;
1.3.3. Về sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan
1.3.3.1. Phối hợp trong việc giám sát hệ thống tài chính
Mạng lưới giám sát an toàn tài chính quốc gia bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) và tổ chức BHTG, trong đó, UBGSTCTTQG là cơ quan điều phối chung của
Chính phủ.
1.3.3.2. Phối hợp trong việc xử lý đổ vỡ tổ chức tín dụng
(i) Quy định mối quan hệ giữa BHTG và NHNN;
(ii) Quy định mối quan hệ giữa BHTG và Bộ Tài chính;
(iii) Quy định mối quan hệ giữa BHTGVN với các cơ quan khác;
1.4. Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1.4.1. Đối với người gửi tiền
BHTG sẽ chi trả toàn bộ hoặc một phần tiền gửi cho người gửi tiền nếu tổ chức bị đổ vỡ
không có khả năng làm việc đó.
1.4.2. Đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và hệ thống tài chính, ngân hàng
BHTG góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng từ khi
cấp phép cho đến khi chấm dứt hoạt động.
1.4.3. Đối với sự phát triển kinh tế và góp phần ổn định xã hội
Thông qua vai trò bảo vệ người gửi tiền, xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng
đối với hệ thống ngân hàng, BHTG có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình huy động vốn
phục vụ phát triển.
1.4.4. Vai trò trong xử lý khủng hoảng tài chính, ngân hàng
BHTG có vai trò quan trong trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính, ngân hàng. Việc
các quốc gia nâng hạn mức chi trả BHTG hoặc tuyên bố bảo hiểm toàn bộ tiền gửi của người dân
đã góp phần ngăn ngừa được tình trạng rút tiền ồ ạt, nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ
thống ngân hàng.
Như vậy, pháp luật về BHTG và tổ chức BHTG có vai trò rất quan trọng, là công cụ hữu hiệu
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh
hoạt động của TCTD và nền kinh tế.
Tóm lại, việc nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận chung về BHTG và
tổ chức BHTG cho chúng ta thấy được sự hình thành và phát triển của hệ thống BHTG trên
thế giới và ở Việt Nam ngày càng phát triển. Việc làm rõ khái niệm, bản chất, mục đích của
BHTG giúp phân biệt được sự khác nhau giữa BHTG và bảo hiểm thương mại thông thường.
Qua đó, cũng thấy được đặc trưng cơ bản của BHTG được thể hiện dưới các góc độ được
nghiên cứu như: về mô hình tổ chức, về hoạt động BHTG và sự phối hợp giữa tổ chức BHTG
và các cơ quan liên quan trong việc giám sát, kiểm tra và xử lý đỗ vỡ ngân hàng; Đồng thời,
thấy được vai trò to lớn của tổ chức BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm
bảo an toàn, lành mạnh hoạt động của các tổ chức tín dụng, xử lý khủng hoảng ngân hàng và
góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội của mỗi quốc gia.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
2.1. Vị trí pháp lý, mô hình chức năng, nhiệm vụ
2.1.1. Vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
- Các quy định của pháp luật xác định vị trí pháp lý của tổ chức BHTGVN được quy định
tại Khoản 1 Điều 17 Luật Tổ chức tín dụng năm 1997; Điều 1 Luật NHNN sửa đổi, bổ sung
năm 2003; Nghị định 89/1999/NĐ-CP và Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định 89/1999 của Chính phủ; Quyết định 218 của Thủ tướng
Chính phủ về thành lập BHTGVN; Quyết định 75/2000 của Thủ tướng Chính phủ về Điều lệ
tổ chức và hoạt động của BHTGVN. Đây là căn cứ pháp luật quy định địa vị pháp lý của tổ
chức BHTGVN và BHTGVN được thành lập để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, thực hiện chính sách công - dịch vụ BHTG.
Ở Việt Nam, tuy chưa có luật BHTG như các nước nhưng căn cứ vào Nghị định
89/1999/NĐ-CP của Chính phủ là cơ sở để triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi. Căn cứ
vào các văn bản pháp luật nêu trên có đủ cơ sở xác định vị trí pháp lý của tổ chức BHTGVN
trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
- Vấn đề địa vị pháp lý của tổ chức BHTGVN là vấn đề quan trọng nhất, cốt lõi nhất
trong các quy định pháp luật BHTG. Vị trí pháp lý sẽ xác định trách nhiệm, quyền hạn và
nghĩa vụ của tổ chức BHTG trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức tham gia
BHTG và người gửi tiền. Căn cứ các quy định trên, với tên gọi "Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam", thì BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của
các tổ chức tham gia BHTG và ổn định của thị trường tài chính - tiền tệ.
