Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.89 KB, 66 trang )

TIỂU LUẬN:
Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi
nhánh NHCT Hoàn Kiếm


MỞ ĐẦU

Chiếm khoảng 96% số lượng doanh nghiệp, Các DNVVN đang ngày càng có
vai trị quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Đặc
biệt là Việt Nam bước vào hội nhập từ một nền kinh tế chưa phát triển. Phát triển
DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta. Theo định hướng của Chính phủ đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000
DNVVN, tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người.
Để có được sự thành cơng, các DNVVN cần phải được đáp ứng đầy đủ về
vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn
chính thức của DNVVN hiện nay cịn gặp rất nhiều khó khăn, do vốn ưu đãi phát
triển DNVVN từ các nguồn tài trợ của nước ngồi cịn hạn chế, năng lực của
DNVVN chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng khốn.
Chính vì vậy, để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, DNVVN
chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn
này cũng không phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNVVN của Cục phát
triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 32,28% các
DNVVN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn Ngân hàng, cịn lại các DNVVN rất
khó hoặc khơng thể tiếp cận được.
Điều đó cho thấy việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN hiện nay là cơ
hội đối với các NHTM nói chung và NHCT Hồn Kiếm nói riêng; phù hợp với xu
thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước, giúp cho các ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng trưởng tín
dụng, đa dạng hoá các danh mục đầu tư cho vay, phân tán rủi ro và nâng cao vị thế


cạnh tranh.


Với mục tiêu đến năm 2010 là "NHCT Việt Nam trở thành NHTM dẫn đầu
Việt Nam về tài trợ DNVVN" NHCT Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện
những chính sách nhằm hỗ trợ tốt nhất cho đối tượng này. Là một chi nhánh của
NHCT Việt Nam, NHCT Hoàn Kiếm cũng đang nỗ lực thực hiện việc mở rộng cho
vay đối với các DNVVN. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn cịn khơng ít khó
khăn, thách thức. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Mở rộng cho vay ngắn
hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm” làm đề
tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung chính chuyên đề tốt nghiệp gồm ba
chương như sau:
Chương 1: Cho vay ngắn hạn và mở rộng cho vay ngắn hạn đối với
DNVVN tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN tại Chi nhánh
NHCT Hoàn Kiếm
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các DNVVN tại
Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm


Chương 1: CHO VAY NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG CHO VAY NGẮN HẠN
DNVVN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ( DNVVN) trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm DNVVN
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh.
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo quy mơ ở các nước không giống nhau.
Một số nước khi xác định DNVVN chỉ dựa trên tiêu chí duy nhất là số lao động

(nhỏ hơn hoặc bằng 250 người). Có nước lại căn cứ vào mức doanh thu hàng năm,
số khác đặt ra các tiêu chí khác nhau cho các ngành cơng nghiệp khác nhau.
Ở Việt Nam, trước đây theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của
Chính phủ quy định, tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là
những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người.
Hiện nay, theo điều 03 Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001,
doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Small and medium enterprises - SME) là cơ sở sản xuất,
kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng
ký khơng q 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm khơng quá 300
người. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.


1.1.2 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế thị trường
Theo định nghĩa trên thì hầu hết (trên 90%) các DN tư nhân ở Việt Nam đều
là DNVVN. Dù có quy mô vừa và nhỏ nhưng khu vực kinh tế này đã đóng góp
đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia, nhất là kể từ khi có Luật Doanh nghiệp
ra đời. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của khu vực này là 20%. Vì thế, tầm quan
trọng và đóng góp của các DNVVN khơng thể bị xem nhẹ. Nhìn chung, các
DNVVN ở Việt Nam:
 Có số lượng nhiều nhất: Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, DNVVN Việt Nam chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp, chiếm khoảng 98% tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh của cả
nước.

 Tạo ra nhiều cơng ăn việc làm nhất, góp phần thực hiện Chiến lược xóa
đói giảm nghèo: Ước tính DNVVN tạo ra hơn 60% việc làm phi nông nghiệp,
khoảng 26% lao động cả nước. DNVVN sử dụng trên 90% số lao động có việc làm
thường xuyên. Quan trọng hơn, DNVVN có khả năng thu hút những lực lượng lao
động tại chỗ, ít được đào tạo bài bản, đó là một vấn đề mang tính xã hội rất lớn,
tăng thu nhập cá nhân, giảm đói nghèo. DNVVN là nơi có khả năng tiếp nhận phần
lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dư thừa do sắp xếp lại DNNN hay cải
cách hành chính, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định và phát triển xã hội.


Thường đóng góp nhiều nhất vào GDP: Mức độ đóng góp của DNVVN

vào nền kinh tế ngày càng lớn. Không chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các
DNVVN đang trở thành bộ phận quan trọng có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế,
góp phần tăng giá trị xuất khẩu của cả nước. Hàng năm, DNVVN huy động gần 30
tỷ USD sử dụng 2,6 triệu lao động và đóng góp gần 40% GDP cả nước, 32% tổng
vốn đầu tư toàn nền kinh tế, khoảng 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp,
khoảng gần 80% tổng mức bán lẻ, khoảng 67% vào nguồn thu ngân sách từ thuế,
khoảng 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa
một số ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ...




Bên cạnh đó, sự phát triển DNVVN là một kênh thu hút tích cực, có khả

năng huy động nguồn lực xã hội to lớn vào phát triển kinh tế, tận dụng và tiết kiệm
tối đa các nguồn lực về vốn, lao động, tài nguyên, đất đai… cho đầu tư phát triển.
Với qui mơ hợp lý, DNVVN đã góp phần tích tụ vốn, tạo ra cơ hội hình thành
những doanh nghiệp lớn trong tương lai. Góp phần tập trung vốn của xã hội tạo ra

những cơ sở vật chất ban đầ


Đây là bộ phận có vai trị quan trọng trong q trình sản xuất, lưu thơng

hàng hố, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển
của các DN lớn trong nền kinh tế: Các DNVVN có thể bổ trợ cho các doanh nghiệp
công nghiệp lớn trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào, bao bì; gia cơng, chế biến
các bộ phận, phụ tùng và bán thành phẩm; tiếp thị và phân phối sản phẩm..., góp
phần tạo ra sức cạnh tranh cần thiết để đẩy mạnh q trình phát triển và nâng cao
tính cạnh tranh trên tồn quốc. Các DNVVN đóng vai trị quan trọng trong khâu lưu
thông phân phối các sản phẩm do doanh nghiệp lớn sản xuất, nhất là tại các khu vực
nơng thơn, vùng núi.


Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là ở khu vực nơng nghiệp, nơng thôn. Sự phát triển của
các DNVVN ở khu vực nông thơn góp phần rất lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sự phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, xóa dần tình trạng thuần
nơng, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Các
DNVVN có thể đóng góp vào nỗ lực phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều
vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu
vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng khác nhau trên
toàn quốc.


DNVVN sản xuất hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, góp phần duy trì

và phát triển các ngành nghề truyền thống.

 Góp phần tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh: Sự phát triển của các DNVVN
tạo ra một khối lượng lớn hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng
cho xã hội, tạo ra sự lựa chọn đa dạng cho người tiêu dùng, tạo ra môi trường cạnh


tranh buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải liên tục đổi mới sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí. Đó là những yếu tố thúc đẩy
phát triển sản xuất kinh doanh một cách năng động, hiệu quả hơn.
 DNVVN góp phần đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân – nguồn nhân lực
quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3 Đặc điểm của DNVVN


Theo định nghĩa thì, DNVVN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh

nghiệp tư nhân, hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngành nghề, danh mục cung cấp
hàng hóa, dịch vụ đa dạng. Loại hình DNVVN bao gồm chủ yếu các công ty trách
nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần của khu vực tư nhân tập trung vào một số
lĩnh vực như chế biến nông – lâm - thuỷ - hải sản; gia công may mặc; sản xuất giày
dép; linh kiện thiết bị điện tử; làm uỷ thác cho các doanh nghiệp lớn hoặc gia cơng
cho các cơng ty nước ngồi.


Nhờ quy mơ nhỏ gọn, mơ hình tổ chức quản lý sản xuất đơn giản nên các

doanh nghiệp này có lợi thế là rất linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh,
có khả năng nắm bắt cả những nhu cầu nhỏ lẻ của các khách hàng mang tính khu
vực, địa phương. Dễ thay đổi cơ cấu sản phẩm để phù hợp với đòi hỏi của thị
trường



Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN bước đầu đi vào sản xuất kinh

doanh cần một lượng vốn đầu tư ban đầu ít, có thể thu hồi vốn nhanh. Yêu cầu về
vốn bổ sung và thiệt hại khi thay đổi tài sản cố định không nhiều nên có thể nhanh
chóng đổi mới cơng nghệ khi cần thiết.


Tuy hầu hết các DNVVN không đủ tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn

ngân hàng nhưng tài sản bảo đảm cho khoản vay chủ yếu là tài sản cá nhân hoặc tài
sản của chủ doanh nghiệp nên trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với khoản nợ
ngân hàng cao.


Mặc dù số lượng lớn và tăng nhanh trong thời gian gần đây song quy mô

của hầu hết là rất nhỏ, phần lớn lại mới được thành lập trong vòng khoảng gần chục


năm trở lại đây, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời, nên DNVVN ít kinh
nghiệm kinh doanh, chi phí sản xuất kinh doanh cao, năng suất lao động thấp.


Tình trạng chung và hầu hết của các DNVVN hiện nay là: Hạn chế trong

tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức; Trình độ khoa học cơng nghệ, tay nghề lao
động, trình độ quản lý cịn thấp; Thiếu thơng tin, thiếu thị trường, quan hệ kinh
doanh hạn hẹp; Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa thấp, khó tiêu thụ sản phẩm,
độ rủi ro cao. Có nhiều vấn đề mà DNVVN không thể tự giải quyết được như: tạo

môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào
tạo nguồn nhân lực…


Số lượng DNVVN chiếm khoảng 96 % trong tổng số doanh nghiệp, song

tổng số vốn cho sản xuất kinh doanh mới chỉ bằng khoảng 32% so với tổng vốn của
các doanh nghiệp trong cả nước. Điều này phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản
xuất kinh doanh của các DNVVN còn thấp, mặt khác cho thấy, DNVVN chưa được
quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất.


Quản trị nội bộ của DNVVN cịn yếu, nhất là quản lý tài chính; ý thức

chấp hành các chế độ chính sách chưa cao; còn lúng túng trong việc liên kết, nhất là
liên kết trong cùng một hội ngành nghề.
1.2 Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
1.2.1 Các hình thức tín dụng ngân hàng
Theo luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử
dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng.
Cấp tín dụng là việc các tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với ngun tắc có hồn trả bằng các nghiệp vụ: cho vay, cầm cố,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu thương phiếu chưa đến hạn.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê. Sau
một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.



Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay được phân loại
theo một số tiêu thức chính sau:
1.2.1.1 Theo phương thức cho vay
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó, ngân hàng
thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi trội trên số dư tài khoản
thanh tốn của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác
định, phù hợp với các qui định của NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Phương thức cho vay này dựa trên cơ sở thu chi của khách hàng không phù
hợp về thời gian và qui mơ. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, đơn giản,
khơng có đảm bảo nên phần lớn chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn, kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay từng lần: Theo phương thức này doanh số cho vay không vượt quá
số tiền cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ( HĐTD). Mỗi lần vay vốn,
khách hàng và ngân hàng làm thủ tục vay vốn và ký kết HĐTD.
Đây là hình thức tín dụng phù hợp với các khách hàng khơng có nhu cầu
thường xun, khơng có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ cho
vay từng lần khá đơn giản, ngân hàng có thể kiểm sốt từng món vay tách biệt. Số
tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở dự án,
phương án, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tào
sản bảo đảm tiền vay, nguồn trả nợ và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay.
- Cho vay theo hạn mức cho vay: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức cho vay là mức dư
nợ tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định.
Theo phương thức cho vay này, dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho
vay đã thỏa thuận trong HĐTD. Áp dụng đối với các khách hàng đủ điều kiện vay



vốn, sản xuất kinh doanh ổn định, mặt hàng đa dạng, có quan hệ vay vốn thường
xuyên và có mức độ tín nhiệm cao về sử dụng vốn vay.
Hạn mức cho vay, thời gian duy trì hạn mức cho vay, thời hạn cho vay, lãi
suất cho vay được xác định trên cơ sở phương án, kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vay
vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay,
nguồn trả nợ, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay. Nếu thanh lý HĐTD cũ, ký
kết HĐTD mới thì hạn mức cho vay mới bao gồm cả dư nợ thực tế của HĐTD cũ.
Tuy nhiên, cho vay theo phương thức này ngân hàng khó kiểm sốt hiệu quả
sử dụng từng lần vay do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Theo phương thức này, doanh số cho vay
không vượt quá số tiền đã thỏa thuận trong HĐTD. Số tiền cho vay, thời hạn cho
vay được xác định trên cơ sở dự án, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay
tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay, nguồn trả nợ, khả năng trả nợ của
khách hàng vay.
Ngân hàng có thể thẩm định và quyết định cho vay đối với nhu cầu vốn cố
định và số tiền/hạn mức cho vay đối với nhu cầu vốn lưu động dự kiến của dự án.
HĐTD về cho vay vốn lưu động chỉ ký kết và giải ngân khi khách hàng có nhu cầu
sử dụng vốn lưu động.
- Cho vay trả góp: là nghiệp vụ tín dụng, qua đó, ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng hóa lâu bền.
Cho vay theo phương thức này, doanh số cho vay không vượt quá số tiền cho
vay đã thỏa thuận trong HĐTD, số tiền vay được trả nợ thành nhiều kỳ hạn đều
nhau với tổng số tiền trả nợ gốc và lãi của mỗi kỳ hạn bằng nhau, trong đó, số tiền
trả lãi được tính trên dư nợ thực tế và số ngày thực tế của kỳ hạn trả nợ đó.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa
mua trả góp, nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho
vay của ngân hàng.



- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ: Là việc ngân hàng chấp nhận
cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức cho vay để thanh tóan tiền
mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền
mặt đại lý của ngân hàng.
- Cho vay hợp vốn: Là việc ngân hàng cùng với một hoặc một số tổ chức tín
dụng hoặc chi nhánh của tổ chức tín dụng khác thực hiện việc cho vay một hoặc
một phần dự án, phương án, trong đó, ngân hàng có thể là tổ chức đầu mối hoặc
thành viên cho vay hợp vốn theo quy chế đồng tài trợ của NHNN.
- Cho vay theo các phương thức khác: Tùy theo nhu cầu của khách hàng và
thực tế phát sinh, ngân hàng sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp
với đặc điểm hoạt động trong từng thời kỳ và không trái với qui định của pháp luật.
1.2.1.2 Theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc, lãi trong hạn, lãi phạt q hạn và phí
( nếu có) đã được thỏa thuận trong HĐTD. Việc xác định thời hạn cho vay phụ
thuộc vào nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ và thời gian sử dụng còn lại của tài sản
đảm bảo.
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì có
thời hạn cho vay có liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của khỏan cho
vay. Được chia thành:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay đến 12 tháng.
Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động hoặc nhu cầu sử
dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp
dụng cho vay trực tiếp, gián tiếp, cho vay theo hạn mức, cho vay theo món vay, cho
vay có hoặc khơng có tài sản đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi, hoặc
luân chuyển.
- Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay trên 60 tháng.



Cho vay trung dài hạn thường nhằm tài trợ cho các dự án, mua sắm tài sản cố
định, đầu tư công nghệ…của doanh nghiệp, nhu cầu vốn trung dài hạn đầu tư phát
triển của Nhà nước, nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền của người tiêu dùng.
Cho vay ngắn hạn tại các ngân hàng thường cao hơn các khoản cho vay
trung và dài hạn, do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách
hàng, hơn nữa, các khoản cho vay trung dài hạn có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt
hơn và khan hiếm hơn.
1.2.2 Cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
1.2.2.1 Vai trò của cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Ngân hàng
cho DNVVN vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh ngắn hạn của
doanh nghiệp, chủ yếu là bổ sung vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường được hiểu là : hàng tồn kho + phải
thu – phải trả. Đây là lượng vốn cần thiết để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp đều có các khoản phải thu, các doanh nghiệp cũng
có thể mua chịu từ các nhà cung cấp. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn
tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, linh hoạt trong kinh doanh, ngồi
ra cịn cho phép mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy
nhiên rất ít DNVVN có khả năng nhận được tín dụng nhà cung cấp đủ lớn để tài trợ
cho hàng tồn kho và các khoản phải thu. Hơn nữa, khi quy mơ tài trợ bằng nguồn
vốn tín dụng thương mại quá lớn thì rủi ro trong quan hệ tín dụng này cũng rất cao.
Mặt khác, các DNVVN có tỷ lệ rủi ro cao hơn những doanh nghiệp lớn và
được hình thành chính thống nên họ có rất ít nguồn tín dụng thay thế. Vốn ưu đãi
phát triển DNVVN từ các nguồn tài trợ của nước ngồi cịn hạn chế, năng lực của
DNNVV lại chưa đáp ứng các điều kiện để có thể huy động từ thị trường chứng
khốn. Hơn nữa, đối với hầu hết các DNVVN đang tăng trưởng ngay cả khi không
phát sinh nhu cầu đầu tư cơ bản thì lợi nhuận giữ lại cũng khơng đủ để đáp ứng toàn
bộ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Đó là chưa kể đến lợi nhuận giữ lại

thường được ưu tiên đầu tư mua sắm thêm tài sản cố định.


