Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở việt nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.54 KB, 21 trang )

Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp

Hoàng Thị Nga

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Quang Tuyến
Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; nhận diện những đặc trưng cơ bản của các khái niệm này.
Tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển
của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghiên cứu,
đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất. Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Keywords: Giải phóng mặt bằng; Thu hồi đất; Luật đất đai; Pháp luật Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số là nông dân như Việt Nam thì đất đai
luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất
nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng
việc xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành giao
đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính sự thay đổi cơ chế quản
lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được


đem trao đổi trên thị trường; dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn
với ngân hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất - kinh doanh.
Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai. Số lượng các khiếu kiện,
tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng
cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều trường hợp, người dân do không đồng
tình với phương án bồi thường của Nhà nước đã không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm
chậm tiến độ thi công công trình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác
động tiêu cực đến môi trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi
thường, người bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người và khiếu

2
kiện vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội v.v Để khắc phục tình
trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, hiệu quả của những giải pháp này chưa được như mong muốn;
nhiều quy định mới được ban hành dường như chưa phù hợp với thực tiễn (đặc biệt là các quy
định về giá đất bồi thường; các quy định về tái định cư cho người dân bị thu hồi đất ở; giải
quyết vấn đề việc làm cho người bị mất đất sản xuất v.v ). Các tranh chấp, khiếu kiện liên
quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ
gay gắt, phức tạp về nội dung. Điều này cho thấy chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu
về cơ chế, chính sách bồi thường nói chung và các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Đây là lý do để
tác giả lựa chọn đề tài "Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt
Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; nhận diện những đặc trưng cơ bản của các khái niệm này;
- Tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất;
- Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế trong lĩnh vực
đất đai nói chung và về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng;
- Các quy phạm pháp luật thực định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất;
- Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Trung
Quốc;
- Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất;
b. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc
đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất được ban hành từ năm 1987 (năm ban hành Luật Đất đai lần đầu tiên) đến nay;
3. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;

3
- Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước và pháp quyền nói
chung và về chính sách, pháp luật đất đai nói riêng trong điều kiện kinh tế thị trường;

- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
(i) Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh v.v. được sử dụng trong Chương 1 tìm hiểu
về một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
(ii) Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, điều tra v.v được sử dụng tại Chương 2
khi tìm hiểu về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
(iii) Phương pháp tổng hợp, quy nạp v.v. được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu, đề
xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất;
4. Tình hình nghiên cứu đề tài và những đóng góp mới của luận văn
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan trọng của
pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của
người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của nhà đầu tư nên đã nhận được sự
quan tâm nghiên cứu của giới khoa học pháp lý nước ta;
Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về lĩnh vực pháp
luật này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác
giả: Trịnh Thị Hằng Nga: Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
Luận văn Thạc sĩ luật học, 1999; Nguyễn Vinh Diện: Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2006; Nguyễn Duy Thạch: Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại thành phố
Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ luật học, 2007; Đặng Anh Quân: Bàn về giá đất khi bồi thường -
Nên cao hay thấp? Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 8, 2005; Dự án khu đô thị Nam
Thăng Long (CIPUTRA): Từ những bất thường trong đền bù, giải phóng mặt bằng, của nhóm
phóng viên thời sự Báo Pháp luật Việt Nam, số 285, ngày 29/11/2005; Hoàng Lộc: Nông dân
góp vốn bằng …đất - Giải pháp đột phá trong đền bù giải tỏa, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số
253, ngày 21/12/2005 v.v Các công trình này chủ yếu đi sâu nghiên cứu về vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa tìm hiểu một cách thấu đáo khía cạnh hỗ trợ, tái
định cư cho người bị thu hồi đất. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công
trình trên đây, luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dưới góc độ của pháp luật đất đai;
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía

cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất; trên cơ sở đó chỉ ra tồn tại, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế
này trong các quy định hiện hành;
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.

4
Chương 2: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt
Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Mục tiêu của chương 1 nhằm làm rõ các vấn đề cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; khái niệm và vai trò của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; khái quát lịch sử phát triển của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất; pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Trung Quốc. Để đạt được mục
tiêu này, chương 1 đề cập những vấn đề sau đây.
1.1. Cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất

Trong tiểu mục này, luận văn đi sâu tìm hiểu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
về đất đai nói chung, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng qua các thời kỳ: Từ khi
mới thành lập; sau khi giành được chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và trong thời kỳ
thực hiện công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt là tinh thần Nghị quyết số 26
ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp
tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đã đề ra những chính sách quan trọng về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm, đường lối này đã được Luật Đất đai năm 2003
thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
1.1.2. Cơ sở lý luận của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên cơ sở quyền
sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ.
Thứ hai, xét về bản chất Nhà nước ta là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập lên, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân; phục vụ và chăm lo cho lợi ích, sự phồn
vinh của người dân. Do đó, thì khi Nhà nước thu hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể
mục đích gì mà làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì Nhà nước phải có
bổn phận và nghĩa vụ phải bồi thường;
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người sử dụng đất (SDĐ) là
hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Vì vậy, Nhà nước phải
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho họ;
Thứ tư, Nhà nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh". Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước biết
tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người dân;
Thứ năm, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định,
lâu dài và mở rộng các quyền năng cho người SDĐ. Như vậy, "kể từ đây quyền sử dụng đất
đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất
thực hiện và trở thành một loại quyền về tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất" hay nói