Như vậy, BHTGVN được xác định trong pháp luật BHTG là tổ chức tài chính nhà nước,
có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, đảm bảo an toàn vốn và tự bù đắp chi phí, hoạt
động trên phạm vi cả nước, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong nước và nước ngoài.
Đây là căn cứ xác định vị trí pháp lý tổ chức BHTGVN là tổ chức độc lập thuộc Chính
phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực BHTG.
Theo quy định của pháp luật về BHTG có thể khẳng định BHTGVN là tổ chức tài chính
nhà nước, độc lập thuộc Chính phủ. Tuy nhiên, do không quy định cụ thể vấn đề này trong
văn bản luật đã làm hạn chế chức trách, nhiệm vụ của BHTGVN. Việc thiết kế, xác định địa vị
pháp lý không rõ ràng, phù hợp sẽ ảnh hưởng về mặt xã hội, vì đây là tổ chức bảo vệ cho hàng
chục triệu người gửi tiền, ảnh hưởng đến chính sách an sinh xã hội.
So sánh địa vị pháp lý của tổ chức BHTGVN với các hệ thống BHTG trên thế giới có thể
kết luận: Vị trí pháp lý của BHTGVN cũng gần giống địa vị pháp lý của tổ chức BHTG các
nước, nhưng pháp luật các nước quy định rất cụ thể về vấn đề này, còn pháp luật Việt Nam
không quy định rõ. Đây là hạn chế cần được bổ sung trong pháp luật về vị trí pháp lý của
BHTGVN để tiến dần theo thông lệ chung và theo khuyến nghị của Hiệp Hội BHTG Quốc tế.
Văn bản pháp luật không quy định rõ cơ quan quản lý tổ chức BHTGVN, nhưng căn cứ
vào việc Thủ tướng Chính phủ thành lập, phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của
BHTGVN, có thể kết luận BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước do Chính phủ quản lý.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Luật NHNN (tháng 6/2010) đã có nhiều quan điểm
khác nhau về cơ quan quản lý nhà nước đối với tổ chức BHTGVN, nhưng đa số các nhà nghiên
cứu về kinh tế, tài chính - ngân hàng và luật pháp đều cho rằng BHTGVN là tổ chức tài chính nhà
nước độc lập do Chính phủ quản lý là phù hợp theo thông lệ quốc tế. Vì vậy, tại khoản 14 Điều 4
Luật NHNN chỉ quy định: NHNN thực hiện quản lý nhà nước về BHTG theo quy định của
pháp luật về BHTG. Theo các quy định hiện hành, BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước,
nhưng cần quy định rõ là tổ chức tài chính nhà nước đặc biệt, độc lập do Chính phủ quản lý.
Vì vậy, cần nghiên cứu, xác định cụ thể địa vị pháp lý của BHTGVN theo mô hình tổng
công ty, trực thuộc Chính Phủ có ý nghĩa rất quan trọng để tổ chức này làm tốt chức năng
nhiệm vụ của mình.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Thông thường tổ chức BHTG được thiết kế theo mô hình Tổng công ty. Với các tiêu
chuẩn về mục tiêu thực hiện chính sách công và chức năng nhiệm vụ của tổ chức BHTG thì
tổ chức BHTG tại Việt Nam hiện nay là mô hình tổ chức giảm thiểu rủi ro chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, để BHTGVN thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mô hình BHTG tiên
tiến theo thông lệ quốc tế, pháp luật về BHTG ở Việt Nam cần hoàn thiện về cơ cấu tổ chức
bộ máy, chức năng nhiệm vụ được quy định trong Luật BHTG.
2.2. Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy
Theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của BHTGVN, ban hành kèm theo Quyết định số
75/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cơ cấu tổ chức bộ máy của BHTGVN bao gồm: Hội
đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát (BKS), bộ máy điều hành gồm Tổng giám đốc (TGĐ) và
bộ máy giúp việc.
