Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.8 KB, 30 trang )

Chun đề:
Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước
vốn tại Việt Nam

1


1.1. LỜI MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày 11/1/2007,Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, xu hướng hội
nhập và tồn cầu hóa ngày càng trở nên mạnh mẽ khiến các doanh nghiệp Việt Nam
đứng trước những cơ hội cũng như thách thức. Đặc biệt, đối với hệ thống các tổ
chức tín dụng (TCTD) phải mở cửa gần như hoàn toàn theo các cam kết quốc tế lại
càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi xu thế này. Trước bối cảnh đó, cơ quan quản lý
nhà nước (cụ thể là NHNN) cũng như hệ thống TCTD Việt Nam phải chủ động
nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập để có thể biến thách thức
thành cơ hội, biến những khó khăn thành lợi thế.
Chính vì thế, NHNN phải ban hành các văn bản luật pháp phù hợp và hệ
thống TCTD phải cố gắng nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế
bằng cách tuân thủ theo một số điều ước quốc tế đã được cụ thể hóa bằng các văn
bản luật tại Việt Nam. Để từ đó có cơ sở so sánh, đánh giá và xếp hạng giữa các
TCTD Việt Nam với các TCTD của các quốc gia khác trên thế giới. Một trong
những điều ước quốc tế được hầu hết nhà quản trị ngân hàng trên thế giới đặc biệt
quan tâm chính là Hiệp ước quốc tế về an toàn vốn do Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng ban hành lần đầu vào năm 1988 (với tên gọi Basel I). Sau đó hiệp ước
vốn này được thay thế bằng Basel II và cuối cùng là Basel III.
Ở Việt Nam, NHNN và hệ thống TCTD đã áp dụng các hiệp ước vốn này vào
chính sách quản lý vĩ mơ cũng như quản trị rủi ro của từng TCTD. Tuy nhiên, việc
ứng dụng các hiệp ước Basel vẫn còn nhiều vướng mắc, nên chỉ mới dừng lại ở việc
lựa chọn một số tiêu chí đơn giản trong các Hiệp ước Basel để vận dụng và vẫn chưa


tiếp cận hoàn toàn các điều khoản.
Trong tương lai, NHNN phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và các ngân hàng
ở Việt Nam, đặc biệt là những ngân hàng có hoạt động quốc tế, sớm hay muộn sẽ
phải tuân thủ các chuẩn mực Basel để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng,
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu thật sâu và nắm
2


rõ các quy định trong Basel, cũng như nghiên cứu những khó khăn, vướng mắc,
ngun nhân vì sao Việt Nam chưa ứng dụng được các Basel trong từng giai đoạn
cụ thể để xây dựng lộ trình ứng dụng Hiệp ước vốn vào Việt Nam một cách hợp lý
và có hiệu quả. Đó cũng chính là lý do để em chọn đề tài “Phân tích tình hình ứng
dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam” để nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 19992012. Trên cơ sở đó, đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các
Hiệp ước vốn tại Việt Nam và đề ra các giải pháp để việc ứng dụng các Hiệp ước
vốn trong thời gian tới có hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Phân tích tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai
đoạn 1999-2012.

-

Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước
vốn tại Việt Nam trong giai đoạn 1999-2012.

-


Đề xuất những giải pháp thực thi, có tính đồng bộ giúp nâng cao hiệu quả
ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong tương lai.

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu thực trạng ứng dụng các Hiệp ước vốn tại NHNN và hệ
thống TCTD tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi thời gian
Đề tài chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp thu thập được trong giai đoạn từ khi
NHNN ban hành văn bản luật đầu tiên tiếp cận các điều khoản của Basel, tức
1999 đến hết năm 2012.

3


3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về tình hình ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ
NHNN Việt Nam, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, Tổng cục thống kê, các báo cáo
thường niên và báo cáo tài chính của các ngân hàng. Ngoài ra, số liệu được thu
thập thêm từ các báo, tạp chí chuyên ngành, Internet,...
4.2. Phương pháp phân tích số liệu
-

Sử dụng phương pháp so sánh số tương đối và số tuyệt đối để thấy được
tình hình ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam giai đoạn 1999-2012.


-

Sử dụng phương pháp thống kê suy luận để đánh giá những thuận lợi và
khó khăn trong việc ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam trong giai
đoạn 1999-2012.

-

Sử dụng phương pháp tự luận để đưa những giải pháp thực thi, có tính
đồng bồ giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng các hiệp ước vốn tại Việt Nam
trong tương lai.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU HIỆP ƯỚC VỐN BASEL
1.1. Đôi nét về ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS)
Vào năm 1974, nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân
hàng từ những cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà
đáng quan tâm nhất là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức, một nhóm các
Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã thành
lập nên Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking
supervision – BCBS) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Hiện nay, các thành viên của Ủy
ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
của các 13 nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp,
Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Để duy trì và củng cố hoạt động, Ủy ban
Basel tổ chức nhóm họp 4 lần trong năm và họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng
thanh toán quốc tế (BIS) tại Washington hoặc tại Thành phố Basel, Thụy Sĩ. Tuy

