Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Pháp luật việt nam về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.91 KB, 17 trang )





Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: ; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn:
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài. Phân tích thực
trạng quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài, thực tiến áp dụng pháp luật
về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam cũng như đưa ra đánh giá và bài học kinh nghiệm
từ thực tiễn áp dụng các quy định của thỏa thuận trọng tài. Tìm hiểu những điểm mới
của Luật trọng tài Thương mại, pháp luật thỏa thuận trọng tài và một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thỏa thuận
trọng tài ở Việt Nam.

Keywords: Trọng tài; Pháp luật Việt Nam; Trọng tài thương mại; Luật kinh tế

Content
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Quan hệ kinh tế quốc tế cùng với mối quan hệ về chính trị, ngoại giao, văn hóa là những
nhân tố quan trọng cấu thành nên bức tranh tổng thể về quan hệ quốc tế ở mỗi thời kỳ lịch sử
nhất định. Nó ra đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động quốc tế, bao gồm một hệ
thống đa dạng và phong phú các hoạt động như: thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển
giao công nghệ Cùng với xu thế toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế nói chung, hoạt động
kinh tế quốc tế đang đạt được bước phát triển mạnh chưa từng thấy mang tính thời đại sâu sắc
và sẽ còn tiếp tục được bổ sung, phát triển hơn nữa bởi những nhân tố mới trong tương lai.
Trong bối cảnh đó, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh tế quốc tế nói chung và các
hoạt động thương mại nói riêng có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có


những phương thức giải quyết nhanh chóng, hiệu quả nhằm bảo đảm cho các hoạt động đó
được diễn ra một cách liên tục và thuận tiện.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra hết sức mạnh mẽ, quá trình liên doanh, liên kết, tự
do hợp đồng ngày càng phát sinh nhiều các mâu thuẫn, bất đồng, sự ra đời của trọng tài trong
điều kiện đó như là một hệ quả tất yếu, góp phần quan trọng trong việc đa dạng hóa các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường,
mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có
nhiều cơ hội giao dịch thương mại với các đối tác nước ngoài nên đã làm quen và sử dụng
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhiều hơn trước. Nhưng các doanh nghiệp vẫn
còn e ngại khi chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp thuộc lĩnh vực thương mại,

2
một mặt do hiểu biết hạn chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại của Việt
Nam còn nhiều bất cập. Mặc dù vậy, với tốc độ phát triển như hiện nay của kinh tế thị trường,
giới luật gia quốc tế và trong nước đều cho rằng giải quyết tranh chấp thương mại qua Trọng tài
thương mại là một phương thức có nhiều ưu điểm, ngày càng ưa chuộng và phát triển. Cùng với
nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu, các tranh chấp thương
mại đang phát sinh ngày càng nhiều với tính chất phức tạp ngày càng cao. Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp đang được sử dụng để tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh
nghiệp, đồng thời làm giảm sự quá tải về số lượng vụ việc cho hệ thống tòa án. Tổng thư ký
Tòa án Trọng tài Quốc tế (ICC) Jason Fry đã khẳng định trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp, lựa chọn có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính nhanh gọn, bí mật và phán quyết
của trọng tài có giá trị trung thẩm Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng: Đây là con đường mà các
doanh nghiệp nước ngoài tin tưởng và các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tin tưởng và lựa
chọn. Chính vì vậy mà hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài thương mại đang được coi là
một trong những mục tiêu hàng đầu trong nỗ lực tạo điều kiện để phát triển trọng tài thương mại
nói riêng và hỗ trợ có hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại nói chung ở nước ta.
Thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng
trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác, không
có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận

trọng tài là yếu tố cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài kể từ
lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Hiệu quả của
hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một phần không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Sự cần
thiết hoàn thiện các chế định pháp lý về thỏa thuận trọng tài do đó cũng là một yêu cầu tất yếu
và là hạt nhân quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý về Trọng tài thương mại.
Thực tiễn pháp luật và áp dụng pháp luật về Trọng tài thương mại ở Việt Nam cho thấy,
nhiều doanh nghiệp còn chưa đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài nên trong quá
trình soạn thảo, ký kết thỏa thuận trọng tài còn nhiều thiếu sót dẫn đến những tranh chấp
không đáng có về thỏa thuận trọng tài. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng
tài còn có nhiều hạn chế, bất cập nên đã gây nhiều cản trở cho hoạt động đưa tranh chấp ra
giải quyết tại trọng tài thương mại và làm giảm tính hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại.
Đây cũng chính là lý tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này nhưng cũng chỉ nói chung
mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về trọng tài thương mại, bản chất thỏa thuận trọng tài
cũng như thực trạng về thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu thế hội nhập hiện
nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật về trọng tài của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về pháp luật Việt Nam về thỏa
thuận trọng tài thương mại. Trước tiên, nghiên cứu về khái quát trọng tài thương mại và thỏa
thuận trọng tài thương mại, thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại. Sau đó tập
trung nghiên cứu đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thỏa thuận trọng
tài thương mại.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

3

Để đạt được những yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp Luật học
so sánh và phương pháp thu thập thông tin để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía
cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại ở Việt Nam;
Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thương mại thông qua một số ví dụ cụ thể;
Thứ ba: Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thỏa thuận trọng tài
thương mại ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Khái quát về trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài.
Chương 3: Những điểm mới của Luật trọng tài Thương mại, pháp luật thỏa thuận trọng
tài. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật
về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam.