Cơ quan trung ương của BHTGVN là Hội sở chính, có trụ sở tại Hà Nội, là nơi làm việc
của HĐQT, Ban TGĐ, BKS và 16 phòng ban chức năng. Hoạt động của Hội sở chính là
hoạch định chính sách để triển khai hoạt động và giám sát, kiểm tra việc thực hiện các chính
sách đã được ban hành. Các chi nhánh khu vực là đơn vị trực thuộc, hoạt động theo cơ chế
báo sổ, chịu sự quản lý, chỉ đạo toàn diện về mọi mặt của trụ sở chính.
2.2.2. Quản trị và điều hành trong tổ chức bảo hiểm tiền gửi
2.2.2.1. Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất của BHTGVN, thực hiện chức năng
quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động hàng năm của BHTGVN trước Chính Phủ, theo
quy định của Điều lệ về tổ chức và hoạt động của BHTGVN. HĐQT có 5 thành viên, trong đó
một thành viên chuyên trách là Chủ tịch, một ủy viên kiêm TGĐ, một ủy viên kiêm trưởng BKS,
hai ủy viên kiêm nhiệm là Thứ trưởng Bộ tài chính và Phó Thống đốc NHNN. Các thành viên
này được Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ nội vụ
và Thống đốc NHNN.
Ở nhiều nước có hệ thống BHTG theo mô hình Tổng công ty như: Mỹ, Đài Loan, Hàn
quốc, Philipin đều có HĐQT. HĐQT này có thể do Tổng thống hoặc Thủ Tướng bổ nhiệm,
miễn nhiệm.
Ở Việt Nam, HĐQT làm việc theo chế độ tập thể, họp ít nhất mỗi quý một lần để quyết
định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Giúp việc HĐQT có ban thư ký.
2.2.2.2. Ban kiểm soát
BKS có 3 thành viên chuyên trách và một số thành viên kiêm nhiệm, trong đó một thành
viên làm trưởng ban. Các thành viên còn lại do Chủ tịch HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm trên cơ sở
đề nghị của trưởng BKS. BKS được thành lập để giúp HĐQT thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của BHTGVN trong điều hành hoạt động, chấp hành pháp luật, điều lệ và các chủ
trương, nghị quyết, quyết định của HĐQT. Vì vậy, hoạt động của BKS có ý nghĩa rất quan
trọng của công tác quản trị, điều hành.
2.2.2.3. Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
Tổng giám đốc BHTGVN là đại diện pháp nhân của BHTGVN, chịu trách nhiệm trước
HĐQT, trước Chính Phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của BHTGVN. Trong bộ
máy điều hành còn có các Phó tổng giám đốc giúp việc cho TGĐ, điều hành một số lĩnh vực
của BHTGVN theo sự phân công của TGĐ và chịu trách nhiệm trước TGĐ. Chức năng,
nhiệm vụ của BKS, trách nhiệm quyền hạn của TGĐ BHTGVN cũng tương tự như các nước.
Từ sự phân tích trên ta thấy: Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị điều hành của BHTGVN
cũng giống mô hình của một doanh nghiệp nhà nước. BHTGVN vừa có chức năng của một
doanh nghiệp nhà nước là kinh doanh BHTG, nhưng không vì lợi nhuận, cũng giống như
doanh nghiệp hoạt động công ích, lại vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực BHTG.
Mô hình hoạt động và quản trị điều hành hiện nay của BHTGVN tương đối phù hợp với
nguyên tắc cơ bản về tổ chức BHTG hiệu quả mà Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng và Hiệp
hội BHTG Quốc tế khuyến nghị.
Tuy mô hình tổ chức của BHTGVN được thiết kế và hoạt động theo mô hình Tổng công
ty nhưng pháp luật không quy định rõ. Trên thế giới, hệ thống BHTG của các quốc gia có xu
hướng thiết kế theo mô hình Tổng công ty. Việc chưa xác định rõ mô hình tổ chức dẫn tới
những khó khăn trong hoạt động và trong áp dụng pháp luật. Vì vậy, Pháp luật về tổ chức
BHTG ở Việt Nam cần được quy định đầy đủ theo thông lệ quốc tế để BHTGVN thực hiện
tốt nhiệm vụ của mình.
2.3. Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
2.3.1. Cấp và thu hồi Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi
Tính đến 31/12/2009, BHTGVN đã cấp giấy chứng nhận BHTG cho 1.128 tổ chức bao
gồm: 83 ngân hàng thương mại, 11 tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 1.034 quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở.