nhiên, để hoạt động hiệu quả và thường xuyên, một Hội đồng thư ký thường trực
được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là
những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ
các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Hội đồng thư kí thường trực của Ủy ban
có trụ sở làm việc tại Washington DC, Mỹ.
Ủy ban Basel khơng có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận
của Uỷ ban này khơng có tính pháp lý cũng như u cầu tuân thủ đối với việc giám
sát hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Ủy ban Basel báo cáo với thống đốc ngân hàng
trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm G10.Từ đó, tìm
kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Chính vì vậy, Ủy ban Basel chỉ
xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng
thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ
sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống
quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp
5


cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát
của các nước thành viên.
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hê thống Ngân hàng của
một quốc gia dù là phát triển hay đang phát triển, đều có thể đe dọa khơng chỉ đến
sự ổn định về tài chính của quốc gia đó mà cịn cả trên phạm vi toàn thế giới. Ủy
ban Basel thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về vấn đề xoay quanh sự hợp tác
quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất
lượng công tác giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Để làm được điều
này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và thực hiện được 3 điều cơ bản: (1) Trao đổi
thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia. (2) Cải thiện hiệu quả kỹ thuật giám
sát hoạt động ngân hàng quốc tế. (3) Đặt ra những tiêu chuẩn giám sát tối thiểu
trong những lĩnh vực ma Ủy ban thực sự quan tâm.
1.2. Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel

Vào những năm 1980, khi hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh mẽ
cũng là lúc việc cạnh tranh không lành mạnh và công bằng giữa các ngân hàng diễn
ra ngày càng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, lãnh đạo các nước phát triển đã tìm
giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh công bằng giữa các ngân hàng vừa
đảm bảo an tồn cho người gửi tiền. Giải pháp ấy chính là giới thiệu Hiệp ước vốn
Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Basel là yêu cầu về an toàn vốn do các
ngân hàng thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân
hàng thuộc ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm
1988 và có hiệu lực từ 1992. Basel I cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với
tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia
thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt
động quốc tế. Năm 1996, Basel I được sửa đổi bằng việc bổ sung thêm rủi ro thị
trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá
nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban
Basel đã đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất
(First Consultative Package – CP1). Sau đó, chương trình tư vấn này được diễn ra
lần thứ hai và ba lần lượt vào tháng 1/2001 và tháng 4/2003. Mãi đến quý 4/2003,
6


phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn thiện với khung đo lường mới
gồm 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu ốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii) Sự xem
xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài
chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật
thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Tháng 1/2007, Basel II có
hiệu lực. Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi Basel I và II.
1.3. Nội dung cơ bản của các Basel
1.3.1. Nội dung cơ bản của Basel I
Nhằm chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu tồn cầu hóa,Uỷ
ban Basel đã xây dựng chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động

ngân hàng. Tiêu chí đầu tiên đánh giá khả năng tham gia vào thị trường vốn quốc tế
là mức độ tuân thủ chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu, đây là nội dung nền tảng của Basel
I. Ngồi ra, Ủy ban Basel cịn đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất
về vốn của ngân hàng.Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 cấp là vốn cấp 1
và vốn cấp 2. Trong đó, vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ
công khai. Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm
của việc đánh giá lại tài sản, dự phịng chung và dự phịng tổn thất tín dụng, các
công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp. Như vậy,
tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng. Dựa
trên cách tính vốn tự có này, Basel 1 đưa ra chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
(CAR) mà đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này
đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Cơng thức tính như sau:
CAR = [(Vốn tự có hay vốn cơ bản) / (Tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%.
Trong đó:
Tài sản đã điều chỉnh rủi ro (RWA) = Tổng (Tài có nội bảng x Hệ số rủi ro) +
Tổng (Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro)
Tuy nhiên, thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương
và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra một số vấn đề nên Basel I có
những hạn chế nhất định. Thứ nhất, Basel I chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng
chứ chưa đề cập đến các rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống, rủi ro
7


thanh khoản,…Thứ hai, Basel I không phân biệt theo loại rủi ro. Nghĩa là, một
khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AAA được coi như một khoản nợ đối với tổ chức
xếp hạng B. Điều này chỉ ra rằng có thể các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn
nhưng sẽ đối mặt với các loại rủi ro khác nhau, ở mức độ khác nhau. Thứ ba, Basel I
chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động. Các lí thuyết về đầu tư chỉ ra rủi ro
sẽ giảm thơng qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Tuy nhiên, theo Basel I, quy định
về vốn tối thiểu khơng khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa

dạng (ít rủi ro hơn) và một ngân hàng kinh doanh tập trung (nhiều rủi ro hơn); một
khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư được đa
dạng hóa với cùng một giá trị. Thứ tư, một số quy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể
vận dụng trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, không
dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng
mẹ, ngân hàng – chi nhánh,…
1.3.2. Nội dung cơ bản của Basel II
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế này, tháng
6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới. Đến ngày 26/6/2004, bản
Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành gồm 3
trụ cột chính. Theo đó, trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ
vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính tốn theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro
tín dụng, rủi ro tác nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I,
cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị
trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác
nghiệp. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và
rất nhạy cảm với xếp hạng. Đối với trụ cột thứ II, các ngân hàng cần phải đánh giá
một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng
những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh
giá này. Ngoài ra, trụ cột thứ II cịn liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân
hàng, cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những công cụ tốt hơn so với
8


Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân
hàng đối mặt, gồm rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro pháp lý, rủi ro thanh
khoản, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk). Với cột
trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của cơng tác rà sốt giám sát: (1) Các ngân

hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh
mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó; (2)
Các giám sát viên nên rà sốt và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ
cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và
đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số
hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lịng với kết quả của quy trình này;
(3) Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định; (4) Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn
của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa
đổi ngay lập tức nếu mức vốn khơng được duy trì trên mức tối thiểu. Trụ cột thứ ba,
các ngân hàng cần phải cơng khai thơng tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị
trường. Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân
hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn
đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với
từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel mà BCBS đưa ra, các ngân hàng
thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm
bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro. Tuy nhiên, dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải
cách và củng cố tồn bộ cơng tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc
khủng hoảng tài chính hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II.
Thứ nhất, việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu
chuẩn có thể được chấp nhận rộng rãi. Thứ hai, các phương pháp giám sát, đánh giá
rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu kỳ kinh doanh. Thứ ba, các cơ quan quản

9


lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có khoa học

cơng nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
1.3.3. Nội dung cơ bản của Basel III
Để đối phó với những thiếu sót trong các qui định của Basel II, đồng thời nỗ
lực ngăn chặn sự tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, BCBS đã phát
triển Hiệp ước vốn Basel II thành Hiệp ước vốn Basel III với những quy định
nghiêm ngặt hơn dành cho 27 ngân hàng thành viên. Như vậy, mục tiêu gói cải cách
của BCBS là nhằm cải thiện khả năng của lĩnh vực ngân hàng để hấp thụ những cú
sốc phát sinh từ sự căng thẳng tài chính và kinh tế, bất kể nguồn gốc, do đó giảm
nguy cơ khủng hồng tràn từ khu vực tài chính cho các nền kinh tế.
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính
thanh khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân
hàng. Các tiêu chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ
vốn nhiều hơn và chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel
II. Các địn bẩy mới và tỷ lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro
nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm
bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Cụ thể,. Basel
III cũng quy định đối với tất cả các khoản vay có mức độ rủi ro cao cần phải đạt hệ
số rủi ro cao nhất là 150% (nghĩa là khi ngân hàng tính tốn tài sản có rủi ro sẽ nhân
với 1.5 )
Tóm tắt các thay đổi: (1) Thứ nhất, chất lượng, tính nhất quán, và tính minh
bạch của nguồn vốn cơ sở sẽ được nâng lên. Trong đó, chủ yếu của vốn cấp 1 là
phải bao gồm vốn cổ phần thường và lợi nhuận giữ lại. Hệ số tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu vẫn được giữ ở mức 8% nhưng yêu cầu vốn vốn cấp I phải đạt 6% trên 8%
đó. Đáng chú ý là trong 6% vốn cấp I đó phải có 4.5% là vốn của các cổ đông thông
thường. Thời hạn để thực hiện riêng quy định này là ngày 1/1/2015, với một lộ trình
rõ ràng và chi tiết hơn. Lộ trình để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013 và
hồn thành vào cuối năm 2018. Ngồi ra, các cơng cụ vốn cấp 2 sẽ được cân đối hài
hòa và vốn cấp 3 sẽ được loại bỏ. (2) Thứ hai, mức vốn để bảo đảm các rủi ro phát
sinh sẽ được tăng cường: Tăng cường các yêu cầu về vốn cho các khoản tín dụng
10



với khách hàng phát sinh, các nghiệp vụ bảo đảm cho các khoản vay, chứng khoán
phái sinh và các giao dịch tài chính. Đồng thời, nâng cao vốn dự phịng cho các rủi
ro, giảm các chu kỳ và cung cấp các ưu đãi bổ sung để di chuyển các hợp đồng phái
sinh trên thị trường tự do đến các giao dịch ngoại hối tại Ngân hàng (trung tâm
thanh toán bù trừ). Cung cấp ưu đãi để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng đối ứng.
(3) Thứ ba, Ủy ban sẽ đưa ra một tỷ lệ đòn bẩy là một biện pháp bổ sung cho khung
rủi ro được thiết lập ở Basel II. Do đó, Ủy ban đang trình bày một yêu cầu tỷ lệ đòn
bẩy nhằm đạt được các mục tiêu. Một là, xây dựng thêm lớp thứ hai cho đòn bẩy
trong lĩnh vực Ngân hàng. Hai là, đề xuất biện pháp bảo vệ bổ sung chống lại rủi ro
mơ hình và sai số đo bằng cách bổ sung biện pháp chống rủi ro, một biện pháp đơn
giản là dựa trên rủi ro tổng thể. (4) Thứ tư, Ủy ban đang đề xuất một loạt các biện
pháp thúc đẩy xây dựng các vùng đệm vốn trong thời điểm tốt và có thể được rút ra
khi trong thời kỳ căng thẳng ("Giảm chu kỳ và thúc đẩy các bộ đệm phản chu kỳ").
( 5) Thứ năm, Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối
thiểu cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm
bảo trong 30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được
gọi là Tỷ lệ dự phòng bình ổn. Uỷ ban cũng đang xem xét lại nhu cầu vốn bổ sung,
thanh khoản hoặc các biện pháp giám sát khác để làm giảm yếu tố ngoại tác được
tạo ra bởi các tổ chức quan trọng được thành lập có hệ thống.Vào tháng 9/2010,
Basel III định mức yêu cầu tỷ lệ là: 7-9,5% (4,5%- 2,5% (bảo tồn vùng đệm), + 02,5% (theo thời kỳ đệm)) cho cổ phần phổ thông và 8,5-11% cho Vốn cấp 1 và 10,513 cho tổng số vốn.