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát chung về trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường": "Trọng tài làm một phương thức giải quyết
một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc,
những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời

phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên"
Khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003: "Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp lệnh này quy định".
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài nhưng có thể nhìn
nhận trọng tài thương mại với hai tư cách:
- Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp.
- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm trọng tài thƣơng mại
* Trọng tài với tƣ cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp
- Với hình thức là một Trung tâm Trọng tài thì trọng tài là một tổ chức xã hội - nghề
nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh thương mại

4
- Thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương mại cụ thể không tự
nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể
tranh chấp
- Phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử, vừa thể
hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên.
* Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
- Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một Hội
đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất.
- Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Đối
với trọng tài thường trực trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên và các bên tranh
chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của
tổ chức trọng tài đó quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận thủ tục
tố tụng riêng, ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng phải tuân thủ đúng thủ tục tố tụng
trọng tài mà mình đặt ra.
- Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với

các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, vừa kết hợp
yếu tố thỏa thuận (các bên đương sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp,
luật áp dụng đối với vụ tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc đối với các
bên).
1.1.3. Các hình thức tổ chức trọng tài
Với tư cách là tổ chức giải quyết tranh chấp trọng tài thường được biết đến với hai hình
thức phổ biến là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy
chế).
* Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết.
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động
(tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có
danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là
người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tụng để giải
quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Ưu điểm của hình thức Trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế là là quyền tự định đoạt
của các bên lớn hơn, chi phí cho tố tụng trọng tài thấp và thời gian giải quyết nhanh. Tuy
nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn chế nhất định, hạn chế lớn nhất là phải phụ thuộc
hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí quá trình tố tụng sẽ luôn
có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì
không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.
* Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Luôn tồn tài không phụ thuộc vào tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ
chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên.
- Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan
nhà nước.
- Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung

tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.

5
- Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung
tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung
tâm.
1.2. Khái quát chung về thoả thuận trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài thương mại là một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên kí kết
nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại
có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài. Thỏa thuận trọng
tài có đặc điểm sau:
* Đặc điểm về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên
quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng
chính. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu cầu của
pháp luật về nội dung.
* Đặc điểm về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Được thể hiện dưới hình thức văn bản:
Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương mại việc
sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương lai. Sự thỏa thuận này
thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập quan hệ thương
mại giữa hai bên.
Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng
trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản thỏa thuận riêng và được coi như
gắn liền với hợp đồng chính hay còn gọi là thỏa thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra giải quyết
theo phương thức trọng tài.
* Đặc điểm về mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng chính

Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng
chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất
chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Như
vậy, ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá
trị.
* Đặc điểm về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
- Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài: Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự
thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại.
- Điều kiện về thẩm quyền của trọng tài: Không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết
được bằng trọng tài, ngay cả khi giữa các bên tranh chấp thỏa mãn điều kiện về sự tự nguyện thỏa
thuận. Đó là khi pháp luật nơi diễn ra trọng tài không cho phép giải quyết loại tranh chấp đó thông
qua hình thức trọng tài.
- Điều kiện về năng lực chủ thể: Có thể nói năng lực chủ thể là vấn đề đầu tiên mà các bên
cần quan tâm khi tiến hành đàm phán thỏa thuận trọng tài vì nếu một bên không có năng lực chủ
thể sẽ khiến điều khoản này vô hiệu.
- Điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể: Thỏa thuận trọng tài sẽ không có giá trị pháp lý
nếu nó không phải là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể hay là sự áp đặt ý chí
của bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
1.2.2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại

6
- Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp.
- Thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác lập trên cơ sở ý chí
tự nguyện và bình đẳng của chính các bên.
- Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu từ khi đưa
tranh chấp thương mại ra trọng tài cho tới khi phán quyết cuối cùng được đưa ra.
Từ phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề
then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng. Nhưng trên thực tế hiện nay thỏa
thuận trọng tài vẫn chưa phát huy được hết vai trò to lớn của mình, vẫn còn nhiều những
vướng mắc liên quan tới thỏa thuận trọng tài làm cản trở quá trình tố tụng trọng tài. Vậy, phải

làm thế nào để thỏa thuận trọng tài thực sự phát huy được hết vai trò của mình, thực sự trở
thành bước khởi đầu hoàn hảo cho tố tụng trọng tài. Câu hỏi trên chỉ có thể được trả lời khi ta
nghiên cứu thỏa thuận trọng tài từ hai góc độ là pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật đó tại Việt Nam.