2.3.2. Nghiệp vụ giám sát
BHTGVN thực hiện giám sát định kỳ theo quý, 100% số các tổ chức tham gia BHTG;
tập trung vào việc chấp hành các chỉ tiêu an toàn hoạt động của tổ chức tham gia BHTG như
khả năng về vốn, chất lượng tín dụng, khả năng thanh khoản. Các báo cáo phân tích cũng
được BHTGVN gửi tới NHNN, Bộ Tài chính, UBGSTCTTQG, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý vĩ mô của các cơ quan trong mạng an toàn tài chính quốc gia.
Hoạt động giám sát rủi ro là hoạt động bản chất nhất, cốt lõi nhất trong lĩnh vực BHTG.
Tuy nhiên, cơ chế pháp lý hiện nay chưa quy định rõ về sự phối hợp giữa thanh tra NHNN và
BHTGVN trong việc phối hợp chia sẻ thông tin.
2.3.3. Nghiệp vụ kiểm tra
Nghiệp vụ kiểm tra là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đánh giá thực trạng hoạt
động của tổ chức tham gia BHTG. Đến hết tháng 9/2009, BHTGVN đã thực hiện 2.664 cuộc
kiểm tra; trong đó 492 cuộc kiểm tra ngân hàng thương mại, 2.151 cuộc kiểm tra Quỹ tín dụng nhân
dân (QTDND) và 21 cuộc kiểm tra TCTD phi ngân hàng. Qua đó, BHTGVN đã phát hiện 86
trường hợp tính thiếu phí BHTG và thu về cho ngân sách nhà nước trên 31 tỷ đồng. Các kiến
nghị của BHTGVN đã được các tổ chức tham gia BHTG tiếp thu chỉnh sửa nghiêm túc và có
chuyển biến tích cực.
Hoạt động giám sát, kiểm tra của BHTGVN cũng giống hoạt động kiểm tra, giám sát của
BHTG Hàn Quốc, Đài Loan; tuy nhiên, quyền hạn của BHTG Hàn quốc rộng hơn, họ có
quyền xử lý vi phạm, đóng cửa TCTD theo quy định của Luật BHTG Hàn Quốc.
2.3.4. Nghiệp vụ xử lý ngân hàng
2.3.4.1. Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính
- Điều kiện hỗ trợ tài chính cho TCTD
- Hình thức hỗ trợ tài chính cho TCTD
2.3.4.2. Nghiệp vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm
Tính đến thời điểm hiện nay, BHTGVN đã thực hiện chi trả tiền bảo hiểm đầy đủ và kịp
thời cho người gửi tiền tại 37 QTDND cơ sở tại 11 tỉnh, thành phố trên toàn quốc với tổng số
tiền là 18,79 tỷ đồng cho hơn 1.500 người gửi tiền.
2.3.4.3. Nghiệp vụ thu phí bảo hiểm tiền gửi
Phí BHTG ở Việt Nam hiện đang được áp dụng đồng hạng ở mức 0,15%/năm tính trên số
dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm. Tổng số phí BHTG thu được lũy kế
đến cuối năm 2009 đạt trên 3.000 tỷ đồng, số thu phí hàng năm tăng trung bình trên 20%. Từ
năm 2004, 100% nguồn thu phí bảo hiểm được bổ sung Quỹ nghiệp vụ BHTG.
2.3.4.4. Về quản lý vốn quỹ
Tính đến ngày 30/11/2009, Quỹ BHTG đạt gần 5.000 tỷ đồng tăng gấp 5 lần so với vốn điều
lệ thực cấp. Để đảm bảo năng lực tài chính của tổ chức BHTG tại Việt Nam, theo đó, năm 2010
mức vốn điều lệ đạt khoảng 10 nghìn tỷ đồng (năm 2000 vốn điều lệ Chính phủ cấp 1000 tỷ đồng,
năm 2007 đạt gần 3000 tỷ đồng, năm 2008, trong Quyết định 13/2008 QĐ-Ttg vốn điều lệ cấp
thêm 5000 tỷ đồng, năm 2015 dự kiến đạt khoảng 30.000 tỷ đồng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, để đảm bảo an toàn hệ thống nguồn vốn dự trữ của tổ chức
BHTG trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm thì Quỹ dự trữ của BHTGVN là thấp (chỉ đạt tỉ
lệ hơn 0,9% trong khi đó tỷ lệ khuyến cáo là 1,15% đến 1,5%.).