5
cách khác, "Quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện; còn quyền sử dụng
đất thuộc sở hữu của người sử dụng đất".
GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng:
"Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính thuật ngữ, Quyền lợi và nghĩa
vụ của người sử dụng đất ở nước ta không khác so với quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu
đất đai ở các nước".
Như vậy, một khi pháp luật đã thừa nhận quyền SDĐ là một loại quyền về tài sản của
người SDĐ, thì khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho
người SDĐ.
1.2. Khái niệm và vai trò của bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
1.2.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1.1. Định nghĩa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng:" Bồi thường: đền bù những tổn hại đã gây ra".
Theo quan điểm của Luật Đất đai năm 2003: "Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị
thu hồi đất" (khoản 6 Điều 4).
1.2.1.2. Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với một số trách nhiệm pháp
lý về bồi thường trong các lĩnh vực pháp luật khác
Ở tiểu mục này, luận văn đã chỉ ra sự khác nhau cơ bản về chủ thể bồi thường và được
bồi thường; nguyên tắc bồi thường, tính chất bồi thường, mức bồi thường.v.v. giữa bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất với: (i) bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự;
(ii) bồi thường oan sai trong pháp luật hình sự; (iii) trách nhiệm vật chất trong pháp luật lao
động.
1.2.2. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào".
Luật Đất đai năm 2003 quan niệm: "Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để

di dời đến địa điểm mới" (khoản 7 Điều 4).
1.2.3. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.3.1. Quan niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt: Tái định cư được hiểu là: Đến một nơi nhất định để sinh sống
lần thứ hai (lại một lần nữa).
Mặc dù thuật ngữ tái định cư được pháp luật đất đai đề cập nhưng lại chưa có quy định
nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Luật Đất đai năm 2003 chỉ quy định: "Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư tr-
ước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất mà phải di
chuyển chỗ ở…Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường
bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước đối với khu vực đô thị;
bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn…" (khoản 3 Điều 42).
Từ quy định trên của pháp luật đất đai hiện hành, chúng ta có thể tạm đưa ra quan niệm về tái
định cư như sau: Tái định cư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải chuẩn bị nơi ở mới
đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định cho người bị Nhà nước thu hồi đất ở để
giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống.

6
1.2.3.2. Phân biệt giữa tái định cư với bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Ở tiểu mục này, luận văn đã chỉ ra sự khác nhau cơ bản về đối tượng, tính chất và nguyên
tắc của bồi thường và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.4. Vai trò của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.4.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trước hết là nhằm bảo đảm lợi ích công
cộng
1.2.4.2. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải quyết hài hòa lợi ích
của Nhà nước và lợi ích của người bị thu hồi đất
1.2.4.3. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư góp phần vào việc duy trì ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất

Trong mục này, luận văn khái quát về lịch sử phát triển của pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất qua ba giai đoạn: (i) Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm
1993; (ii) Giai đoạn sau khi ban hành Luật Đất đai năm 1993 đến trước khi ban hành Luật Đất
đai năm 2003; (iii) Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay.
1.4. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở Trung
Quốc - những gợi mở đối với Việt Nam
1.4.1. Các trường hợp thu hồi đất và bồi thường thiệt hại
1.4.2. Nguyên tắc bồi thường
1.4.3. Thẩm quyền thu hồi đất
1.4.4. Thực hiện việc bồi thường
1.4.5. Quản lý Nhà nước đối với đất sau thu hồi
1.4.6. Một số gợi mở đối với Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật Trung Quốc quy định cụ thể về các trường hợp thu hồi đất, về bồi th-
ường thiệt hại cho người có đất bị thu hồi, quản lý nhà nước đối với đất sau khi thu hồi. Đặc
biệt là các quy định về tiền hỗ trợ mất việc làm, chuyển đổi nghề, cách thức quản lý và sử
dụng khoản tiền hỗ trợ này, chính sách quản lý đối với đất nhàn rỗi v.v là những kinh
nghiệm hay mà Việt Nam có thể tham khảo và áp dụng để hoàn thiện mảng quy định của pháp
luật về lĩnh vực này;
Thứ hai, quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế của Trung Quốc đã tác động mạnh mẽ đến
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại lực lượng lao động; một số lượng không nhỏ diện
tích đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất phi nông nghiệp đã kéo
theo hàng loạt các vấn đề mà Chính phủ Trung Quốc phải giải quyết như: ổn định đời sống,
chuyển đổi nghề nghiệp, công ăn, việc làm cho người nông dân bị mất đất.v.v. Đây cũng
chính là những vấn đề mà Việt Nam đã và đang gặp phải trong quá trình chuyển đổi với mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Chính vì vậy, kinh nghiệm giải quyết các vấn
đề nói trên của Trung Quốc là những bài học rất có giá trị để Việt Nam tham khảo, tìm ra
được giải pháp phù hợp nhất để giải quyết "bài toán" đất đai cho nhu cầu phát triển và đảm
bảo quyền lợi cho người nông dân bị mất đất sản xuất;
Thứ ba, Trung Quốc thực hiện việc bồi thường cho người có đất bị thu hồi dựa trên cơ
sở lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng

cho họ. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc cũng rất chú trọng đến việc quản lý chặt chẽ đất
nông nghiệp, tránh việc sử dụng lãng phí quỹ đất này thông qua việc xác lập các quy định về

7
xử lý đất "nhàn rỗi". Đây là những nội dung mà nước ta cần lưu tâm tìm hiểu nhằm góp phần
tìm ra một giải pháp hợp lý để giải quyết có hiệu quả công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng.

Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
Chương 2 của luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật hiện hành về
bồi thường, hỗ trợ về đất đai và tài sản khi Nhà nước thu hồi đất, đặt trong mối quan hệ tổng
thể, so sánh với các quy định trước đây về lĩnh vực này; trên cơ sở đó, chỉ ra những vấn đề
còn hạn chế, tồn tại, vướng mắc trong thực thi mảng pháp luật này. Theo đó, chương 2 đề
cập đến những nội dung sau đây.
2.1. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1. Quy định chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1.1. Quy định về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
(i) Quy định về phạm vi bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện trong trường hợp Nhà nước thu hồi
đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát
triển kinh tế.
(ii) Quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang SDĐ bị Nhà nước thu hồi đất là
những đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
2.1.1.2. Quy định về nguyên tắc chi trả bồi thường
Việc chi trả bồi thường được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau:

- Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ thì tiền bồi thường và kinh phí tổ
chức thực hiện được tính vào vốn đầu tư của dự án;
- Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu tiền SDĐ, tiền thuê đất
có trách nhiệm chi trả trước tiền bồi thường và kinh phí tổ chức thực hiện việc bồi thường
theo các quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP và được trừ vào tiền SDĐ, tiền thuê đất
phải nộp;
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có thu tiền SDĐ, tiền thuê đất thì không phải trả
vào tiền SDĐ hoặc tiền thuê đất phải nộp;
- Mức trừ không vượt quá số tiền SDĐ, tiền thuê đất phải nộp;
Hơn nữa, pháp luật hiện hành còn quy định tùy từng trường hợp cụ thể, người bị thu hồi
đất, bị thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi sẽ được bồi thường hoặc hỗ trợ về tài sản
trên đất bị thu hồi, hỗ trợ di chuyển chỗ ở, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề, hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư.
2.1.2. Những quy định về bồi thường về đất
Trong mục này, luận văn đi sâu nghiên cứu, phân tích về nguyên tắc bồi thường về đất;
điều kiện được bồi thường về đất; giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại;

8
bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân và bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi
đất của tổ chức.
2.1.2.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường về đất
Thứ nhất, thực hiện bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất bị Nhà nước thu
hồi;
Thứ hai, người bị thu hồi đất đang SDĐ vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc
giao đất mới có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng giá trị quyển sử dụng đất (QSDĐ) tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi
thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh
lệnh đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.
2.1.2.2. Quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Trong tiểu mục này, luận văn đi sâu nghiên cứu, so sánh các điều kiện để được bồi
thường, hỗ trợ về đất quy định tại các Nghị định số: 22/1998/NĐ-CP; 197/2004/NĐ-
CP/2004/NĐ-CP và 84/2007/NĐ-CP.
(i) Điều kiện bồi thường, hỗ trợ về đất theo Nghị định số 22/1998/NĐ-CP và Nghị định số
197/2004/NĐ-CP/2004/NĐ-CP
Để xác lập cơ sở pháp lý cho việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số
22/1998/NĐ-CP quy định người bị thu hồi đất được bồi thường về đất khi có một trong 5 loại
giấy tờ SDĐ hợp pháp. Đối với các trường hợp không có một trong các điều kiện này thì khi
Nhà nước thu hồi đất không được đền bù mà chỉ được UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ. Thời
điểm SDĐ được xem xét bồi thường về đất được chia thành các mốc thời gian: (i) Trước ngày
18/12/1980; (ii) Từ ngày 18/12/1980 đến ngày 08/01/1988; (iii) Từ ngày 08/01/1988 đến ngày
15/10/1993; (iv) Từ ngày 15/10/1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất.
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 thay thế Nghị định số 22/1998/NĐ-CP
đã quy định 6 loại giấy tờ được coi là hợp pháp và 2 trường hợp khác không có giấy tờ hợp
pháp nhưng vẫn được coi là đủ điều kiện được bồi thường. Thời điểm SDĐ xem xét bồi
thường về đất được phân chia theo các mốc thời gian: (i) Trước ngày 15/10/1993; (ii) Từ ngày
15/10/1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất hoặc đến ngày 01/7/2004 và sau ngày
01/7/2004.
(ii) Điều kiện bồi thường, hỗ trợ về đất theo Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007
Trước tình hình không thống nhất trong áp dụng điều kiện bồi thường, hỗ trợ về đất đối
với các hộ SDĐ không có giấy tờ hợp pháp theo quy định, nhưng đất đã được sử dụng ổn định
vào thời điểm trước và sau ngày 15/10/1993 và để làm rõ hơn phạm vi xác định các đối tượng
có nguồn gốc SDĐ do lấn chiếm, vi phạm quy hoạch, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ đã quy định một cách rất cụ thể về bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà
nước thu hồi đối với các trường hợp sử dụng trước và sau thời điểm ngày 15/10/1993 mà
không có giấy tờ về QSDĐ.
2.1.2.3. Quy định về xác định giá đất tính bồi thường
Trong tiểu mục này, luận văn đi sâu tìm hiểu các quy định của pháp luật về nguyên tắc
xác định giá đất, thực tiễn áp dụng quy định về giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất.
(i) Nguyên tắc xác định giá đất tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà
nước thu hồi đất

9
Nguyên tắc xác định giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định
tại Điều 56 Luật Đất đai năm 2003, bao gồm:
a) Sát với giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường;
khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường thì phải điều
chỉnh cho phù hợp;
b) Các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng như
nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá
như nhau;
c) Đất tại khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có điều kiện
tự nhiên, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử
dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau.
(ii) Thực trạng áp dụng quy định về giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất
Tìm hiểu thực trạng áp dụng quy định về giá đất để xác định bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất cho thấy một số tồn tại chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, khi Nhà nước thu hồi đất, ngoài yếu tố giá đất thì loại đất bị thu hồi là yếu tố
cơ bản thứ hai quyết định tổng giá trị mà người bị thu hồi đất được nhận. Tuy nhiên, hiện nay
tại thời điểm Nhà nước có quyết định thu hồi đất, một thửa đất có thể có hai mục đích "đang
sử dụng". Mục đích do pháp luật quy định và mục đích sử dụng thực tế mà người SDĐ đang
sử dụng. Khi Nhà nước thu hồi đất, giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang
sử dụng do pháp luật quy định. Nhưng trong nhiều trường hợp người bị thu hồi đất không
chấp nhận giá bồi thường theo mục đích SDĐ mà cố tình đòi bồi thường theo giá đất mà họ
đã tự chuyển mục đích sử dụng trái pháp luật gây khó khăn cho việc thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng (GPMB);
Thứ hai, căn cứ để xác định mục đích SDĐ là quy hoạch, kế hoạch SDĐ được lập và phê