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
TRÊN THỰC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
2.1.1. Hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
1. Quyết định 264/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam.
2. Nghị định 16/NĐ-CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế.
2. Quyết định 114/TTg ngày 16/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm
quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
3. Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các Quyết định của Trọng tài
nước ngoài mà Việt Nam là thành viên, nội dung cơ bản của công ước đã được luật hóa tại Bộ
luật Tố tụng dân sự 2004.
4. Bộ luật Dân sự năm 2005 được quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực
ngày 01/06/02005
5. Bộ luật tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 có hiệu lực
từ ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan
đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sáu: Chương XXI thủ tục xét đơn yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài).
6. Luật thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI ngày 14/05/2005 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2006, quy định việc giải quyết tranh chấp với hình thức trọng tài tại Điều 317.
7. Pháp lệnh Thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 14/01/2004 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004, trong đó, có quy định

về tổ chức thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam và quyết định của Trọng tài Thương mại Việt Nam.
8. Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 được Thường vụ Quốc
hội thông khóa XI thông qua ngày 25/02/2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2003.

7
9. Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ngày 31/07/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp lệnh Trọng tài Thương mại
2003.
10. Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
11. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Trọng tài Thương
mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010
2.1.2. Những quy định cụ thể liên quan đến thỏa thuận trọng tài thương mại
a. Quy định về khái niệm thỏa thuận trọng tài
Điều 2, Khoản 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định: "Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh
hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại".
Những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại được giải quyết bằng trọng tài có thể
là quan hệ phát sinh từ hợp đồng nhưng cũng có thể là quan hệ ngoài hợp đồng, ví dụ tranh
chấp phát sinh do việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như tàu đâm va cầu cảng, tàu
đâm va nhau v.v… Hiểu theo định nghĩa trên thì các tranh chấp không có quan hệ hợp đồng
cũng có thể được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải
quyết tại Trọng tài.
Với định nghĩa không rõ ràng như trên thì tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài
thường chỉ được hiểu theo nghĩa là quan hệ phát sinh từ hợp đồng. Điều này khiến cho thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trên thực tế bị thu hẹp, ngoài ra còn gây khó khăn
cho việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài.
Quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài
Theo Điều 9, Khoản 1 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 thì "Thoả thuận trọng tài phải

được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc
hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài
được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản". Nhưng nội hàm khái niệm "văn bản" cũng được
Pháp luật Việt Nam mở rộng gồm cả các dạng như thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc
hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài thì
đều được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản.
Hình thức thỏa thuận trọng tài là bằng văn bản nhưng nội hàm khái niệm văn bản của Việt
Nam hẹp hơn so với quy định trong Luật mẫu.
Như vậy, quy định của Pháp lệnh về hình thức của thoả thuận trọng tài chưa tương thích
với Luật Mẫu và luật trọng tài các nước.
Quy định về quan hệ giữa hiệu lực của điều khoản trọng tài với hiệu lực của hợp đồng
liên quan
Sự độc lập trong quan hệ giữa điều khoản trọng tài và hợp đồng được quy định tại Điều
11 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003: " Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng.
Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu
lực của điều khoản trọng tài".
Đây là một quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, dù thỏa thuận trọng
tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình
thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất chính là một hợp
đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Điều đó có nghĩa, ngay
cả khi hợp đồng chính có sự thay đổi nhưng việc giải quyết tranh chấp đã được các bên thỏa
thuận bằng phương thức trọng tài thì sự thay đổi đó cũng không ảnh hưởng đến thỏa thuận

8
trọng tài, Trọng tài hoàn toàn có thể giải quyết tranh chấp của các bên khi hợp đồng vô hiệu
hoặc các điều khoản khác vô hiệu.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật lại phát sinh một số vấn đề liên quan tới tính
độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài so với hiệu lực của hợp đồng, như sau:
- Trường hợp thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận cách thức giải quyết tranh chấp đối với một
hợp đồng cụ thể, hợp đồng đó về bản chất là vô hiệu, nhưng thỏa thuận trọng tài lại không vô