2.3.4.5. Nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý
Đến tháng 12/2009, BHTGVN đã chi trả cho 37 QTDND trên 18 tỷ đồng, đang theo dõi
và thanh lý 35 QTDND, thu hồi được trên 6 tỷ đồng. Trong thực tế, việc xử lý đổ vỡ của
TCTD và thu hồi nợ của BHTGVN gặp nhiều khó khăn do văn bản pháp luật không quy định
rõ.
2.3.5. Các hoạt động khác
2.3.5.1. Nghiên cứu ứng dụng
2.3.5.2. Phát triển nguồn nhân lực
2.3.5.3. Hợp tác quốc tế
2.3.5.4. Quản lý tài chính, kiểm soát và kiểm toán nội
2.3.5.5. Quản trị văn phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
2.3.5.7. Các hoạt động của tổ chức đoàn thể
2.3.6. Một số vấn đề về cơ chế hoạt động bảo hiểm tiền gửi
2.3.6.1. Về đối tượng tham gia
Cần mở rộng đối tượng tham gia BHTG bắt buộc như các công ty bảo hiểm nhân thọ,
công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán, tiết kiệm bưu điện, tài chính quy mô nhỏ…
2.3.6.2.Tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tiền gửi
Trong nền kinh tế thị trường, nên mở rộng đối tượng được bảo hiểm là doanh nghiệp nhà
nước (tiền gửi có kỳ hạn), vì doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế
Việt Nam. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tiền gửi được bảo hiểm là VND và không áp
dụng cho ngoại tệ.
2.3.6.3. Về hạn mức chi trả
Hạn mức chi trả bảo hiểm 50 triệu đồng như hiện nay là thấp. Vì theo thông lệ quốc tế,
hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm nên để ở mức gấp 5 đến 6 lần GDP. Theo dự báo
GDP năm 2010 của Việt Nam sẽ được tính như sau: 1.000 USD/người x 5 = 5.000 USD
(khoảng 100 triệu đồng). Như vậy, theo xu hướng phát triển của kinh tế xã hội tại Việt Nam,
luật có thể quy định hạn mức chi trả khoảng 100 triệu đồng cho một cá nhân tại một tổ chức
tín dụng.
Tóm lại, Qua nghiên cứu thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam, có sự so sánh với
pháp luật nước ngoài về BHTG và khuyến nghị của Hiệp hội BHTG Quốc tế về xây dựng hệ
thống BHTG hiệu quả ta thấy: pháp luật về BHTG ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa quy
định rõ và đầy đủ về vị trí pháp lý, mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của tổ chức BHTG,
dẫn tới năng lực hoạt động của BHTGVN còn hạn chế; đặc biệt là khả năng giám sát an toàn,
cảnh báo sớm, phối hợp và xử lý đổ vỡ ngân hàng. Ngoài ra, các quy định về hạn mức chi trả,
phí BHTG, tiền gửi được bảo hiểm, loại tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm… nay không còn
phù hợp với thực tiễn hoạt động và thông lệ quốc tế. Trong các hạn chế nêu trên, hạn chế về
mô hình tổ chức BHTG có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ BHTG
cần được hoàn thiện, để tổ chức BHTGVN thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong giai đoạn
mới.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
3.1. Nhu cầu và cơ sở hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
- Hiện nay trên thế giới có hai xu hướng phát triển của thị trường tài chính, đó là xu hướng
hợp nhất và đa năng. Hợp nhất sẽ tạo thêm tiềm lực về vốn và tăng khả năng cạnh tranh, đa dạng
sản phẩm dịch vụ đem lại nhiều lợi nhuận. Đây là quá trình tái cấu trúc lại hệ thống tài chính -
ngân hàng để phù hợp với môi trường và hoàn cảnh mới, đem lại hiệu quả kinh tế lớn nhất.
- Chính phủ Việt Nam đang thực hiện đổi mới hệ thống tài chính, ngân hàng thông qua việc
tái cấu trúc hệ thống, cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước theo lộ trình và cam kết
quốc tế. Theo quy luật chung, sự phát triển "nóng" của thị trường tài chính sẽ luôn đi kèm với
những rủi ro tiềm ẩn; bên cạnh những rủi ro truyền thống sẽ xuất hiện nhiều rủi ro mới.