Đối với doanh nghiệp, vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vay vốn các tổ chức
tín dụng và vốn cổ phần. Tuy nhiên, để phát hành cổ phiếu, trái phiếu địi hỏi doanh
nghiệp phải có qui mơ lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị
trường, hơn nữa thị trường vốn của chúng ta hiện chưa hồn chỉnh, hệ thống tổ chức
tài chính trung gian chưa đủ mạnh... Do đó, có thể nói tín dụng là một “kênh” chủ
yếu để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN. Đây là một lợi thế
để các ngân hàng đẩy mạnh cho vay ngắn hạn DNVVN.
Vốn vay ngắn hạn ngân hàng giúp DNVVN có chu kỳ hoạt động kinh doanh
liên tục. Vòng quay vốn lưu động được tính từ thời điểm DN vay vốn ngân hàng,
đầu tư và sản xuất, cho đến khi bán hết hàng và trả được nợ cho ngân hàng và lại có
thể tiếp tục vay vốn đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo, đảm bảo chu kỳ sản xuất
kinh doanh được liên tục, khơng ảnh hưởng đến q trình cung cấp sản phẩm ra thị
trường, giúp không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của
DNVVN. Vòng quay vốn lưu động thường ngắn nên vay ngắn hạn ngân hàng là phù
hợp với DNVVN.
1.2.2.2 Các vấn đề liên quan đến việc cho vay ngắn hạn
Điều kiện vay vốn ngắn hạn: Khách hàng được ngân hàng cho vay khi đáp
ứng đủ các điều kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật.
- Có dự án, phương án khả thi, có hiệu quả, có khả năng trả nợ và phù hợp
với quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Khách hàng
phải có năng lực tài chính, cơ cấu tài chính hợp lý, đảm bảo tính thanh khoản và ổn
định đến thời điểm vay vốn.
- Tại thời điểm cho vay (i) khơng cịn nợ xấu nội bảng (trừ nợ khoanh và nợ

vay thanh tốn cơng nợ) tại bất cứ TCTD nào; (ii) khơng cịn nợ đã được xử lý rủi
ro hạch tốn ngoại bảng tại ngân hàng.


- Khách hàng phải gửi báo cáo tài chính và các thông tin cần thiết theo yêu
cầu của ngân hàng.
Nguồn hoàn trả: Hơn một nửa số khoản cho vay thương mại của ngân hàng
được thực hiện dưới hình thức cho vay ngắn hạn. Và hầu hết những khoản cho vay
này là nhằm hỗ trợ cho việc tăng dự trữ hàng hóa, hỗ trợ cho những nhu cầu về vốn
ngắn hạn và phục vụ cho từng dự án. Các khoản vay này thường được hoàn trả khi
hàng tồn kho của người này được bán và các khoản phải thu của được thu hồi.
Phương thức cho vay: Các khoản cho ngắn hạn thường được các ngân hàng
thực hiện theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng hoặc cho vay từng lần.
Việc cho vay phải tuân thủ theo các qui định của Chính phủ, Bộ ngành và NHNN
Việt Nam, tuân thủ theo quy chế cho vay, quy chế bảo đảm tiền vay…
Giới hạn cho vay: Tuân thủ theo qui định về an tồn tín dụng của NHNN
Việt Nam và các qui định của ngân hàng cho vay.
- Đối với 01 khách hàng:
+ Khơng vượt q 15 % vốn tự có của ngân hàng.
+ Giới hạn cho vay và bảo lãnh không vượt quá 25 % vốn tự có của
ngân hàng.
- Đối với 01 nhóm khách hàng liên quan: giới hạn cho vay và bảo lãnh không
vượt quá 60 % vốn tự có của ngân hàng.
Thời hạn cho vay, lãi suất cho vay: Việc xác định thời hạn cho vay, lãi suất
cho vay ngắn hạn phù thuộc vào qui định về xác định lãi suất cho vay của ngân
hàng theo từng thời kỳ, được xác định trên cơ sở dự án, phương án và nhu cầu vay
vốn của khách hàng.
Trong hoạt động tín dụng, lãi suất là một nhân tố tác động rất lớn đến hiệu
quả của ngân hàng cũng như quyết định lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Với
cùng điều kiện vay vốn như nhau, khách hàng sẽ có xu hướng vay ở nơi nào có lãi

suất thấp; nhưng về phía các ngân hàng ln muốn đầu tư vào những dự án có thu
nhập cao hơn, điều đó đồng nghĩa với lãi suất cho vay càng cao càng tốt. Vì thế,
ngân hàng nên chú ý đưa ra mức lãi suất hấp dẫn để thu hút nhiều hơn các khách


hàng tìm đến với mình, nhưng đồng thời cũng phải tạo ra thu nhập tốt hơn cho ngân
hàng.
Giải ngân và thu nợ: Việc giải ngân được thực hiện tùy theo phương thức
cho vay cụ thể, và được ghi trong hợp đồng tín dụng ( HĐTD). Việc thu nợ gốc và
thu nợ lãi được tiến hành theo thỏa thuận trong HĐTD, khách hàng phải chủ động
trả nợ khi đến hạn và có thể trả nợ trước hạn.