hiệu, vấn đề đặt ra là các bên tranh chấp có hay không quyền được yêu cầu trọng tài giải quyết các
vấn đề liên quan đến hợp đồng vô hiệu. Nếu trọng tài không có thẩm quyền xem xét vấn đề này
khi các bên yêu cầu thì việc khẳng định sự tồn tại độc lập của thỏa thuận trọng tài với hiệu lực của
hợp đồng đi kèm với nó không có nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu các bên không được quyền yêu
cầu trọng tài giải quyết mà vẫn giữ nguyên tính hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận
trọng tài có thể sẽ là nguyên nhân cản trở các bên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc. Như vậy,
pháp luật trọng tài cần có một giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề đặt ra trong trường hợp trên.
- Trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản nằm trong hợp đồng chính, pháp luật
quy định thỏa thuận trọng tài có tính chất độc lập với hợp đồng thì một vấn đề đặt ra là thẩm
quyền của người ký kết hợp đồng và thẩm quyền của người ký kết thỏa thuận trọng tài là có
hay không đồng nhất
- Trường hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng, khi có tranh chấp, các
bên đưa ra giải quyết tại trọng tài và trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp theo
thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài phát hiện ra
hợp đồng mà các bên giao kết và cả điều khoản trọng tài chứa đựng trong đó đều vô hiệu thì một
vấn đề đặt ra là: khi đó trọng tài sẽ không có quyền tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng trọng tài có
được quyền tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu để làm căn cứ từ chối thụ lý vụ tranh chấp hay
không? Đây là trường hợp phát sinh trong thực tiễn mà hiện nay chưa có một quy định pháp luật
nào điều chỉnh một cách cụ thể.
Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Điều 10 PLTTTM 2003 có quy định cụ thể các trường hợp vô hiệu của thỏa thuận trọng
tài như sau:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm các quy định về hình thức
- Người ký kết thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp
luật.
- Một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ
chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận
bổ sung.

- Bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
trọng tài vô hiệu.
Quy định về nguyên tắc "thẩm quyền của thẩm quyền"
Nguyên tắc "thẩm quyền của thẩm quyền" là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng
trong tài. Tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 11
và Điều 30 như sau:
- Điều 11 quy định: "Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia
hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều
khoản trọng tài". Như vậy, PLTTTM 2003 đã đưa ra một nguyên tắc rất quan trọng, đảm bảo
mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu.

9
- Điều 30 quy định: "Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại của
một bên về việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh
chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài
phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu
khác ". Mục đích của nguyên tắc này chính là đảm bảo các tranh chấp đều được xem xét và
giải quyết. Nếu công nhận hợp đồng vô hiệu mặc nhiên kéo theo điều khoản trọng tài vô hiệu
và dẫn đến Hội đồng Trọng tài không thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì vụ tranh chấp
sẽ không được giải quyết.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 vẫn chưa thể hiện được một cách tuyệt đối nguyên
tắc "thẩm quyền của thẩm quyền" theo đó "Hội đồng trọng tài có thể quyết định trong phạm vi
thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp
lý của thỏa thuận trọng tài. Vì mục đích này, một điều khoản trọng tài là một phần của hợp
đồng sẽ được coi là một thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định
của hội đồng trọng tài về việc hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô
hiệu theo
Quy định về thỏa thuận trọng tài không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được
Pháp lệnh đã bỏ sót một quy định rất cơ bản là vấn đề "thỏa thuận trọng tài không thực
hiện được hoặc không thể thực hiện được".

Ví dụ: "Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết trước tiên tại Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Namsau đó sẽ được giải quyết chung thẩm tại Tòa án"; hoặc "Mọi
tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế".
Các điều khoản trọng tài nêu trên không thuộc trường hợp vô hiệu vì đã chỉ rõ tổ chức
trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, những điều khoản trọng tài này
không thể thực hiện được trong thực tiễn bởi thỏa thuận có sự mâu thuẫn.
Như vậy, Pháp lệnh mới chỉ giải quyết vấn đề Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, chưa giải
quyết vấn đề Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Quy định về luật điều chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài
Pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định về vấn đề luật áp dụng đối với thỏa thuận
trọng tài. Điều đầu tiên phải khẳng định là thỏa thuận trọng tài phải tuân thủ luật của nước áp
dụng đối với thỏa thuận trọng tài (dù là một điều khoản trọng tài hay một thỏa ước trọng tài).
Trong trường hợp này Hội đồng trọng tài đều tôn trọng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài do các
bên thống nhất lựa chọn để từ đó xác định tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam thông qua một
số vụ việc điển hình
Vụ việc thứ nhất: Một công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản
có trụ sở tại Bà Rịa - Vũng Tàu ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Hai bên đã thỏa thuận và
đưa ra điều khoản trọng tài: "nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết".
Khi tranh chấp xảy ra, một bên đã gửi đơn khiếu kiện lên Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC) yêu cầu giải quyết tranh chấp. Nhưng VIAC đã phải từ chối giải quyết
tranh chấp vì trong điều khoản trọng tài việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, tên của
tổ chức trọng tài đã không được thể hiện cụ thể mà chỉ ghi nhận một cách chung chung.
Vụ việc thứ hai: Tranh chấp trong hợp đồng mua bán màn hình LED
Vụ việc thứ ba: Vụ việc điển hình thứ ba liên quan tới thỏa thuận trọng tài đó là vụ việc
giữa Công ty Dâu tơ tằm Việt Nam (Viseri) và Công ty Kyunggi Silk (Hàn Quốc). Hai công