Trong điều kiện như vậy, hành lang pháp lý điều chỉnh mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ
BHTG cần được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.1.2. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Việc hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức BHTGVN cần gắn kết với đề án phát triển
ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Chiến lược phát
triển BHTGVN giai đoạn 2006 đến 2015 cũng như quan điểm của Nhà nước về việc phát
triển hệ thống BHTG hiệu quả tại Việt Nam.
Theo Đề án phát triển ngành ngân hàng, cần cải cách căn bản, triệt để và toàn diện hệ
thống tổ chức tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung
bình, tiến tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có
quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh. Đồng thời, tạo nền tảng đến sau năm 2010
xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp
ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng.
Trong các nhóm giải pháp lớn để thực hiện đề án, nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng là nhóm giải pháp quan trọng. Chiến
lược phát triển BHTGVN giai đoạn 2006 đến 2015, dựa trên 5 trụ cột, trong đó xây dựng củng cố
cơ sở hạ tầng pháp lý là trụ cột quan trọng nhất, cụ thể là xây dựng luật BHTG.
Trên cơ sở phân tích nguyên lý hoạt động BHTG, thực trạng pháp luật về tổ chức BHTG
ở Việt Nam, giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức về BHTG tập trung giải quyết các vấn đề
sau.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi
3.2.1. Về vị trí pháp lý
Để hệ thống BHTG ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả, thì phải xây dựng tổ chức
BHTGVN có vị trí pháp lý độc lập, nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, được miễn các loại thuế, đảm bảo an toàn và phát triển vốn, tự bù đắp các chi phí.
Hiện nay, trên thế giới có trên 100 quốc gia có hệ thống BHTG. Trong số này, thì hầu hết các
tổ chức BHTG đều là một tổ chức độc lập và không thuộc ngân hàng Trung ương. Ví dụ, tổ chức
BHTG Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) là tổ chức hoạt động độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm
soát của Quốc hội, Tổng công ty BHTG Hàn Quốc (KDIC) là tổ chức độc lập thuộc Chính
phủ… BHTGVN muốn đạt hiệu quả của hoạt động BHTG trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập thì không thể đi trái thông lệ.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mỗi quốc gia chỉ có một tổ chức BHTG thực hiện nhiệm vụ
đặc biệt này. Đồng thời, theo "Nguyên tắc cốt lõi phát triển hệ thống BHTG hiệu quả" của Ủy ban
Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp Hội BHTG quốc tế (IADI) thì: "Tổ chức BHTG cần
hoạt động độc lập, minh bạch và có trách nhiệm giải trình và độc lập với những ảnh hưởng không
mong muốn về chính trị và các ngành khác". Độc lập có nghĩa là tổ chức BHTG có thể sử dụng
quyền hạn trong phạm vị trách nhiệm của mình mà không bị ảnh hưởng bởi tác động không đúng
pháp luật từ bên ngoài.
Như vậy, tổ chức BHTGVN phải là một tổ chức tài chính nhà nước, độc lập, thuộc Chính
phủ quản lý để thực hiện tốt sứ mệnh mà Chính phủ giao.
3.2.2. Về mô hình tổ chức
Xu hướng chung, các nước đều thiết kế mô hình tổ chức BHTG là tổ chức giảm thiểu rủi
ro theo cơ cấu là mô hình Tổng công ty như Mỹ, Ca-na-đa, Nhật bản, Hàn Quốc
Tổ chức BHTGVN đang thực hiện chức năng nhiệm vụ tiến gần đến mô hình giảm thiểu
rủi ro. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện mô hình BHTG tại Việt Nam theo hướng mô hình tổ
chức giảm thiểu rủi ro. Đồng thời, xây dựng mô hình tổ chức BHTGVN theo mô hình Tổng
công ty, do Thủ tướng Chính phủ thành lập, phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động. Theo
đó, Tổng công ty BHTGVN hoạt động theo hướng chủ động, giảm dần sự phụ thuộc vào
ngân sách nhà nước. Điều đó là phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh Việt Nam.