1.2.2.3 Quy trình cho vay
Mỗi ngân hàng cho vay tự thiết kế cho mình mơt quy trình nghiệp vụ tùy
thuộc vào nhiều yếu tố như: khả năng tổ chức quản lý, đặc điểm của khách hàng…
tuy nhiên, chúng đều có những cơng việc chính như:
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ và thu thập các thông tin về khách hàng.
Một khoản cho vay thường được bắt đầu từ cuộc tiếp xúc giữa cán bộ tín
dụng (CBTD) với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Qua đó, CBTD tìm hiểu về lý do
xin vay, nhu cầu tín dụng của khách hàng. Trong quá trình này, khách hàng cũng
được hướng dẫn về các thủ tục và hồ sơ vay vốn cần cung cấp cho CBTD.
Bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng bao gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn: do khách hàng lập theo mẫu in sẵn của ngân hàng.
Trình bày nhu cầu vay một cách khái quát, như: mục đích vay, nhu cầu vốn vay,
thời hạn vay, lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay.
- Hồ sơ pháp lý: bao gồm các tài liệu chứng minh về năng lực pháp lý, năng
lực hành vi dân sự, như: giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
điều lệ tổ chức và hoạt động, quyết định bổ nhiệm người điều hành, kế tốn
trưởng…
- Hồ sơ tài chính khách hàng: Gồm có: bảng cân đối kế tốn, báo cáo kết quả

kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của 2-3 năm liên tục gần nhất. Báo cáo tình
hình sản xuất kinh doanh lũy kế từ đầu năm…


- Hồ sơ về khoản vay: Đối với khoản vay ngắn hạn bằng VNĐ, gồm có:
phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch trả nợ, các chứng từ chứng minh cho
phương án vay vốn và trả nợ. Đối với khoản vay ngắn hạn bằng ngoại tệ, doanh
nghiệp phải gửi thêm các tài liệu, chứng từ chứng minh nhu cầu vay bằng ngoại tệ
theo quy định quản lý ngoại hối hiện hành của Nhà nước.
- Hồ sơ bảo đảm tiền vay( nếu khoản vay có bảo đảm bằng tài sản): Bản kê
khai các tài sản đảm bảo tiền vay kèm theo các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu
hợp pháp, các văn bản chứng nhận giá trị của tài sản đảm bảo.
- Các giấy tờ khác có liên quan.
Khi một đơn xin vay được nộp, CBTD sẽ đến cơ sở sản xuất kinh doanh của
khách hàng để điều tra thực tế về khách hàng vay vốn, bao gồm:
- Xem xét khả năng quản lý của khách hàng qua cơ sở vật chất, thái độ làm
việc của nhân viên, công nhân, tố chất và phong cách của người lãnh đạo và bộ máy
quản lý.
- Thu thập tài liệu chi tiết về các khoản mục trong báo cáo tài chính: Hàng
tồn kho ( quy mô, chất lượng, khả năng bán); Tài sản cố định (mức độ hiện đại,
năng lực sản xuất, khả năng sinh lời, khả năng bán); Nợ phải thu (phân biệt nợ q
hạn, nợ khó địi, nợ được ủy thác…); Tài sản lưu động khác (tài sản thiêu chờ xử lý,
chi phí chờ phân bổ…); Nợ phải trả ( khối lượng, kỳ hạn, tài sản bảo đảm); Lợi
nhuận. Cần xem xét cẩn thận các khoản mục trong báo cáo tài chính, vì nó khơng
chỉ được sử dụng để đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp mà cịn để xem
xét nguồn và chất lượng số liệu của doanh nghiệp đã cung cấp, uy tín của doanh
nghiệp trong quan hệ với các đối tác và các tổ chức tín dụng, tính hợp lý của khoản
vay.
- Kiểm tra các nội dung có liên quan đến phương án vay vốn và trả nợ, như:
sự cần thiết của khoản vay, điều kiện để thực hiện, các số liệu làm căn cứ cho dự

tinh thu nhập của phương án vay vốn, tài sản bảo đảm tiền vay (số lượng, ký mã
hiệu, chất lượng, tình trạng, nơi đặt để).


Bước 2: Thẩm định khách hàng và phương án vay vốn – trả nợ, lập báo
cáo thẩm định.
CBTD có thể tiến hành thẩm định khách hàng và phương án vay vốn ngay
khi tiếp xúc với khách hàng vay. Căn cứ vào các thông tin đã được tổng hợp, CBTD
đánh giá để xác định xem khách hàng có đủ điều kiện vay theo quy định khơng, từ
đó đưa ra ý kiến về việc cho vay đối với khách hàng.
- Thẩm định phi tài chính: làm rõ các vấn đề về tư cách pháp nhân, điạ vị
pháp lý; cách thức, khả năng, kinh nghiệm tổ chức quản lý và điều hành; uy tín của
khách hàng và người lãnh đạo doanh nghiệp; uy tín, lợi thế kinh doanh và các thơng
tin phi tài chính khác như: quan hệ với các tổ chức tín dụng …
- Phân tích hiện trạng và triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp trong
tương lai: nhằm đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại của
doanh nghiệp và xu hướng phát triển trong tương lai: tình hình sản xuất ( các điều
kiện sản xuất, máy móc thiết bị, quản lý tổ chức sản xuất, kết quả sản xuất); tình
hình tiêu thụ và uy tín của sản phẩm ( doanh thu, giá bán, khách hàng, chính sách và
biện pháp tiêu thụ, tiêu chuẩn quản lý chất lượng, thương hiệu…); triển vọng của
ngành kinh doanh ( xu hướng phát triển của ngành, cạnh tranh trong ngành, cơng
nghệ, chính sách của Chính phủ, vị thế của doanh nghiệp…).
- Phân tích tình hình tài chính: trên cơ sở các báo cáo tài chính và các thơng
tin khác thu lượm được, CBTD sẽ căn cứ vào các chuẩn mực đã được xây dựng của
ngành, của ngân hàng và của ngân hàng nhà nước để tiến hành đánh giá tình hình tài
chính của doanh nghiệp, qua đó nhận xét về tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, các rủi
ro trong tương lai. Cũng như xem xét những căn cứ cho việc đánh giá kế hoạch kinh
doanh, kế hoạch vay vốn - án trả nợ của doanh nghiệp.
- Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh: nhằm đánh giá tính khả thi và
hiệu quả của phương án kinh doanh. Bên cạnh đó, CBTD cũng đánh giá kế hoạch

vay vốn - trả nợ về: nhu cầu vay vốn, mục đích sử dụng vốn vay, nguồn trả nợ, khả
năng kiểm sóat của ngân hàng về nguồn trả nợ.