11


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÁC BASEL TẠI VIỆT NAM
2.1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước
NHNN Việt Nam và các TCTD Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn

thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như nâng cao năng
lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, tiến dần
từng bước đến các thơng lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong đó, NHNN là cơ quan ban
hành các văn bản luật cập nhật các điều khoản của Basel mà cách tiếp cận phù hợp
với tình hình Việt Nam. Đồng thời, NHNN cũng là cơ quan trực tiếp quản lý, giám
sát việc thực hiện các văn bản luật này từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp.
Mặc dù, NHNN chỉ mới ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và
Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) đầu tiên vào năm 1997. Tuy nhiên, chỉ sau 2
năm sau, tức năm 1999, NHNN cũng đã nhanh chóng cập nhật những chuẩn mực
quốc tế về đảm bảo an tồn vốn, nghiên cứu và cụ thể hóa bằng 2 Quyết định: (1)
Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định về giới hạn cho vay
với một khách hàng của TCTD; (2) Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày
25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD. Tuy
nhiên, mặc dù, NHNN đã có nhiều cố gắng nhưng hai Quyết định này đã không
tránh khỏi những hạn chế. Bởi lẽ, khi NHNN ban hành văn bản luật tiếp cận với
Basel I, cũng là lúc BCBS bắt đầu đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới (Basel II).
Cho nên, đến ngày 23/4/2003, NHNN có Quyết định số 381/2003/QĐ-NHNN về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an tồn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 297/1999/QĐNHNN5 ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN. Tiếp theo đến năm 2005, để cụ thể
hơn các quy định của Basel, NHNN đã ban hành các quyết định nhằm thay thế các
QĐ 296 và Quyết định 297, bao gồm: (1) Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày
19/4/2005 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trong
12


đó quy định về cách xác định: Vốn tự có = vốn cấp I + vốn cấp II; thông qua đó, xác
định tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu. (2) Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo đó, nợ của TCTD được chia
làm 5 loại: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nhóm 3 (Nợ dưới

tiêu chuẩn), Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tương
ứng với từng nhóm nợ có các mức trích lập dự phịng khác nhau: Nhóm 1: 0%,
Nhóm 2: 5%, Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50% và Nhóm 5: 100%.
Các quy định tại QĐ 457 và 493 tuy đã đề cập đến 1 số vấn đề liên quan đến
các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn còn ở mức hạn chế.
Chính vì vậy, vào tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 về các tỷ lệ bảo đảm an tồn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng (thay thế QĐ 457 và các sửa đổi có liên quan). Trong đó ngồi
việc quy định lại về việc xác định Vốn tự có= vốn cấp I + vốn cấp II, NHNN đã
hướng dẫn cách xác định tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất,
nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng lên 9%.
2.2. Về phía các TCTD
Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các TCTD cũng
đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình
cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp
cận với các chuẩn mực của các Basel. Các NHTM đã chuyển từ quản lý rủi ro thụ
động (với các đặc trưng: Quản lý sau đối với các hoạt động kinh doanh có phát sinh
rủi ro; Đơn thuần thực hiện báo cáo các kết quả đã xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ
động (với các đặc trưng: Quản lý trước và trong q trình của các hoạt động kinh
doanh có phát sinh rủi ro; Thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo
những ngưỡng rủi ro; Đưa ra các báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Theo đó: (1) Các
NHTM đã có bộ phận quản lý rủi ro chun biệt, ngồi việc quản lý rủi ro tín dụng,
rủi ro thị trường, các TCTD đã quan tâm đến rủi ro tác nghiệp, một số NHTM lớn
như BIDV, VCB, Vietinbank, Agribank, Techcombank, ACB… đã thành lập bộ
phận quản lý rủi ro tác nghiệp; (2) Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Ví
13


dụ: BIDV đang hồn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thơng lệ quốc tế
với 3 nhóm khách hàng: khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách

hàng là các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào các thơng tin tài chính và phi tài chính của
khách hàng, BIDV chấm điểm và xếp khách hàng thành 10 loại: AAA, AA, A,
BBB, BB, B, CCC, CC, C và D. Đối với mỗi hạng khách hàng, BIDV có chính sách
riêng, cụ thể như: chính sách về tiếp thị, chính sách về cấp tín dụng, chính sách về
tài sản đảm bảo…
Để có cái nhìn cụ thể, chúng ta chia việc thực hiện các văn bản pháp luật về
an toàn vốn theo 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn thứ nhất (1999-2005): Áp dụng Quyết
định 297/1999/QÐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của NHTM. Mặc dù, QĐ 457/2005/QĐ-NHNN được ban hành vào ngày
19/04/2005, tuy nhiên,do độ trễ của vấn đề, ta vẫn xem xét đến hết năm 2005; (2)
Giai đoạn hai (2006-2010): Giai đoạn thực hiện Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN.
Mặc dù, Thơng Tư sơ 13/2010/TT-NHNN có hiệu lực vào ngày 01/10/2010, tuy
nhiên, ta vẫn tính hết năm 2010; (3) Giai đoạn thứ ba (2011- 2012): Thực hiện đảm
bảo an toàn vốn tối thiểu 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN.
2.2.1. Giai đoạn 1999-2005
Vào giai đoạn này, thị phần hoạt động của 5 ngân hàng thương mại nhà nước
(NHTM NN), gồm NHTM NN Ngoại Thương Việt Nam (VCB), NHTM NN Công
Thương Việt Nam (CTG), NHTM NN Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV),
NHTM NN Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam (AGR), NHTM NN
Phát triển Nhà đồng bằng song Cửu Long (MHB), chiếm đến 70-75 %. Ngoài ra, tại
thời điểm năm 2000, trước thực trạng tỷ lệ nợ xấu quá cao, có nguy cơ dẫn đến sự
phá sản của các NHTM NN, Chính phủ đã trực tiếp cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng
cấp trái phiếu đặc biệt với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4 NHTM NN đưa
tổng mức vốn tự có của khối này lên mức hơn 18.000 tỷ VND, chiếm 51% vốn tự có
của tồn hệ thống. Chính vì vậy, có thể nói sự an tồn trong hoạt động của nhóm
ngân hàng này quyết định sự an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy
nhiên, khi nhìn vào hệ số an tồn vốn (CAR) của 5 NHTM NN tại thời điểm

14



31/12/2005, ta thấy, hầu hết các NHTM NN đều chưa đạt được yêu cầu về tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 8%, trừ MHB.
Hình 1: Hệ số an tồn vốn (hệ số CAR) của các NHTM NN
thời điểm 31/12/2005

Tuy nhiên, nếu xét trên tồn bộ hệ thống ngân hàng có thể nhận thấy, trong
khi các NHTM NN gặp khó khăn trong việc đạt chuẩn an tồn vốn thì các
NHTMCP thời điểm này lại đảm bảo được mức an tồn vốn.
Hình 2: Hệ số an toàn vốn của hệ thống TCTD Việt Nam tính đến 31/12/2005

15


Cụ thể, ngoại trừ, nhóm NHTM NN có CAR rất thấp là 4.10%, tất cả các
nhóm cịn lại có CAR cao hơn quy định. Trong đó, NHTM CP đơ thị có CAR là
8.00%, vừa đủ để đáp ứng yêu cầu của quy định. Đối với nhóm chi nhánh NH nước
ngồi và NH liên doanh lần lượt có hệ số CAR là 9.20% và 12.00%. Đặc biệt,
NHTM CP nơng thơn có hệ số CAR lên đến 24%. Tuy nhiên, do thị phần lớn cũng
như tỷ trọng vốn tự có của nhóm NHTMNN cao hơn rất nhiều so với tất cả các
nhóm cịn lại, nên tổng thể, hệ thống NHTM vẫn có CAR rất thấp là 5.50%. Hơn
thế nữa, mặc dù, các NHTM Việt Nam đã nỗ lực và hầu hết các NHTM CP đều đạt
được hệ số an toàn vốn trên 8%, song nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của
Basel II, tức là mẫu số phải cộng thêm cả vốn dành cho rủi ro thị trường và rủi ro
hoạt động thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam giai đoạn này đạt được tỷ lệ an toàn
vốn ở mức trên 8%.
2.2.2. Giai đoạn 2005-2010
Trong giai đoạn này, nhìn chung, CAR của các NHTM đạt trên mức quy định
là 8%. Tuy nhiên, vẫn là vấn đề của giai đoạn trước: các NHTM NN có ảnh hưởng
lớn đến cả hệ thống nhưng lại không thỏa mãn yêu cầu theo QĐ 457. Trong đó,

AGR khơng đạt được hệ sơ CAR suốt giai đoạn thứ hai này. Thậm chí, CAR ở mức
rất thấp. Ngồi ra, BIVD, CTG, VCB cũng có thời điểm khơng thỏa mãn u cầu về
an tồn vốn của QĐ 457 và các sửa đổi, bổ sung có liên quan.