duyệt bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định;
Trên thực tế, chỉ sau khi có Luật Đất đai năm 2003, vấn đề lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ mới
được quan tâm thực hiện. Nhưng khi Nhà nước thu hồi đất thì còn rất nhiều nơi Nhà nước chưa
xác định mục đích mà người bị thu hồi đang sử dụng.
Qua phân tích việc áp dụng giá đất để tính bồi thường có thể thấy rằng, các quy định của Luật
Đất đai năm 2003 để nhằm tiến tới cơ chế "một giá đất", phù hợp với cơ chế thị trường không thể
thực hiện được nếu việc quản lý đất đai không đúng quy hoạch, kế hoạch SDĐ và không tạo lập
được thị trường BĐS công khai, minh bạch.
2.1.2.4. Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân
Trong tiểu mục này, luận văn tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về
bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở và bồi
thường, hỗ trợ khi thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân.
2.1.2.5. Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của tổ chức
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp của tổ chức thì tổ chức có đất
bị thu hồi sẽ không được bồi thường nếu được nhà nước giao đất, cho thuê đất không phải nộp
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất hoặc tiền đã nộp có nguồn gốc từ ngân sách.
2.1.3. Những quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản
Trong mục này, luận văn đã đi sâu tìm hiểu, phân tích về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về
tài sản; các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản trong các trường hợp: nhà, công trình xây

10
dựng trên đất; di chuyển mồ mả, công trình văn hóa, di tích lịch sử, nhà thờ, đền, chùa, am,
miếu, cây trồng, vật nuôi.
2.1.3.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về tài sản
Bao gồm các nguyên tắc cơ bản:
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi
thường;
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà đất đó thuộc đối tượng
không được bồi thường thì tùy từng trường hợp cụ thể được bồi thường hoặc hỗ trợ về tài sản;
- Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch SDĐ

công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng; nhà, công trình
khác gắn liền với đất được xây dựng sau ngày 01/7/2004 mà tại thời điểm xây dựng đã trái với
mục đích SDĐ đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch SDĐ được xét duyệt; tài sản gắn
liền với đất được tạo lập sau khi có quyết định thu hồi đất được công bố thì không được bồi
thường;
- Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất có thể tháo dời và di chuyển được, thì chỉ được
bồi thường các chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp
đặt; mức bồi thường do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quy định phù hợp với pháp luật
hiện hành và thực tế ở địa phương.
2.1.3.2. Quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản trong các trường hợp cụ thể
(i) Quy định bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất
(ii) Quy định bồi thường về di chuyển mồ mả, công trình văn hóa, di tích lịch sử, nhà thờ,
đền, chùa, am, miếu, cây trồng, vật nuôi
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ về tài sản, nội dung các
quy định này vẫn còn bộc lộ một số bất cập sau đây:
- Giá nhà, công trình được bồi thường vẫn thấp hơn số tiền mà người bị thu hồi đất phải
bỏ ra để xây dựng nhà, công trình mới. Đối với nhà, công trình xây dựng khác không được
bồi thường theo đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương
đương là không hợp lý vì thực tế, không thể dùng số tiền được bồi thường để xây dựng lại
một công trình có chất lượng, mức độ khấu hao tương đương với công trình đã bị phá dỡ;
- Đối với nhà, công trình đã được xây dựng trước ngày 01/7/2004 trên đất không được bồi
thường mà khi xây dựng vi phạm quy hoạch, kế hoạch SDĐ, vi phạm hành lang bảo vệ công trình
đã được công bố, cắm mốc thì không được bồi thường. Tuy nhiên, thực tế, việc lập quy hoạch, kế
hoạch SDĐ và công bố, cắm mốc còn quá nhiều bất cập, dẫn đến việc lấn chiếm đất đai, xây dựng
nhà, công trình không phép, sai phép rất phổ biến và việc giải quyết bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất đảm bảo thỏa đáng nhưng đúng pháp luật là hết sức khó khăn và phức tạp;
- Việc bồi thường di chuyển mồ mả trong thực tế không gặp khó khăn về mức bồi thường
song lại gặp khó khăn về thời gian di chuyển và chưa có giải pháp để khắc phục. Việc chuẩn
bị sẵn nơi di chuyển, chôn cất tập trung chưa được quan tâm chuẩn bị trước và chưa có quy
định bắt buộc thực hiện cũng là nguyên nhân gây khó khăn, làm kéo dài thời gian thực hiện;

- Mức bồi thường đối với cây trồng hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu
hoạch cao nhất trong 3 năm liền kề của cây trồng chính tại địa phương là quy định không mang
tính khả thi. Bởi vì, khó xác định năng suất của vụ cao nhất; đồng thời, việc xác định cây
trồng chính của địa phương là cấp tỉnh, huyện hay xã thì lại không có quy định và cũng khó
có thể xác định được chính xác;
- Việc bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi hiện nay vẫn thực hiện bồi thường giá trị
của cây trồng, vật nuôi theo kết quả sẽ thu hoạch; không thể xác định được, đặc biệt là đối với

11
vật nuôi, tại thời điểm thu hồi đất phải thu hoạch sớm; bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại
do di chuyển gây ra đối với trường hợp có thể di chuyển được cũng là không khả thi vì rất khó
xác định thế nào là phải thu hoạch sớm và người có tài sản phải di chuyển vật nuôi trên đất có
mặt nước đó đi đâu. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc tùy tiện áp dụng mức giá, áp giá mang
tính chủ quan, cảm tính của các cơ quan nhà nước khi thực hiện bồi thường.
2.1.4. Quy định về các chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định sản xuất,
chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho người bị thu hồi đất
Trong mục này, luận văn đã nêu ra và phân tích được các chính sách hỗ trợ nhằm giảm
bớt khó khăn, giúp người bị thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống, đặc biệt là các hộ nông dân bị
thu hồi đất nông nghiệp. Cụ thể là các chính sách sau:
2.1.4.1. Quy định về hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định sản xuất
2.1.4.2 Quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm
2.1.4.3. Quy định về hỗ trợ tái định cư cho người bị thu hồi đất
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
2.2.1. Những kết quả đạt được
Tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất có thể nhận biết những kết quả đạt được trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã: tạo cơ sở pháp
lý đưa công tác bồi thường, GPMB đi vào nền nếp; góp phần nâng cao tính dân chủ, công
khai, minh bạch trong việc bồi thường, GPMB; góp phần giải quyết quỹ đất "sạch" đáp ứng

nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thể chế hóa quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng về lĩnh vực đất đai trong công tác bồi thường, GPMB; góp phần
đáng kể vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ; giúp họ nhanh chóng ổn
định đời sống và sản xuất và có những đóng góp tích cực vào việc duy trì ổn định chính trị và
đảm bảo an sinh xã hội v.v ;
- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân và đội ngũ cán bộ quản lý đất đai
các cấp trong quản lý và sử dụng đất đai;
- Đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngày càng được xác định đầy đủ chính
xác, giúp cho công tác quản lý đất đai của Nhà nước được nâng cao, người nhận bồi thường
cũng thấy thỏa đáng. Mức bồi thường, hỗ trợ ngày càng cao tạo điều kiện cho người dân bị
thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã được bổ sung và
quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước nhằm giúp cho
người dân ổn định về đời sống và sản xuất;
- Các địa phương trên cơ sở các quy định của Luật Đất đai năm 2003; định hướng chính
sách của Đảng và Nhà nước và tình hình thực tế tại địa phương để áp dụng cho địa phương
mình, làm cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hợp lý và đạt hiệu quả
cao hơn; mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng con số này ít và không gây trở ngại đáng kể
trong quá trình thực hiện.
2.2.2. Một số tồn tại của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất khi triển khai trên thực tế còn bộc lộ một số tồn tại cơ bản sau đây:

12
Thứ nhất, mặc dù pháp luật đã quy định giá đất để tính bồi thường sát với giá chuyển nhượng
QSDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường, nhưng trên thực tế lại diễn ra những
bất cập xung quanh vấn đề này cụ thể như sau:
- Tình trạng hai giá đất trên thị trường, một bên là mức giá để tính bồi thường cho nông
dân rất thấp và bên kia là giá trị đất sau khi chuyển đổi mục đích SDĐ từ đất nông nghiệp
tăng lên rất cao, là một kẽ hở lớn tạo điều kiện cho nạn quan liêu, tham nhũng, đầu cơ và tạo

động lực chuyển đổi các khu đất thuận lợi nhất cho sản xuất nông nghiệp sang các mục đích
sử dụng khác;
- Cơ chế mới về GPMB sẽ gây khó khăn cho các bên thực thi, nhất là chủ đầu tư dự án
phát triển kinh tế. Bởi vì, do giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo Nghị
định số 69/2009/NĐ-CP tăng lên rất nhiều so với các quy định trước đây và được tính kể từ
thời điểm Nghị định này có hiệu lực (ngày 01/10/2009), khi đó, những dự án kéo dài nhiều
năm, người dân đã bàn giao mặt bằng thì nhận mức giá bồi thường ở thời điểm đó thấp,
những hộ chây ỳ, chưa bàn giao mặt bằng, đến thời điểm này được bồi thường cao hơn nhiều
lần trước đây sẽ tạo ra trong một dự án có hai cơ chế khác nhau về GPMB;
- Mặt khác, đối với các dự án xây dựng - chuyển giao (dự án BT), giá bồi thường tăng lên nhiều
lần so với trước đây khiến tổng mức đầu tư dự án tăng lên rất cao. Trong khi đó phần để hoàn vốn
cho nhà đầu tư thường là các khu đô thị lại phải theo giá thị trường, nhà đầu tư không thể tăng giá
bán tùy tiện, sẽ làm các nhà đầu tư suy giảm tiềm lực tài chính và rất khó để duy trì, thực hiện tốt
các dự án đang triển khai;
- Việc thu hồi đất, bồi thường, GPMB hiện nay chủ yếu được thực hiện theo một phương
thức mang tính bắt buộc; sử dụng một giải pháp chuyển đổi thiệt hại sang tiền, trong khi có
nhiều giải pháp khác không phải chi phí nhiều mà người dân vẫn thấy thỏa mãn về lợi ích lại
chưa được đề cập trong pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, GPMB ở Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, do còn có những bất cập trong cơ chế tự thỏa thuận giữa chủ đầu tư với người bị
thu hồi đất trong các dự án kinh doanh nên các nhà đầu tư muốn chuyển sang cơ chế Nhà
nước thu hồi và bàn giao lại đất đã GPMB cho chủ đầu tư; Bên cạnh đó, các dự án mà Nhà
nước thu hồi thì giá bồi thường cũng được tính phù hợp theo giá thị trường, sau mỗi năm các
địa phương lại cập nhật lại khung giá đất, nhưng mức giá này thường thấp hơn nhiều so với
giá thị trường;
Thứ hai, theo tinh thần của Nghị quyết số 26 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
và Luật Đất đai năm 2003 là phải bảo đảm cho người bị thu hồi đất đến chỗ ở mới có điều
kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Tuy nhiên, đến nay, hầu hết các khu tái định cư
xây dựng chưa theo kịp tiến độ thu hồi đất, bồi thường và GPMB và các cơ quan chức năng
được giao nhiệm vụ bồi thường, GPMB cũng chưa thực sự quan tâm đến tái định cư cho
người dân;

Thứ ba, các quy định về đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người trực tiếp sản xuất
nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp mà không có diện tích đất nông nghiệp mới để giao
khó đi vào cuộc sống. Do thiếu cơ chế đồng bộ, đầy đủ và cụ thể để thực thi. Trên thực tế, cơ
quan có trách nhiệm thực hiện bồi thường, GPMB mới chỉ chú ý đến việc bồi thường, hỗ trợ
về đất và thiệt hại về tài sản trên đất mà dường như chưa quan tâm giải quyết vấn đề tạo công
ăn, việc làm cho người nông dân bị mất đất sản xuất;
Thứ tư, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất chưa giải
quyết tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, chủ đầu tư và người bị thu hồi đất
cũng như chưa xử lý được mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa người bị thu hồi đất ở phải di
chuyển chỗ ở với người không phải di chuyển chỗ ở được hưởng lợi từ việc thu hồi đất v.v