- Xác định khả năng rủi ro của khoản cho vay và các biện pháp phịng ngừa:
rủi ro chính sách và cơ chế của Nhà nước; rủi ro phát sinh từ khách hàng; rủi ro thị
trường ( giá cả, lãi suất, cung – cầu về hàng hóa – dịch vụ); rủi ro phát sinh từ các
nguyên nhân khác.
- Thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay ( nếu có) về: tính hợp pháp, đầy đủ,
chất lượng, khả năng chuyển đổi thành tiền, xác định giá trị của tài sản đảm bảo tiền
vay; khả năng và biện pháp kiểm soát, quản lý của ngân hàng.
Kết quả phân tích sẽ được thể hiện trong một bản báo cáo tóm tắt để gửi cho
những người có thẩm quyền theo quy định của ngân hàng xem xét quyết định.
Bước 3: Phê duyệt và ký hợp đồng.
Sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nếu đơn xin vay của khách hàng
được chấp thuận, các thủ tục cần thiết sẽ được hoàn tất để các bên liên quan ký một
hợp đồng tín dụng hồn chỉnh và hợp đồng đảm bảo tiền vay (nếu có).
Bước 4: Thực hiện hợp đồng.
CBTD sẽ hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục cần thiết để rút vốn vay
theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Sau đó, CBTD vẫn phải tiếp tục theo dõi các khoản vay này để đảm bảo
khách hàng sử dụng khoản vay theo đúng mục đích và sẽ thực hiện thanh toán cả
gốc và lãi như cam kết tại các thời điểm đã định trong hợp đồng tín dụng.
Định kỳ, CBTD yêu cầu khách hàng gửi báo cáo tài chính vừa đánh giá tình
hình sử dụng vốn vay, vừa xem xét các nhu cầu mới của khách hàng về các dịch vụ
ngân hàng. Các khoản cho vay nếu có dấu hiệu đáng ngờ đều được xem xét cẩn
thận để có biện pháp xử lý kịp thời.
Kết thúc một khoản cho vay, CBTD cần có những tổng kết và lưu trữ thơng
tin để có thể sử dụng khi cần thiết.
1.2.3 Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN

Mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN được hiểu là việc NHTM gia
tăng số lượng khách hàng là các DNVVN, tăng doanh số cho vay ngắn hạn, tăng dư


nợ cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn đối với các DNVVN trong cơ
cấu tín dụng của ngân hàng.
Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú trọng,
được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp
này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được thực thi tốt hơn, có hiệu quả
hơn và do đó các DNVVN sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Các
DNVVN thực sự sẽ trở thành thị trường tiềm năng với các ngân hàng, nhất là khi ưu
thế của các DN lớn đang dần mất đi, do:
- Việt nam đang trong xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập mơi trường cạnh
tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, qui mô của một số Tổng Công ty đang
độc quyền hiện nay sẽ thu hẹp, song song với việc cổ phần hố từng phần hoặc tồn
bộ các tổng cơng ty này thì các cơng ty mới, nhỏ hơn cùng ngành ra đời.
- Chính bản thân một số doanh nghiệp lớn hiện nay khơng có tiềm lực kinh tế
thực sự, điển hình là các Tổng Cơng ty khối Giao thơng-Xây dựng cơ bản.
- Khu vực kinh tế Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện
nay, đã và đang bộc lộ tính kém hiệu quả.
Việc ngân hàng mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN là cần thiết và
đem lại các lợi ích cơ bản sau:
- Phân tán rủi ro do số lượng khách hàng DNVVN lớn, quy mô từng khoản
vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho vay các đối
tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro của doanh mục cho vay. Hơn nữa, các khoản cho
vay là ngắn hạn nên thường chứa đựng ít rủi ro.
- Tạo điều kiện để tăng thu dịch vụ ngân hàng do tổng số lượng giao dịch
lớn, các DNVVN lại thường có xu hướng sử dụng trọn gói dịch vụ tại một ngân
hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.

- Ngân hàng dễ dàng quản lý do DNVVN thường có quy mô nhỏ, gọn, địa
bàn hoạt động hẹp.


- Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước: Do các
DNVVN có địa bàn hoạt động trải rộng trên cả nước nên NHTM có thể khai thác
tối ưu mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố.
- Phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước, giúp cho các ngân hàng chuyển dịch cơ cấu đầu
tư hợp lý, tăng trưởng tín dụng, đa dạng hố các danh mục đầu tư cho vay, phân tán
rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh.
1.2.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
Việc mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN có thể được hiểu là việc
tăng qui mô cho vay ngắn hạn đối với DNVVN, tăng chất lượng các khoản cho vay
ngắn hạn đối với DNVVN hoặc kết hợp cả tăng theo qui mô và chất lượng các
khỏan cho vay ngắn hạn đối với DNVVN. Nên việc đánh giá mở rộng cho vay ngắn
hạn dựa trên một số chỉ tiêu sau:


Số lượng DNVVN có quan hệ vay vốn tại ngân hàng

Sự gia tăng số lượng DNVVN vay vốn tại ngân hàng là nhân tố đầu tiên cho
thấy ngân hàng đang thực hiện mở rộng cho vay đối với DNVVN. Số lượng
DNVVN vay vốn tại ngân hàng chứng tỏ hiệu quả của hoạt động marketing của
ngân hàng.
 Doanh số cho vay đối với DNVVN
Doanh số cho vay là tổng lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách
hàng theo HĐTD trong một niên độ kế toán, thường là 1 năm. Doanh số cho vay là
chỉ tiêu phản ánh quy mơ tín dụng, khi doanh số cho vay tăng lên đồng nghĩa với
việc quy mơ tín dụng tăng.



Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNVVN

Dư nợ cho vay là lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản vay mà
khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể.
Đây là chỉ tiêu thường được sử dụng để phản ánh quy mô cũng như sự
tăng trưởng tín dụng, đánh giá tình hình sử dụng vốn của ngân hàng tại một thời
điểm nhất định.




Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ cho vay đối với

DNVVN.
Qua chỉ tiêu này có thế đánh giá việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay
ngắn hạn của ngân hàng đối với DNVVN.


Nợ quá hạn

Nợ quá hạn là là khoản nợ mà khách hàng khơng trả được khi đã đến hạn
hồn trả được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Chỉ tiêu nợ quá hạn phản ánh
mức độ an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN nhưng nếu
nợ quá hạn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
chứng tỏ hoạt động mở rộng cho vay đối với nhóm khách hàng này tiềm ẩn nhiều
rủi ro, cần phải thực hiện thẩm định kỹ khả năng trả nợ của khách hàng, định giá
đúng tài sản bảo đảm, thực hiện kiểm tra, kiểm soát khoản cho vay chặt chẽ hơn.

1.2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN
Những nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh tế - xã hội : Tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động tín dụng. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, chính trị ổn định, mơi
trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư và Chính phủ tăng lên là
cơ hội tốt cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến tăng cầu tín
dụng, là điều kiện tốt để thực hiện mở rộng tín dụng. Ngược lại, trong giai đoạn nền
kinh tế suy thối, sản xuất bị đình trệ, đầu tư không mang lại hiệu quả, nhu cầu đầu
tư giảm mạnh dẫn đến không thể mở rộng hoạt động cho vay nền kinh tế.
+ Lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ: Một nền kinh tế có lạm phát
cao, giá cả tăng sẽ khiến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, khiến giá nguyên
vật liệu đầu vào sản xuất tăng đội giá thành sản phẩm, hạn chế tính cạnh tranh của
doanh nghiệp. Mặt khác, Chính phủ cũng buộc phải thực hiện các chính sách tiền tệ
thắt chặt, như nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các NHTM, nâng cao lãi suất chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn. Khiến cho mặt bằng lãi suất trên thị trường tăng, gây khó
khăn cho các DNVVN khi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng.


+ Chính sách phát triển hệ thống tài chính: Việc Việt Nam gia nhập WTO
và đang ngày càng hội nhập một cách sâu rộng hơn với thị trường tài chính quốc tế,
Chính phủ theo lộ trình cam kết đã mở rộng cửa cho các ngân hàng và các định chế
tài chính 100 % vốn nước ngồi được phép hoạt động ở Việt Nam đã tạo rất nhiều
sức ép cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại trong nước. NHTM đua nhau
mở rộng mạng lưới nhằm tìm kiếm thêm nhiều nguồn khách hàng mới, trong đó có
các DNVVN, việc mở rộng cho vay ngắn hạn là tất yếu vì các khoản vay này có
tính an tồn và khả năng thu hồi cao.
- Môi trường pháp lý: Yếu tố pháp lý trong nền kinh tế là điều kiện đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp luật có vai trị hết sức quan trọng đối với
cả hoạt động của ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN, do
đó, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động mở rộng cho vay, hiệu quả cho vay của ngân

hàng. Nếu các văn bản quy phạm pháp luật ban hành thiếu hồn hảo, khơng hợp lý,
thiếu đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
hoạt động của ngân hàng.
+ Chính sách ưu đãi đối với DNVVN: Ở Việt Nam, với xuất phát điểm thấp,
nền kinh tế đang trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa thì việc phát triển
DNVVN là phù hợp và rất cần thiết. Nhận thức được vai trò của các DNVVN trong
nền kinh tế thị trường hiện nay, Chính phủ đã có rất nhiều những biện pháp nhằm
hỗ trợ thêm cho các DNVVN. Đây là một trong những lợi thế của DNVVN, vì
chính sách tín dụng của các NHTM thường tính đến các ưu đãi của Chính phủ đối
với các khách hàng vay vốn.
- Các nhân tố bất khả kháng: DNVVN hoạt động chủ yếu trong một số lĩnh
vực như: chế biến nông – lâm - thủy – hải sản, gia cơng may mặc, …trong q trình
sản xuất kinh doanh có thể phải chịu những tổn thất do những yếu tố bất khả kháng
như thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn… làm suy giảm thậm chí là mất khả năng trả nợ
ngân hàng. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng.
Những nhân tố chủ quan:
- Nhóm nhân tố chủ quan từ phía NHTM:


+ Qui mơ, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn
của ngân hàng, qui mô vốn chủ sở hữu…ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng
cho vay ngắn hạn đối với DNVVN. Nếu vốn chủ sở hữu lớn, ngân hàng có thể theo
đuổi chính sách tín dụng mạo hiểm hơn, nghiêng về tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng
sẽ cho vay nhiều hơn. Tính ổn định của nguồn tiền gửi sẽ là một yếu tố quan trọng
trong việc ngân hàng quyết định cho vay ngắn hạn nhiều hơn hay cho vay trung và
dài hạn nhiều hơn. NHTM là tổ chức kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi ngắn
hạn. Để đảm bảo tính thanh khoản, các ngân hàng thường chủ yếu cho vay ngắn
hạn.
+ Chi phí quản lý các món vay của DNVVN cao hơn nhiều so với các đối
tượng khác: do khoản vay ngắn hạn là các món vay nhỏ, nhưng để hạn chế rủi ro,