16


Bảng 1: CAR của một số NHTM giai đoạn 2006-2010
Đơn vị tính: %
CAR
VCB

2006
12.60

2007
9.20

2008
8.90

2009
7.64

2010
9

CTG

5.18


11.62

12.02

8.06

8.02

ARG

4.90

7.20

7.9

4.86

6.09

BIDV

5.50

6.67

6.50

7.55


9.32

TCB

17.28

14.30

13.99

9.6

13.11

STB

11.82

11.07

12.16

10.90

10.32

ACB

10.89


16.19

12.44

9.97

10.4

EAB

13.57

14.36

10.75

n.a

10.84

( Nguồn: tổng hợp từ website NHNN)
Để hiểu rõ hơn về sự biến động của CAR trong giai đoạn này, ta xem xét
hình sau:
Hình 3: Hệ số CAR của một số NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010

Giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn đầy biến động. Thứ nhất, giai đoạn 20062008, nhìn chung, đa số các ngân hàng đều có CAR trên mức quy định và có xu
17



hướng tăng trưởng. Bởi vì, đây là giai đoạn có sự thuận lợi của môi trường kinh
doanh cũng như sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, giai đoạn thứ
hai, từ năm 2008 đến năm 2009, do tác động của chính sách kích cầu cũng như việc
thực hiện nới lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các NHTM đã tăng đột biến.
Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM tăng lên và kết quả là các
NHTM trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an tồn vốn. Trong đó, VCB
từ tình trạng đạt tiêu chuẩn trên 8%, giảm xuống chỉ cịn 7.64%. Sau đó, giai đoạn
2009-2010, CAR của hầu hết các ngân hàng đều tăng trưởng đáng kể. Bởi lẽ, nếu
căn cứ theo Nghị định 141/2006/NÐ-CP (ngày 22/11/2006), thì đến cuối năm 2010,
các NHTMCP phải đạt mức vốn pháp định tối thiểu là 3.000 tỷ VND. Một số ngân
hàng đã thực hiện tăng mức vốn pháp định theo qui định để đảm bảo tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu. Vì thế, vốn tự có được nâng lên, nghĩa là phần tử số trong cơng thức
tính CAR tăng lên, dẫn đến hệ số này tăng lên đáng kể.
2.2.3.

Giai đoạn 2011-2012
Trong giai đoạn này, bức tranh về đảm bảo an tồn vốn là khá phức tạp. Nếu

nhìn vào mức tính tốn cho tồn hệ thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo
được hệ số an toàn vốn tối thiểu 9% theo Thơng tư số 03/2010/TT-NHNN. Đầu tiên,
có những tín hiệu tốt khi hầu hết các NHTM đều đạt CAR trên 9%, mặc dù AGR chỉ
đạt được 8% nhưng đây cũng là dấu hiệu đáng mừng vì nếu so với tiêu chuẩn của cả
Basel I, II và III thì AGR cũng thỏa mãn quy định.

Hình 4: Hệ số CAR của các NHTM năm 2011

18


Dấu hiệu đáng quan tâm thứ hai là, nếu xét trên tồn hệ thống ngành Ngân

hàng thì CAR có xu hướng tăng lên, từ 11.92% vào thời điểm tháng 9/2011 đến
13.7% vào ngày 31/10/2012. Một trong những nguyên nhân là các NHTM CP đều
cố gắng thực hiện theo NĐ 141/2006/NĐ-CP về việc tăng vốn điều lệ trên 3000 tỷ
đồng. Tính đến 31/10/2012, khơng cịn ngân hàng nào có mức vốn điều lệ thấp hơn
3000 tỷ đồng.
Bảng 2: Tỷ lệ an tồn vốn của ngành Ngân hàng
Đơn vị tính: %
9/2011
CAR(%)

31/10/2012

11.92

13.7
Nguồn: tổng hợp từ NHNN

Tuy nhiên, với hai dấu hiệu trên, chúng ta vẫn chưa thể kết luận các NHTM
Việt Nam đã sẵn sang đối phó với những nguy cơ từ các loại rủi ro bởi các nguyên
nhân sau:
(1) Mặc dù là ngân hàng lớn nhất VN cả về vốn, tài sản lẫn đội ngũ nhân
viên, mạng lưới hoạt động, số lượng khách hàng, Agribank vẫn không thể đạt được
quy định về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2011. Mặc dù, sau đó, CAR
của Agribank lên mức 9,5% vào tháng 3/2012 nhờ vốn Chính phủ, nhưng cũng chỉ
mới cao hơn chút đỉnh so với yêu cầu tối thiểu. Ngoài ra, chất lượng vốn vay suy
19


giảm vẫn là một rủi ro lớn đối với vốn của Agribank xét tới viễn cảnh yếu kém về
chất lượng tài sản và khả năng sinh vốn nội tại hạn chế của ngân hàng này. Ðiều này