10

ty ký đã hợp đồng trao đổi hàng hóa, nhưng khi ký hợp đồng,Viseri do không hiểu luật và
đánh giá đúng tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài nên đã không chú trọng đến việc: chọn
luật, chọn trọng tài, chọn nơi giải quyết tranh chấp (nếu xảy ra).
Vụ việc thứ tư: Ký hợp đồng mua vải giữa nguyên đơn (Người mua Việt Nam) với Bị
đơn (Người bán Trung Quốc) để mua hai loại vải
2.2.2. Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn áp dụng các quy định của
thỏa thuận trọng tài
- Các bên chưa có một thói quen đặt ra câu hỏi là cần lựa chọn trọng tài hay tòa án khi ký
kết hợp đồng và tại sao lại như vậy? Do đó, khi có tranh tranh chấp phát sinh trong các vụ
kiện có yếu tố nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam luôn ở tình thế bị động, không thể lựa
chọn được cho mình một phương án giải quyết tranh chấp tối ưu nhất.
- Các bên trong quan hệ hợp đồng đã có ý thức lựa chọn trọng tài làm phương án giải
quyết tranh chấp, nhưng họ không hiểu rõ, hiểu chính xác về bản chất của trọng tài, về tổ chức
trọng tài mà mình lựa chọn. Các bên còn khá chủ quan trong việc thỏa thuận lựa chọn trọng
tài, chọn quy tắc, chọn địa điểm trọng tài và luật áp dụng vì quan niệm rằng tranh chấp sẽ
không xảy ra, mà nếu xảy ra thì vẫn có thể thương lượng tiếp. Minh chứng cụ thể cho trường
hợp này là bài học đắt giá của công ty Dâu tơ tằm Việt Nam.
- Các bên trong quan hệ hợp đồng đã lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh
chấp, nhưng trong điều khoản trọng tài họ chỉ quy định một cách chung chung hoặc không
chính xác về tên của tổ chức trọng tài, hoặc có sự mâu thuẫn giữa tổ chức trọng tài với quy tắc
tố tụng hoặc đồng thời lựa chọn cả tòa án và trọng tài v.v Minh chứng cụ thể cho trường
hợp này là vụ việc của công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản có
trụ sở tại Bà Rịa - Vũng Tàu.
Thực tế, những thỏa thuận trọng tài mang những khiếm khuyết, không cho phép triển hai
tố tụng như trên được biết đến dưới tên gọi " thỏa thuận trọng tài khuyết tật". Qua quá trình
nghiên cứu thực tiễn ta có thể phân nhóm các "thỏa thuận trọng tài khuyết tật" như sau:
- Thỏa thuận trọng tài "trắng": à thỏa thuận trọng tài chỉ nhằm bày tỏ ý chí của các bên
trong việc đưa tranh chấp ra trọng tài, mà không chỉ rõ việc chỉ định trọng tài viên hoặc không
dẫn chiếu tới một quy tắc trọng tài hoặc một tổ chức trọng tài nào. Thỏa thuận trọng tài được
nêu trong vụ việc thứ nhất (trong phần 2.2.1) được coi là một thỏa thuận trọng tài trắng.

- Thỏa thuận trọng tài lựa chọn một tổ chức trọng tài không tồn tại hay chỉ định không
chính xác tổ chức trọng tài: Thực tế các bên có thể do sơ ý hoặc thiếu thông tin đã chỉ định
sai tổ chức trọng tài, cụ thể là điều khoản trọng tài đưa đến một tổ chức trọng tài không hề tồn
tại trên thực tế.
- Thỏa thuận trọng tài lựa chọn đồng thời tòa án và trọng tài: Bản chất của thỏa thuận trọng
tài là sự loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, có không ít trường hợp các bên thỏa
thuận đồng thời chọn cả Tòa án và Trọng tài giải quyết tranh chấp, ví dụ: " tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và Tòa án có thẩm
quyền".
- Thỏa thuận trọng tài xác định một tổ chức trọng tài nhưng lại lựa chọn quy tắc tố tụng
của một Trung tâm Trọng tài khác: Là trường hợp các bên lựa chọn tổ chức trọng tài thường
trực nhưng không chọn quy tắc tố tụng của tổ chức này mà lại lựa chọn quy tắc tố tụng của tổ
chức trọng tài khác: "Tranh chấp phát sinh giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam theo quy tắc tố tụng của Ủy ban Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL)"
- Hai bên chọn tổ chức trọng tài để xét xử nhưng lại thỏa thuận phán quyết trọng tài
không được coi là chung thẩm: Điều này trái với quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003 cũng như luật trọng tài quốc tế: "Mọi tranh chấp, bất đồng có thể phát sinh từ trọng tài liên
quan tới hợp đồng của các bên theo đây, sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài Việt Nam