13

Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
3.1 Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và
nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có vai trò quan trọng trong
việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ
đầu tư. Tuy nhiên quá trình áp dụng các quy định của pháp luật vào bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn bộc lộ những tồn tại, bất cập. Điều này đặt ra yêu cầu
phải tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để góp phần làm giảm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đông người; đảm bảo quyền, lợi
ích cho người có đất bị thu hồi.
3.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất, trong thời gian tới pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất cần được hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất phải dựa trên việc hoàn thành dứt điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi đôi với
hiện đại hóa hệ thống bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính
Thứ hai: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
phải dựa trên quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đất đai nói chung và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
Thứ ba: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
phải dựa trên việc giải quyết mối quan hệ hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị
thu hồi đất và chủ đầu tư, đồng thời quan tâm giải quyết vấn đề chỗ ở, đào tạo chuyển đổi
nghề nghiệp, bảo đảm ổn định cuộc sống cho người bị thu hồi đất
Thứ tư: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
phải hướng vào việc đổi mới cơ chế thực hiện bồi thường cho phù hợp với điều kiện kinh tế
thị trường; từng bước thực hiện việc "xã hội hóa" công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Thứ năm: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất phải dựa trên việc tiếp tục phát huy dân chủ, huy động sự tham gia của các tổ chức quần
chúng và nâng cao tính công khai, minh bạch, công bằng trong việc thu hồi đất
3.3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất cũng như chỉ ra sự cần thiết và những định hướng chủ yếu của việc hoàn thiện lĩnh
vực pháp luật này, Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ bản sau đây:
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thông báo quyết định thu hồi đất
Theo chúng tôi nên sửa đổi quy định về thời hạn thông báo việc thu hồi đất cho người dân
quy định tại Khoản 2 Điều 39 Luật Đất đai 2003 theo hướng rút ngắn thời hạn này; bởi lẽ,

14
việc thu hồi đất dựa trên quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt và được công bố công khai cho mọi người sử dụng đất biết. Nên thời hạn

thông báo thu hồi đất được Luật đất đai năm 2003 quy định quá dài như vậy là không cần
thiết.
3.3.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về thu hồi đất và quản lý quỹ đất đã thu hồi
Theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà nước thực hiện việc
thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với đất nước. Còn
đối với các dự án phát triển kinh tế khác, Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất mà muốn
có đất thì nhà đầu tư thỏa thuận việc bồi thường với người sử dụng đất. Nhưng thực tế thi
hành các quy định này thời gian qua cho thấy việc nhà đầu tư thỏa thuận bồi thường với người sử
dụng đất gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Vì vậy, chúng tôi cho rằng nên sửa đổi quy định hiện
hành về cơ chế thu hồi đất theo hướng mọi trường hợp sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh
tế đều do Nhà nước đứng ra thu hồi đất và giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện việc
bồi thường cho người bị thu hồi đất.
3.3.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất
bị thu hồi
Theo chúng tôi việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy định bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư cho người có đất bị thu hồi của Luật Đất đai năm 2003 như sau:
- Sửa đổi quy định về thời điểm tính giá bồi thường cho người sử dụng đất khi bị Nhà
nước thu hồi đất theo giải pháp sau đây:
1. Nên quy định việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường trên thực tế;
2. Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của nông dân thì ngoài việc họ được bồi
thường theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm thu hồi cần quy định một tỷ lệ hỗ trợ nhằm để
thưởng khuyến khích đối với những người bị thu hồi đất chấp hành nghiêm chỉnh, nhanh
chóng việc bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư. Khoản hỗ trợ này được trích từ khoản
chênh lệch giữa giá đất bồi thường với giá đất sau khi đã chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp.
3. Cần nghiên cứu, xây dựng quy định về bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người bị
thu hồi đất.
- Bên cạnh các quy định hiện hành về giải quyết vấn đề công ăn, việc làm bảo đảm đời
sống của người nông dân bị mất đất sản xuất; Nhà nước nên xây dựng, bổ sung quy định về

việc thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất
nông nghiệp. Một phần kinh phí để thành lập các quỹ này do các doanh nghiệp được hưởng
lợi từ việc thu hồi đất của người nông dân đóng góp.

KẾT LUẬN
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề thu hút sự quan tâm của
xã hội; có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, tâm lý của người dân và tác động đến sự ổn
định chính trị. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người
bị thu hồi đất. Pháp luật đất đai đã thể chế hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất của Đảng và Nhà nước trong các quy định
của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, bồi thường, hỗ trợ,

15
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp động chạm đến quyền và lợi ích của
người dân; nên phát sinh nhiều khiếu kiện, tranh chấp và tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về
chính trị. Lĩnh vực pháp luật này thường xuyên sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu của thực
tiễn. Song do giá đất ngày càng tăng cao và sự phát triển nhanh chóng của công cuộc phát
triển đất nước, một số quy định về vấn đề này bộc lộ những hạn chế, bất cập. Việc nghiên
cứu, tìm hiểu pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là việc làm
cần thiết nhằm đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện. Trên cơ sở phân tích nội dung các
quy định thực định, đánh giá thực trạng áp dụng và luận giải cơ sở khoa học của sự cần thiết của
việc hoàn thiện cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này
như sau:
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thông báo quyết định thu hồi đất;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thu hồi đất và quản lý quỹ đất đã thu hồi;
- Sửa đổi, bổ sung quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu
hồi; cụ thể:
(i) Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của nông dân thì ngoài việc họ được bồi

thường theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm thu hồi cần quy định một tỷ lệ hỗ trợ nhằm để
thưởng khuyến khích đối với những người bị thu hồi đất chấp hành nghiêm chỉnh, nhanh
chóng việc bàn giao mặt bằng cho các nhà đầu tư. Khoản hỗ trợ này được trích từ khoản
chênh lệch giữa giá đất bồi thường với giá đất sau khi đã chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp;
(ii) Bên cạnh các quy định hiện hành về giải quyết vấn đề công ăn, việc làm bảo đảm đời
sống của người nông dân bị mất đất sản xuất; Nhà nước nên xây dựng, bổ sung quy định về
việc thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho người nông dân bị mất đất
nông nghiệp. Một phần kinh phí để thành lập các quỹ này do các doanh nghiệp được hưởng
lợi từ việc thu hồi đất của người nông dân đóng góp.
- Sửa đổi quy định về thời điểm tính giá bồi thường cho người sử dụng đất khi bị Nhà
nước thu hồi đất; theo đó: Nên quy định việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi
thường trên thực tế.