là đáng lo ngại nếu xét trên phương diện rủi ro hệ thống. Bởi lẽ, sự sụp đỗ của AGR
sẽ dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng.
(2) Ðối với khối NHTMCP,các ngân hàng quy mơ lớn đều có xu thế đạt được
yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an tồn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự
gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời
điểm 31/6/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB, Sacombank,
Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của
Thơng tư số 13/2010/TT-NHNN. Trong khi đó, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5
NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo tinh thần Nghị
định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời điểm hết tháng 6
năm 2011, vẫn cịn 15 NHTMCP có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở
khoảng 2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ
của Việt Nam vẫn không thể đạt được các quy định đảm bảo mức vốn pháp định.
Mặc dù, sau đó, đến 31/10/2012, tất cả đều thỏa mãn quy định của NĐ 41/2006/NĐCP, nhưng rõ ràng, đã có sự phân nhóm trong hệ thống ngân hàng. Điều này tìm ẩn
nhiều nguy cơ từ khối những ngân hàng nhỏ này, thậm chí ảnh hưởng đến cả hệ
thống.
(3) Hơn thế, như khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số an tồn
vốn ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn
trong hệ thống NHTM. Ðối với khối NHTMCP, xu hướng hệ số địn bẩy tài chính
cao có thể nhận thấy khá rõ.
(4) Trong giai đoạn này, thị trường bất động sản xuống dốc, nhiều khoản vay
đến hạn không trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân
hàng (ngân hàng buộc phải chuyển nhóm nợ và trích lập dự phịng rủi ro, tình hình
thanh khoản bị suy giảm). Tỷ lệ nợ xấu được NHNN cơng bố cho tồn ngành Ngân
hàng là 3,39%, tương đương với khoảng 20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ
xấu chưa phản ánh đúng thực chất RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu
chuẩn phân loại nợ cũng như công tác phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất
20



cập. Nếu như các ngân hàng phân loại nợ đúng theo chuẩn mực quốc tế và định giá
chính xác giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản vay (53% là bất động sản) thì chi phí
dự phịng rủi ro sẽ tăng lên, và vốn tự có của hệ thống ngân hàng sẽ bị ăn mịn đáng
kể.
(5) Xét trên khía cạnh toàn hệ thống, chỉ tiêu an toàn vốn của toàn bộ NHTM Việt
Nam đạt trên mức 9%. Tuy nhiên, điều này chưa thể hiện được mức đủ vốn của hệ thống
NHTM. Bởi lẽ, phần mẫu số theo quy định của Thơng tư 13/2010/TT-NHNN mới chỉ xác
định rủi ro tín dụng chứ chưa tính đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động (rủi ro tác
nghiệp). Hơn thế, theo Basel III, mẫu số còn bao gồm cả rủi ro do biến động kinh tế vĩ mơ
(rủi ro có tính chu kỳ) và rủi ro chéo trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo mơ hình
tập đồn tài chính. Nếu xét tình huống Việt Nam thì cả hai vấn đề rủi ro có tính chu kỳ và
rủi ro chéo cần được tính tới. Ngồi ra, khi đánh giá trong mối quan hệ với các NHTM
trong khu vực, mức độ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam ở mức khá thấp.

Hình 5: Hệ số CAR của hệ thống các TCTD
tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới thời điểm 9/2011.

2.3. Đánh giá thực trạng ứng dụng Hiệp ước vốn tại Việt Nam
21


Hiện tại, các NHTM đang áp dụng các quy định về an tồn vốn theo Thơng
Tư 13/2010/TT-NHNN nên chúng ta sẽ xem xét những thuận lợi và khó khăn trong
việc ứng dụng Basel II tại Việt Nam.
2.3.1. Thuận lợi
Một trong những thuận lợi cơ bản của việc áp dụng các Hiệp ước vốn đối với
NHTM VN là việc NHNN đã từng bước hoàn thiện các văn bản luật theo hướng
ngày càng tiếp cận các điều khoản của Basel. Cụ thể, hiện tại các NHTM đang thực
thi theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, đây là văn bản đã hoàn chỉnh hơn rất nhiều
so với các văn bản trước. Theo đó, NHNN đã quy định rất cụ thể cách phân loại vốn

cấp 1, vốn cấp 2, cũng như cách tính vốn tự có. Hơn thế nữa, NHNN đang soạn thảo
Dự thảo thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, hứa hẹn tính hồn chỉnh và cập
nhật của văn bản pháp luật. Hơn thế nữa, các NHTM cũng tích cực, chủ động ứng
dụng Hiệp ước vốn và hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình. Đồng thời, cả
NHNN và NHTM cũng phối hợp với nhau để tìm ra phương pháp để nâng cao hiệu
quả việc ứng dụng các Hiệp ước vốn tại Việt Nam.
2.3.2. Khó khăn
Một trong những khó khăn khi xem xét việc ứng dụng Hiệp ước Basel II vào
công tác quản trị rủi ro tại các NHTM VN đó chính là sự thiếu hụt nguồn nhân lực
chất lượng cao. Đây là vấn đề chung đối với tất cả các NHTM và kể cả đối với cơ
quan giám sát NHTM như Ngân hàng Nhà nước. Thơng qua tìm hiểu những chuẩn
mực Basel II, có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng được các chuẩn mực này
đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng và nhân viên phụ
trách phải có một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn kiến thức toán học
và kiến thức quản trị. Ngồi ra, các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ
năng không thể thiếu. Đây thực sự là những yêu cầu cao đối với các chuyên gia
ngân hàng Việt Nam tại thời điểm này. Mặc dù, nhân lực ngành nhân hàng khơng hề
thiếu, thậm chí là dư thừa nhưng để đáp ứng được những yêu cầu khắt khe này thì số
lượng có thể đáp ứng khơng là bao nhiêu. Ngồi ra, cũng có nhiều chun gia giỏi
đang đảm nhiệm những vị trí cấp cao trong các NHTM, nhưng do khơng có điều
kiện hoặc khơng đủ thời gian để được đào tạo và tiếp cận những kiến thức mới này
22