ngân hàng vẫn phải tiến hành thẩm định đối với DNVVN theo đầy đủ quy trình, dẫn
đến chi phí quản lý vốn cho vay cao. Điều này khiến các ngân hàng e ngại khi thực
hiện mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN. Hơn nữa các thủ tục vay vốn tín
dụng ngắn hạn của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức thường phức
tạp, điều đó dẫn đến chi phí giao dịch cao và làm cho những khoản tín dụng này trở
nên quá đắt đối với các DNVVN.
+ Hệ thống thông tin của ngân hàng hoạt động chưa thật sự hiệu quả: Khả
năng thu thập và xử lý thông tin về khách hàng nói chung, về các DNVVN nhỏ nói
riêng của các ngân hàng cịn hạn chế. Nguồn thơng tin chủ yếu vẫn là do doanh
nghiệp cung cấp, do vậy, ngân hàng vẫn còn e ngại khi cho vay với các doanh
nghiệp mới vay vốn tại ngân hàng lần đầu mà phần lớn vẫn ưa thích cho vay đối với
khách hàng cũ. DNVVN hầu hết lại mới được thành lập gần chục năm trở lại đây,
khó có khả năng chứng minh tài chính với ngân hàng khi vay vốn. Một hệ thống
thông tin hoạt động hiệu quả là một cơ sở quan trọng giúp các ngân hàng mở rộng
và kiểm soát các khoản cho vay ngắn hạn đối với DNVVN.
+ Hiệu quả hoạt động Marketing ngân hàng: Hiệu quả hoạt động marketing
ngân hàng đóng vai trị rất quan trọng trong việc thu hút khách hàng, giới thiệu về


ngân hàng cũng như các tiện ích từ các dịch vụ tài chính mà ngân hàng đem lại, từ
đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN.
+ Trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng, nhất là trình độ của các cán bộ
tín dụng: Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc và làm việc với khách hàng. Vì
thế, trình độ chun mơn, khả năng giao tiếp, kinh nghiệm làm việc của các cán bộ
tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mở rộng cho vay ngắn hạn đối với
DNVVN, không chỉ trong công tác thẩm định, mà còn trực tiếp giới thiệu cho khách
hàng các sản phẩm, tư vấn cho khách hàng, đem đến cho khách hàng cái nhìn trực
tiếp về văn hóa trong kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng thiết lập mối quan
hệ lâu dài với khách hàng.
+ Chính sách lãi suất: Là một trong những yếu tố quyết định đến việc mở

rộng cho vay ngắn hạn. Trong thời điểm Chính phủ đang chủ trương thực hiện các
chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát đã khiến các NHTM lao vào
cuộc cạnh tranh lãi suất gay gắt như hiện nay, việc đưa ra một chính sách lãi suất
hợp lý sẽ giúp cho NHTM vẫn có thể mở rộng cho vay ngắn hạn.
+ Hệ thống chi nhánh, mạng lưới của ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh:
Để tiết kiệm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và chi phí quản lý khoản cho vay
của ngân hàng, thì việc phát triển mạng lưới chi nhánh của ngân hàng chiếm vai trò
rất quan trọng. Do đặc điểm của DNVVN là phân bố rộng và phân tán nên nếu ngân
hàng có một hệ thống chi nhánh, mạng lưới rộng khắp thì khơng chỉ có khả năng
huy động hết nguồn tiền nhàn rỗi từ người dân và doanh nghiệp, mà còn là điều
kiện để ngân hàng mở rộng cho vay ngắn hạn đối với DNVVN.
+ Các qui định về tài sản thế chấp: Những qui định quá khắt khe về tài sản
thế chấp, các phương pháp định giá tài sản thế chấp chưa rõ ràng của ngân hàng đã
làm cho nhiều DNVVN không thể đáp ứng được khi có nhu cầu vay vốn.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu hết các ngân hàng đều muốn mở
rộng cho vay nhằm thu lợi nhuận. Vì vậy, để có chiến lược mở rộng cho vay ngắn
hạn đối với DNVVN đem lại lợi ích cao nhất, có sức cạnh tranh cao nhất, ngân hàng
cần có thơng tin về chiến lược kinh doanh của các ngân hàng là đối thủ cạnh tranh.


- Nhóm nhân tố do chủ quan từ phía DNVVN:
Các DNVVN gặp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vay ngân hàng,
trong đó có các khoản vay ngắn hạn, một phần là do các doanh nghiệp này khơng có
khả năng, thể hiện:
+ Khả năng lập dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh còn rất
hạn chế: Mặc dù môi trường kinh doanh cho các DNVVN đã và đang được cải
thiện trong những năm gần đây, song các doanh nghiệp này vẫn cịn gặp nhiếu khó
khăn và rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh về thị trường, sản phẩm…Hiệu
quả thấp của một số dự án đã được triển khai khiến các ngân hàng thận trọng hơn
trong việc xem xét và thẩm định các dự án được các doanh nghiệp đệ trình khi vay

vốn.
+ Thiếu thơng tin tài chính tin cậy về doanh nghiệp DNVVN: Báo cáo tài
chính của cơng ty là nguồn thơng tin chính để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, nhiều DNVVN khơng cung cấp thơng tin tài chính đáng tin cậy. Điều
này khiến cho DNVVN khó có thể có được các khoản vay từ ngân hàng.
Có hai giải thích cho thực trạng này là: thiếu năng lực hoặc hạch toán kế toán
sai. Nhiều DNVVN chuẩn bị ba bộ hồ sơ kế tốn, một cho ngân hàng, một cho
phịng thuế và một cho chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, cán bộ ngân hàng hiểu rất rõ
thực tế này, và đa số họ khẳng định rằng họ thường yêu cầu doanh nghiệp xin vay
vốn nộp bản sao báo cáo tài chính có dấu nhận hồ sơ của cục thuế, bởi vì các báo
cáo tài chính lập để gửi cơ quan thuế thường thể hiện kết quả hoạt động tài chính
xấu nhất. Cung cấp báo cáo tài chính có chất lượng là hết sức quan trọng đối với
quá trình xét duyệt cho vay vốn.
Trên thực tế việc chuẩn bị báo cáo tài chính đáng tin cậy và kế hoạch kinh
doanh khả thi cho hồ sơ xin vay vốn là rất khó đối với các chủ DNVVN, những
người khơng có kiến thức cơ bản về tài chính.
+ Nhu cầu vay vốn và khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác của các
DNVVN: Mặc dù có đóng góp to lớn đối với nền kinh tế, tỷ trọng vốn đầu tư ở khu
vực này vẫn thấp. Có hai lý do: thứ nhất, nhu cầu về đầu tư vốn của các DNVVN


×