Để tạo sự chủ động cho tổ chức BHTG trong quá trình hoạt động, phù hợp với thông lệ quốc
tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam thì pháp luật nên quy định BHTGVN là cơ quan thuộc
Chính phủ, do Chính phủ quản lý và chỉ đạo trực tiếp, báo cáo hoạt động và các vấn đề liên quan
trước Chính phủ. Các cơ quan nhà nước khác như NHNN, BTC hoặc BNV sẽ quản lý nhà nước
về những lĩnh vực chuyên môn mà cơ quan đó phụ trách.
Để phù hợp với mô hình tổ chức của Tổng công ty BHTGVN, cần hoàn thiện về cơ chế,
chức năng nhiệm vụ BHTG, để BHTGVN thực hiện tốt nhiệm vụ của mô hình tổ chức giảm
thiểu rủi ro trong giai đoạn tới.
3.2.3. Về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Để BHTGVN thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì các quy định về chức năng nhiệm vụ của
BHTGVN cần được nghiên cứu, xây dựng theo thông lệ chung gồm các vấn đề như: Công tác
kiểm tra, giám sát; sự phối hợp giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài chính; về xử lý đổ vỡ
ngân hàng; về đối tượng tham gia BHTG; về đối tượng được bảo hiểm; về hạn mức chi trả;
về phí BHTG và công tác chi trả BHTG nên theo thông lệ chung.
3.3. Sự cần thiết xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi
- Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời, ẩn chứa nhiều rủi ro cần phải được đảm bảo an toàn, ổn
định của hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo vệ tốt hơn người gửi tiền.
- Thiếu cơ sở pháp lý vững chắc. BHTGVN ra đời và hoạt đã 10 năm nhưng chưa có luật
về BHTG, văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định của Chính phủ đã trở nên không phù hợp,
chưa tương xứng với chức năng nhiệm vụ của BHTGVN.
- Chưa theo thông lệ quốc tế về BHTG. Ở các nước, trước khi tổ chức BHTG ra đời thì
đã có luật về BHTG được ban hành. Chức năng nhiệm vụ BHTG ở Việt Nam cũng như về cơ
chế tham gia BHTG, phí BHTG, các hoạt động nghiệp vụ BHTG khác chưa theo đúng thông
lệ quốc tế tốt nhất. Sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài
chính chưa có quy định cụ thể.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu quy định của pháp luật về mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay là cần thiết vì thị trường tài chính của nước ta đang trong giai đoạn đầu
của sự phát triển theo quy luật thị trường với nhiều biến động và thách thức. Đồng thời,
Chính phủ đang có chủ trương hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính, ngân hàng, BHTG
phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế, đặc biệt là sau khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO và BHTGVN đã trở thành thành viên của Hiệp hội BHTG Quốc tế.
Việc nghiên cứu mô hình tổ chức của BHTGVN gắn với việc nghiên cứu chung về vị trí, vai
trò, chức năng nhiệm vụ, cơ chế BHTG và pháp luật về BHTG trong đó bao gồm khái quát về
quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi trên thế giới và quy định pháp luật về
BHTG tại Việt Nam
Trên cơ sở đánh giá thực trạng mô hình tổ chức BHTG tại Việt Nam thông qua hai tiêu
chí cơ bản là quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh mô hình tổ chức BHTG trong mối quan
hệ thực hiện nhiệm vụ BHTG tại Việt Nam và hiệu quả của quy định pháp lý hiện hành.
Đánh giá về hiệu quả của quy định pháp lý hiện hành được thể hiện dưới 4 góc độ đó là:
những quy định chung về BHTG, mô hình tổ chức BHTG, hoạt động BHTG và sự phối hợp
của các cơ quan liên quan tại Việt Nam. Trong đó đi sâu đánh giá về vị trí pháp lý, mô hình
tổ chức, cơ quan quản lý và một số hoạt động chủ yếu của tổ chức BHTGVN; cơ cấu tổ chức,
quản trị điều hành của tổ chức BHTG trong thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao để thấy
những bất cập cần phải hoàn thiện.
Với sự đánh giá khách quan về hiệu quả quy định pháp luật hiện hành và kinh nghiệm
quốc tế, đề tài cũng tập trung đưa ra cơ sở và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức
BHTG tại Việt Nam trên cơ sở thực hiện chính sách BHTG tại Việt Nam. Đồng thời, cũng
thấy sự cần thiết phải xây dựng luật BHTG theo những kết quả nghiên cứu mà đề tài đã giải
quyết.