References
1. Ban Chỉ đạo Trung ương chuẩn bị Đề án chính sách đất đai - Ban kinh tế Trung ương)
(2002), Báo cáo của Đoàn nghiên cứu, khảo sát về chính sách, pháp luật đất đai
của Trung Quốc, tháng 8, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo Trung ương chuẩn bị đề án chính sách đất đai - Ban Kinh tế Trung ương
(2002), Báo cáo của đoàn nghiên cứu, khảo sát về chính sách, pháp luật đất đai
của Đài Loan, tháng 9, Hà Nội.
3. Ban Kinh tế Trung ương (2004), Báo cáo của đoàn nghiên cứu, khảo sát tại Trung Quốc
về cải cách xí nghiệp quốc hữu; xây dựng và quản lý thị trường bất động sản; đền

16
bù, giải tỏa mặt bằng và tổ chức tái định cư cho người có đất bị thu hồi, tháng 4,
Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2004), Hệ thống văn bản pháp luật mới về đất đai, nhà ở và thuế nhà đất,
Nxb Tài chính, Hà Nội.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Báo cáo tình hình công tác quản lý đất đai (2003-

2006), ngày 20/02, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Bồng (2006), "Gắn kết quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng đô
thị", Vietnamnet.vn, ngày 20/9.
7. Chính phủ (2003), Tờ trình Quốc hội số 398/CP-PC ngày 07/4 về dự án Luật Đất đai sửa
đổi, Hà Nội.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12 quy định về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
9. Chính phủ (2005), Báo cáo Quốc hội số 165/CP-NN ngày 21/11 về kết quả kiểm tra thi
hành Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
10. Chính phủ (2006), Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định
197/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, Hà Nội.
11. Chính phủ (2006), Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg ngày 22/02 của Thủ tướng Chính phủ về
việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai,
Hà Nội.
12. Chính phủ (2007), Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội.
13. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8 về quy hoạch sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Hà Nội.
14. Nguyễn Vinh Diện (2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
15. Đinh Sỹ Dũng (2003), "Bảo vệ quyền sở hữu toàn dân về đất đai và quyền sử dụng đất
của người sử dụng đất: Thực trạng và kiến nghị", Nhà nước và pháp luật, (10).

17
16. Đặng Đức Đạm (2004), "Luật Đất đai 2003 làm gì để phát huy nguồn lực đất đai",
Nghiên cứu lập pháp, (6).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2 (1930), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng (2002), "Một số vấn đề trong
pháp luật, chính sách đất đai của Trung Quốc", Thông tin chuyên đề, (40).
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII,
IX) về phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyên Đào (2007), Giá đất chưa hợp lý là kẽ hở cơ chế xin - cho", Báo Kinh tế và Đô
thị, ngày 27/02.
27. Nguyễn Điền (2000), "Vấn đề sở hữu và sử dụng ruộng đất ở nước ta", Nghiên cứu kinh
tế, (271).
28. Lại Ngọc Hải (2006), "Về giải quyết việc làm cho nông dân ở những nơi thu hồi đất",
Báo nhân dân, ngày 05/3.
29. Phạm Xuân Hoàng (2004), "Bàn về giá đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003",
Nghiên cứu lập pháp, (7).

18
30. Hội Khoa học Kỹ thuật xây dựng Việt Nam (2002), Đền bù và giải phóng mặt bằng các
dự án xây dựng ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
31. Trần Quang Huy (2003), "Các vấn đề pháp lý về tài chính đất đai và giá đất", Luật học,
(Đặc san Luật Đất đai năm 2003).

32. Nguyễn Văn Kinh (2004), "Chống đầu cơ nhà đất", Nghiên cứu lập pháp, (6).
33. Nguyễn Ký (2004), "Những vấn đề cần quan tâm trong quản lý nhà nước về đất đai",
Quản lý nhà nước.
34. Hoàng Lam (2009), "Hỗ trợ chuyển đổi nghề tại khu kinh tế Nghi Sơn", tienphong.vn.
35. Hoàng Lộc (2005), "Nông dân góp vốn bằng…đất: Giải pháp đột phá trong đền bù giải
tỏa", Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 21/12.
36. Nguyễn Thắng Lợi (2008), "Kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt động thu hồi đất
nông nghiệp", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22/11.
37. Võ Đại Lược (2002), "Một số ý kiến về chính sách đất đai", Hội thảo lần thứ nhất về
đánh giá tình hình và kiến nghị bổ sung, sửa đổi chính sách pháp luật đất đai, do
Ban Kinh tế Trung ương tổ chức tại Hà Nội, ngày 14-15/5.
38. Tân Mai (2006), "Các lợi ích "choảng nhau" qua khung giá đất",
, ngày 12/11.
39. Nông Đức Mạnh (2003), "Đổi mới chính sách đất đai đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà
nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất", (Trích bài phát biểu tại phiên bế mạc Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7, lần 2, Khóa
IX), Báo Tiền phong, ngày 22/01.
40. Kiều Minh (2006), "Làm gì khi quy hoạch sử dụng đất còn nhiều khuyết tật",
, ngày 15/5.
41. Trịnh Thị Hằng Nga (1999), Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
đất - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
42. Nguyễn Thị Kim Ngân (2002), "Một số kiến nghị chính sách tài chính đất đai", Hội thảo
lần thứ nhất về đánh giá tình hình và kiến nghị bổ sung, sửa đổi chính sách pháp
luật đất đai, do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức tại Hà Nội, ngày 14-15/5.