11
theo Quy tắc trọng tài của VCCI, Việt Nam. Phán quyết của trọng tài sẽ là chung thẩm và
ràng buộc các bên liên quan, và việc xét phán quyết đó có thể bị đưa ra bất cứ tòa án nào
hoặc ủy ban có thẩm quyền xét xử việc đó".
- Người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền: Là trường hợp thường liên qua tới
việc người ký kết thỏa thuận trọng tài được ủy quyền. Trường hợp người ký kết không đươc
ủy quyền trực tiếp trong hợp đồng này nhưng được ủy quyền ký kết hợp đồng liên quan tới
hợp đồng này; hoặc người ký kết chỉ được ủy quyền ký kết hợp đồng thương mại nhưng khi xảy
ra tranh chấp họ lại tiếp tục ký kết thỏa thuận trọng tài mặc dù không được ủy quyền. Những thỏa
thuận này có thể bị vô hiệu theo Khoản 2, Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 hoặc vẫn
có thể có hiệu lực nhưng cần có sự can thiệp của Tòa án để xem xét tính hiệu lực. Ví dụ điển

hình là vụ việc gữa công ty TNHH quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và công ty
Kumgang

Chương 3
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI,
PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG
TÀI Ở VIỆT NAM
3.1. Luật Trọng tài Thƣơng mại và những điểm mới so với Pháp lệnh Trọng tài
thƣơng mại 2003
3.1.1. Sự cần thiết ra đời Luật Trọng tài thương mại
Mục đích quan trọng của việc xây dựng Luật Trọng tài thương mại là thể chế hoá kịp thời
và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Chủ trương khuyến khích sử dụng Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các
bên trước hết xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân và pháp nhân dân
sự muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả.
Quan điểm chủ đạo của việc xây dựng Luật Trọng tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại, kế thừa và phát triển các quy định
phù hợp đã đi vào cuộc sống.
3.1.2. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại so với Pháp lệnh Trọng
tài thương mại năm 2003
Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực từ ngày
01/01/2011, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003. So với Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại, Luật Trọng tài Thương mại có nhiều quy định mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực
tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại hiện nay, cụ thể:
- Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương
mại: khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các

tranh chấp thương mại thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của
- Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các tình
huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật Trọng tài thương mại giới hạn 6
tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu.
- Luật Trọng tài thương mại có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong
việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.

12
- Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật Trọng tài thương mại có
các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên
- Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Luật Trọng tài thương mại
bổ sung một số điểm mới sau đây:
Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm "Hội đồng
trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài" do Pháp lệnh năm 2003 quy định.
Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp
với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối
với các bên tranh chấp.
- Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên (Chương XII với 07 Điều).
- Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu
thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47,
48, 49 và 50).
- Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù
hợp của Pháp lệnh Trọng tài thương mại như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên
Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu "không đồng ý với quyết định trọng tài", bởi vì các
quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính
chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.
- Luật Trọng tài thương mại là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố
tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước

phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy định
của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài
và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài
hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố
tụng trọng tài.
- Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại là thể hiện rõ nét
mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của
các bên.
- Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
- Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các Trọng tài
viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ, Luật
Trọng tài thương mại có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp hội trọng tài
là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài. Việc thành lập
và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về hội nghề
nghiệp (Điều 22 Luật Trọng tài thương mại).
3.2. Điểm mới về pháp luật thoả thuận trọng tài ở Việt Nam theo Luật Trọng tài
thƣơng mại
2.3.1. Về định nghĩa thỏa thuận trọng tài
Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới
nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên theo Điều 3 Luật TTTM
"Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên nhằm giải quyết bằng trọng tài tranh chấp
có thể phát sinh hoặc đã phát sinh giữa các bên". Đây là một trong những điểm mới quan
trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử
dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.

13
3.2.2. Về hình thức của thoả thuận trọng tài
Điều 16 - Luật trọng tài ra đời đã khắc phục những điểm hạn chế quy định tại Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003, mở rộng hình thức thỏa thuận trọng tài, khắc phục được sự khác

biệt về các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài trong pháp luật trọng tài của Việt nam và
pháp luật Trọng tài thương mại quốc tế cũng như các nước trên thế giới.
3.2.3. Về thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên tổ chức trọng tài có
thẩm quyền giải quyết
Khắc phục những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 về quy dịnh thỏa
thuận trọng tài vô hiệu do không xác định rõ tên tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết,
Luật trọng tài thương mại đã loại bỏ quy định trên và điều này là phù hợp bởi vì nguyên tắc
giải quyết bằng trọng tài là phải dựa trên ý chí của các bên.
3.2.4. Về thỏa thuận trọng tài không thực hiện hoặc không thể thực hiện được
Luật trọng tài thương mại tại Điều 6 đã quy định "Trong trường hợp các bên tranh chấp
đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được".
Luật Trọng tài thương mại đã giải quyết được vấn đề thỏa thuận trọng tài khong thể thực hiện
được cũng như Luật Mẫu và pháp luật trọng tài các nước đều quy định rõ về vấn đề này.
Việc pháp luật trọng tài ghi nhận đối với trường hợp này một mặt tạo điều kiện cho trọng
tài được phát triển vì Tòa án sẽ không can thiệp vào vụ việc nếu như các bên đã có thỏa thuận
trọng tài, mặt khác còn tạo điều kiện cho việc hỗ trợ nếu như thỏa thuận trọng tài đó có sai sót
khiến cho thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thỏa thuận trọng tài
trong thực tiễn ở Việt Nam
Qua quá trình tìm hiểu về thực tiễn ký kết các thỏa thuận trọng tài ta có thể thấy rằng điều
khoản trọng tài là điều khoản luôn bị các bên tham gia hợp đồng coi nhẹ, không để ý hoặc nếu có
thì chỉ xem xét qua loa vì tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên thường không dự liệu hay không
nghĩ đến tranh chấp sẽ phát sinh cũng như cách thức giải quyết tranh chấp đó. Điều này dẫn tới hệ
quả xấu là khi có tranh chấp, bên bị vi phạm sẽ gặp phải những khó khăn, bất lợi.
3.3.1. Lựa chọn hình thức trọng tài phù hợp
Khi soạn thảo điều khoản trọng tài, các bên cần cân nhắc các điều kiện về tài chính, sự
thuận tiện hay bản chất của tranh chấp sẽ phát sinh để lựa chọn một hình thức trọng tài phù
hợp. Trọng tài quy chế thích hợp với những tranh chấp phức tạp, hợp đồng có giá trị lớn còn
trọng tài vụ việc thích hợp với những tranh chấp đơn giản, cần giải quyết nhanh chóng và tiết