nên cũng chưa có khả năng vận dụng vào cơng việc thực tế. Chí phí cho những khóa
học với các chun gia nước ngồi trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng thường rất
cao, địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức của người đi học.
Khó khăn thứ hai có thể kể đến là thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm
chuyên nghiệp. Bởi vì, theo Basel II, các NHTM phải dựa vào rất nhiều yếu tố để có
thể xác định hệ số rủi ro theo từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối

tượng khác nhau, mà một trong những yếu tố này là kết quả xếp hạng tín nhiệm của
các tổ chức xếp hạng độc lập. Hiện nay thực tế là mỗi ngân hàng đang từng bước
xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy
nhiên, việc xếp hạng tín nhiệm này chủ yếu phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết
định cho vay của ngân hàng, rất ít được chia sẻ thơng tin hay phổ biến rộng rãi bên
ngồi. Từ đó dẫn đến tự ngân hàng nào ngân hàng đó mới lo. Vì thế, kết quả đánh
giá cịn mang nặng yếu tố chủ quan, cảm giác hơn là khách quan. Ngoài ra, nó cịn
dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do thơng tin khơng đầy đủ. Ở Việt
Nam, hiện tại có 3 tổ chức được xem là chuyên nghiệp nhất hoạt động trong lĩnh
vực xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn chưa được tổ chức quốc tế công nhận và vẫn
chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Một là,
Trung tâm thơng tin tín dụng của NHNN (CIC) vừa có chức năng thu thập và cung
cấp thơng tin tín dụng cho NHNN, lại vừa thực hiện việc xếp loại tín dụng doanh
nghiệp (theo Quyết định số 473/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004). Hai là, Công ty thông
tin và xếp hạng doanh nghiệp (C&R), mới thành lập năm 2004, được tách ra từ công
ty Giải pháp Việt Nam, là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam cung cấp các
loại báo cáo tín nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức lớn trên thế
giới như Standard & Poor’s, Moody’s, …Ba là, Trung tâm đánh giá tín nhiệm
Vietnamnet (CRVC) thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC, được ra đời
vào ngày 4/6/2005. Tuy nhiên, các đơn vị này vẫn chưa phải là tổ chức đánh giá tín
nhiệm theo đúng nghĩa bởi lẽ hoạt động chính vẫn chỉ cung cấp các thơng tin có liên
quan tới các doanh nghiệp mà chưa thực hiện nghiệp vụ đánh giá tín nhiệm theo
chuẩn mực quốc tế. Do đó, để xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ
lớn, đa dạng, có chất lượng và được chấp nhận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng
23


thời gian đáng kể. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các
tổ chức này đều đang tạm sử dụng từ các tổ chức khác nhau chứ chưa thể xây dựng
được một hệ thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam, mà sự vay mượn này cũng sẽ

ít nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng vào tính tốn đối với các doanh nghiệp
Việt Nam.
Một khó khăn nữa, đó là vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo. Hiện nay,
các NHTM VN đang bối rối trong việc thực hiện theo các chuẩn mực kế toán của
Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Khi thực hiện báo cáo
theo hai chuẩn mực này hoặc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong
nước và ngồi nước đánh giá thì kết quả là rất khác biệt. Một ví dụ minh họa, là báo
cáo cân đối kế toán của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam khi ngân hàng
này thuê tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s xếp hạng. Điều này, thực sự gâu khó
khăn rất lớn cho các ngân hàng ở Việt Nam trong việc áp dụng các tiêu chuẩn mà
Basel II đưa ra.
Bảng 3: Một số chỉ tiêu của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và thế giới (IFRS)
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu của
BIDV
Tổng tài sản
Vốn tự có
Vốn tự có/

IFRS

VAS

2007

2006

2007


2006

200,260
7,888
3.94%

158,064
4,181
2.64%

203,539
11,266
5.53%

161,160
7,341
4.55%

Tổng tài sản
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2007

Ngoài ra, cịn nhiều khó khăn khác ảnh hưởng đến việc ứng dụng Basel tại
Việt Nam như trình độ quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng còn yếu kém, chi
phí ứng dụng Basel là khá cao, chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, rào cản về
ngôn ngữ (Ngơn ngữ trong Basel hồn tồn là tiếng Anh với những thuật ngữ
chuyên ngành mới)

24



CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ỨNG DỤNG BASEL
TẠI VIỆT NAM
25


×