19
43. Nguyễn Thị Kim Ngân (2002), "Tổng kết chính sách đất đai, kiến nghị về chủ trương sửa
đổi Luật Đất đai (Phần tài chính đối với đất đai và đền bù thu hồi đất)", Hội thảo
lần thứ nhất về đánh giá tình hình và kiến nghị bổ sung, sửa đổi chính sách pháp

luật đất đai, do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức tại Hà Nội, ngày 14-15/5.
44. Phạm Hữu Nghị (2001), "Luật Đất đai năm 1993 qua hai lần sửa đổi, bổ sung", Nhà nước
và pháp luật, (10).
45. Phạm Hữu Nghị (2004), "Về những điểm mới của Luật Đất đai năm 2003 qua hai lần sửa
đổi, bổ sung", Nhà nước và pháp luật, (10).
46. Phạm Duy Nghĩa (2002), Vai trò của pháp luật đất đai trong việc kiềm chế những cơn sốt
đất", Nhà nước và pháp luật, (5).
47. Phạm Duy Nghĩa (2002), "Quyền tài sản trong cải cách kinh tế: quan niệm, một vài bài học
nước ngoài và kiến nghị", Nghiên cứu lập pháp, (11).
48. Phạm Duy Nghĩa (2004), "Một số bình luận về Luật Đất đai năm 2003 dưới khía cạnh
chính sách pháp luật", Nghiên cứu lập pháp, (6).
49. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
50. Lê Phúc (2009), "Cẩn trọng khi thu hồi đất nông nghiệp", Báo điện tử đài tiếng nói Việt
Nam, ngày 02/4.
51. Anh Phương (2008), "Một số kiến nghị về công tác thu hồi đất, giải tỏa, giải phóng mặt
bằng đạt hiệu quả", Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 17/11.
52. Đặng Anh Quân (2005), "Bàn về giá đất khi bồi thường nên cao hay nên thấp", Tài
nguyên và Môi trường, (8).
53. Quốc hội (1993), Luật Đất đai, Hà Nội.
54. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội
55. Nguyễn Duy Thạch (2007), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất (Qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (đồng chủ biên) (2004), Một số vấn đề sở hữu ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20
57. Đinh Trọng Thắng (2002), "Sở hữu tư nhân về đất đai hay về quyền sử dụng đất đai:
Kinh nghiệm quốc tế và một vài liên hệ với Việt Nam", Tài chính, (7).

58. Hồ Khánh Thiện (2006), "Nông dân đối mặt với thất nghiệp", Thời báo Kinh tế Việt Nam,
ngày 08/02.
59. Vĩnh Thịnh (2005), "Cấu kết rút tiền Nhà nước: Những khuất tất trong giải phóng mặt
bằng nút giao thông Ngã Tư Sở, Hà Nội", Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 16/12.
60. Đào Xuân Tiến (2004), "Luật Đất đai năm 2003 và các vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện", Nghiên cứu lập pháp, (5).
61. Nguyễn Dũng Tiến (2006), "Đánh thức thị trường bất động sản: Bắt đầu từ xác định lại
giá đất", Báo Tiền phong, ngày 24/3.
62. Đoan Trang (2006), "Nhà đất, chuyện dài đầy bức xúc của dân", (Lược ghi tại buổi giao
lưu trực tuyến của Bộ Tài nguyên và Môi trường với dân), Báo tuổi trẻ, ngày 07/02.
63. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
64. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
65. Vũ Quốc Tuấn (2005), "Đất đai: Những vấn đề thể chế - Bảo thủ trong tư duy, thiếu minh
bạch về quản lý", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 01/9.
66. Nguyễn Quang Tuyến (2003), Địa vị pháp lý của người sử dụng đất trong các giao dịch
thương mại về đất đai, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
67. Nguyễn Quang Tuyến (2003), "Vấn đề sở hữu toàn dân đối với đất đai trong Luật Đất đai năm
2003", Luật học, (Đặc san Luật Đất đai năm 2003).
68. Nguyễn Quang Tuyến, Lê Văn Sự (2005), "Sự tiếp cận một số vấn đề lí luận về vai trò
can thiệp và điều tiết của Nhà nước đối với thị trường bất động sản theo Luật Đất
đai năm 2003", Luật học, (5).
69. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2004), Báo cáo về tình hình quản lý và sử dụng đất
đai (2003-2004) trên địa bàn thành phố, Hà Nội.
70. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2004), Tờ trình Hội đồng nhân dân thành phố số
86/TTr-UB ngày 26/12 về những nguyên tắc cơ bản để xây dựng khung giá đất, Hà
Nội.

21
71. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết số 20-
NQ/TU của Thành ủy Hà Nội và Nghị quyết số 09/2000/NQ-HĐ của Hội đồng

nhân dân thành phố Hà Nội về công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố
(2000-2006), Hà Nội.
72. Hoàng Vân (2006), "Dân lãnh đủ vì dự án treo!", Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 26/02.
73. Viện Nghiên cứu Địa chính - Tổng cục Địa chính (2000), Báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài độc lập cấp Nhà nước: Cơ sở khoa học cho việc hoạch định các
chính sách và sử dụng hợp lý quỹ đất đai, Hà Nội.
74. Đặng Hùng Võ, "Vào WTO, đất đai có còn là sở hữu toàn dân?",
.
75. Đặng Hùng Võ (2005), "Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiếu kiện", Báo Kinh tế và Đô
thị, ngày 09/10.
76. Phạm Văn Võ (2003), "Về mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất và sự thể
hiện mối quan hệ này trong dự thảo Luật Đất đai", Nhà nước và Pháp luật, (10).
77. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

×