kiệm chi phí.
3.3.2. Thỏa thuận trọng tài đơn giản và chính xác
Để đạt được tính khả thi và hiệu quả, một điều khoản trọng tài không nhất thiết phải dài
và chi tiết. Hai nguyên tắc cơ bản mà bất kỳ người soạn thảo điều khoản trọng tài nào cũng
nên biết là tính đơn giản và tính chính xác, cụ thể là đơn giản trong soạn thảo và chính xác khi
tập hợp các nội dung để đưa vào điều khoản.
3.3.3. Sử dụng ngôn ngữ trọng tài
Nếu trong khi soạn thảo hợp đồng, các bên sử dụng ngôn ngữ mà họ dùng để giao tiếp
hàng ngày thì không có vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế, các bên
thường được sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau để soạn thảo văn bản.
Các bên thường có quan niệm sai lầm cho rằng ngôn ngữ của hợp đồng sẽ chính là ngôn ngữ
trọng tài và không dự đoán được rằng một bên, dù có thiện ý hay dụng ý, có thể đưa vấn đề này ra
tranh cãi. Vấn đề tương tự cũng có thể phát sinh nếu hợp đồng được soạn thảo bằng hai ngôn ngữ

14
khác nhau (ngôn ngữ của mỗi bên) với nội dung tương đương. Một khi tranh chấp đã phát sinh,
hoặc vào thời điểm bắt đầu tố tụng, các bên rất khó thỏa thuận về ngôn ngữ chung bởi mỗi bên
đều muốn đạt được lợi ích của mình từ việc lựa chọn đó. Vì vậy, để tránh những khó khăn nói
trên, ngôn ngữ được dùng trong quá trình xét xử trọng tài nên được quy định trong điều khoản
trọng tài. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn Trọng tài viên trong quá trình tố
tụng trọng tài.
3.3.4. Lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài
Thông thường, mỗi bên tham gia hợp đồng đều mong muốn địa điểm trọng tài được tiến hành
tại quốc gia nơi mình đặt trụ sở hoạt động. Bởi vậy, việc quyết định địa điểm tiến hành trọng tài ở
đâu tùy thuộc vào khả năng đàm phán của mỗi bên. Trong trường hợp không đạt được việc lựa
chọn địa điểm trọng tài tại quốc gia mình và phải lựa chọn địa điểm trọng tài tại quốc gia khác,
các bên cần cân nhắc kỹ xem pháp luật nơi tiến hành trọng tài có hoàn thiện không, phạm vi và vai
trò của các Tòa án liên quan đến tố tụng trọng tài như thế nào, ủng hộ hay phản đối trọng tài. Tốt
nhất nên chọn địa điểm tiến hành trọng tài tại quốc gia đã thông qua Luật Mẫu UNCITRAL vì
Luật Mẫu được coi là "tiêu chuẩn vàng" về trọng tài thương mại quốc tế. Khi đó, các bên sẽ hoàn

toàn yên tâm.
3.3.5. Lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp
Luật áp dụng sẽ xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng. Khi thực hiện hợp đồng, các bên cần phải biết luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các
điều khoản hợp đồng không phải lúc nào cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương
ứng của các bên. Các bên cũng cần lưu ý rằng luật điều chỉnh nội dung hợp đồng có thể khác
với luật điều chỉnh quá trình tố tụng trọng tài. Thông thường luật điều chỉnh quá trình tố tụng
trọng tài là luật nơi tiến hành trọng tài.
Trong thương mại quốc tế, luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn. Tùy theo
khả năng đàm phán, luật áp dụng có thể là luật của quốc gia của một bên, ví dụ như luật của
nước bên bán hoặc bên mua hoặc là luật của một nước trung lập. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với
quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, giải pháp tốt nhất là các bên nên quyết định trước luật áp dụng
cho hợp đồng vì như vậy sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện hợp đồng.
3.3.6. Sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu
Một điều khoản trọng tài rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ sẽ đảm bảo tranh chấp phát sinh
được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện để tìm
hiểu sâu về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Để tiết kiệm thời gian, giải pháp
tốt nhất là nên sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu.