References
1. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2001), Báo cáo tổng kết công tác 5 năm (2001 - 2005), Báo
cáo công tác các năm 2007, 2008, 2009 và Báo cáo tổng kết 10 năm (2001 - 2010), Hà
Nội.
2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2008), Báo cáo một số nội dung chủ yếu liên quan đến
hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần quan tâm trong quá trình xây dựng Luật bảo
hiểm tiền gửi, Hà Nội.
3. Chính phủ (2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020, Hà Nội.
4. Chính phủ (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9 về bảo hiểm tiền gửi, Hà
Nội.
5. Chính phủ (1999), Quyết định số 218/QĐ-Ttg ngày 09/11 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành kèm theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Hà
Nội.
7. Chính phủ (2005), Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi, Hà Nội.
8. Đặng Duy Cường (2007), "Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro", Thông
tin Bảo hiểm tiền gửi, (5).
9. Đặng Dung (2010), "Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi", vietnamnet.vn, ngày 03/3.
10. Nguyễn Mạnh Dũng (2008), "Trao đổi xung quanh vấn đề tiếp nhận, xử lý tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi", Thông tin Bảo hiểm tiền gửi, (6).
11. Nguyễn Mạnh Dũng - Đặng Duy Cường (2009), "Kinh nghiệm của bảo hiểm tiền gửi
Nhật Bản và Hoa Kỳ đối phó khủng hoảng kinh tế và xử lý ngân hàng đổ vỡ", Ngân
hàng, (8).
12. Trần Đình Hảo (2008), "Về địa vị pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam",
Thông tin Bảo hiểm tiền gửi, (6).
13. Mai Hương (2010), "Bảo vệ người gửi tiền - bảo vệ nền tảng tài chính ngân hàng",
vietnamnet.vn, ngày 14/6.
14. Luật Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan năm 1985, sửa đổi bổ sung các năm 1999, 2001, 2003.
15. Luật Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc năm 1995, sửa đổi bổ sung các năm 1997, 1998,
2003.
16. Luật Bảo hiểm tiền gửi In đô nê xi a năm 2005.
17. Luật Bảo hiểm tiền gửi Mỹ năm 1933.
18. Luật Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản năm 1971.
19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Thông tư 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4 về việc
hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, Hà
Nội.
20. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Bảo hiểm tiền gửi - Nguyên lý, thực tiễn và định hướng,
Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
21. Quốc hội (1997), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
22. Quốc hội (1997), Luật Các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
23. Quốc hội (2003), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
24. Quốc hội (2004), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
25. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
27. Quốc hội (2010), Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
28. Quốc hội (2010), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
29. Lê Thị Thúy Sen (2008), Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền gửi, Viện Nhà nước và Pháp
luật, Hà Nội.
30. Lê Thị Thúy Sen - Đặng Duy Cường (2008), "Khủng hoảng ngân hàng Northern Rock -
Bài học không chỉ của " xứ sở sương mù"", Tài chính, thị trường tiền tệ, (9).
31. Bùi Khắc Sơn (2007), "Xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi - Yêu cầu tất yếu và cấp thiết
khi Việt Nam gia nhập WTO", Thông tin Bảo hiểm tiền gửi, (5).
32. Lê Thị Thu Thủy (2008), Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Đào trí Úc (2007), "Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo pháp luật về bảo hiểm tiền
gửi tại Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện", Thông tin Bảo hiểm tiền
gửi, (3).
34. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế
(IADI) (2008), Các nguyên tắc cốt lõi phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả.
TIẾNG ANH
35. CDIC - 20 years in retrospect 1985-2005.
36. Deposit Insurance and Consumer Protection-Governor, Bank Negara Malaysia.
37. Deposit Insurance and Consumer Protection - Jean Pierre Sabourin, Chief executive
Officer of Malaysia Deposit Insurance Corporation.
38. Financial Institutions and Structure for Growth in East Asia- Jenny Corbett.
39. The law of Republic of Indonesia.
40. Proposed Research plan for Developing General guidance for effective Deposit
Insurance Mandate, IADI.
TRANG WEB
41. www.fdic.gov.
42. www.pdic.gov.
43. www.pidm.gov.
44. www.sbv.gov.vn.