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng thỏa thuận trọng tài tại
Việt Nam, có thể khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của thỏa thuận trọng tài đối với phương
thức trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp
dụng trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác,
không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài đóng vai trò là " sợi chỉ đỏ" xuyên suốt và là "hòn đá tảng" đặt nền móng cho sự tồn tại
và hoạt động của trọng tài. Luật Trọng tài thương mại 2010 ra đời trên cơ sở nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, kế thừa và phát triển các quy
định phù hợp đã đi vào cuộc sống, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và

thuận lợi cho việc lựa chọn Trọng tài để giải quyết các tranh chấp. Tuy vậy, trong quá trình hội

15
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đòi hỏi về sự hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà kinh doanh là vô cùng cấp thiết. Thỏa thuận trọng tài
cần có những sự xem xét, phát hiện ra những khiếm khuyết từ đó sửa đổi bổ sung phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền nâng cao ý thức, hiểu biết của các doanh
nghiệp về phương thức trọng tài cũng như năng cao năng lực, kiến thức, đạo đức của các trọng tài
viên. Có như vậy, trọng tài mới có thể làm mới mình, hoàn thiện mình để sớm trở thành một
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến, được các nhà kinh doanh tin dùng ở Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.

References
1. Chính phủ (1993), Quyết định số 264/TTg ngày 28/4 của Thủ tướng Chính phủ về tổ
chức Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
2. Chính phủ (1994), Nghị định số 116/NĐ-CP ngày 5/9 về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế, Hà Nội.
3. Chính phủ (1996), Quyết định số 114/TTg ngày 16/02 của Thủ tướng Chính phủ về mở
rộng thẩm quyền cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Hà Nội.
4. Chính phủ (2004), Nghị định số 25/2004/NĐ-CP ngày 5/01 quy định chi tiết thi hành một
số điều Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, Hà Nội.
5. Chính phủ (2009), Công văn số 116/CP-PL ngày 07/7 về việc tham gia ý kiến đối với dự
thảo Luật Trọng tài, Hà Nội.
6. "Chọn trọng tài hay tòa án" (2006), , ngày 10/02.
7. "Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước
ngoài" (2010), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề: Pháp luật về trọng tài thương mại).
8. Vũ Ánh Dương (2010), "Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam", Tài liệu Hội thảo: Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế thi
hành phán quyết trọng tài, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Dự án
DANIDA tổ chức, Hà Nội.

9. "Giải quyết tranh chấp thương mại: Trọng tài là công cụ hữu hiệu" (2010),
, ngày 02/01.
10. Lê Hồng Hạnh (2007), "Hoàn thiện pháp luật trọng tài trước yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về trọng tài thương
mại).
11. Dương Văn Hậu (1999), Trọng tài Thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb

16
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo số 10/BCTĐ-HLGVN ngày 30/4 về đánh giá tác
động dự kiến của Luật Trọng tài, Hà Nội.
13. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Tờ trình về dự án luật số 10/TTr-HLGVN ngày 4/8, Hà
Nội.
14. Dương Đăng Huệ (2003) "Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội
nhập", Nghiên cứu lập pháp, (6).
15. Trần Hữu Huỳnh (Chủ biên) (2007), Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
16. Đặng Thị Bích Liễu (1998), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng tài, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. "Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương
mại quốc tế UNCITRAL 1985", (2010), Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề: Pháp luật
về trọng tài thương mại).
18. Trần Trúc Linh (1965), Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
19. Dương Thanh Mai (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Bình luận khoa học Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
20. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (1994), Hiệp định Marrakesh thành lập
WTO, (Bản dịch tiếng Việt), Hà Nội.
21. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
22. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
23. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

24. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội
25. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội.
26. "Soạn thảo điều khoản trọng tài quốc tế: Những điểm cần lưu ý" (2009),
, ngày 7/8.
27. Nguyễn Đình Thơ (2007), Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,

17
Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 05/2003/ HĐTP/TANDTC ngày 31/7 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Pháp
lệnh Trọng tài Thương mại, Hà Nội.
29. "Tổng công ty Tằm tơ thua kiện vì không hiểu luật" (2002), www.vnexpress.net, ngày 6/1.
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Thương mại, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
31. Đào Trí Úc (2008), "Tham luận góp ý cho dự thảo Luật trọng tài thương mại", Hội thảo
lấy ý kiến cho Dự thảo Luật Trọng tài thương mại 2010, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tổ chức, Hà Nội.
32. Văn phòng Quốc hội (2009), Báo cáo Tổng kết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003, Hà Nội.
33. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh công nhận tại Việt Nam quyết định của
trọng tài nước ngoài, Hà Nội.
34. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Hà Nội.
35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
36. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

×