LỜI GIỚI THIỆU
Tổ chức và Quản lý trong hoạt động Kinh doanh là đến mối quan hệ và
sự phối hợp quan hệ cùng với sự phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong
một chỉnh thể là hệ thống lãnh đạo và quản lý các lĩnh vực hoạt động, các
ngành các cấp, hệ thống các hình thức và biện pháp các quyết định kể từ khi
xác định mục tiêu, phương hướng, vạch kế hoạch tiến hành để đôn đốc, kiểm
tra thực hiện, nghiệm thu cuối cùng kết quả đạt được, rút ra những bài học
thành công và chưa thành công, đề ra hững giải pháp tiếp tục xử lý những
công việc cịn lại. Điều đó địi hỏi phải có sự phân chia một tổ chức quản lý
thành các cấp và các khâu thể hiện sự phân cơng chun mơn hố theo chiều
dọc và chiều ngang, các bộ phận đó bao giờ cũng nằm trong những mối quan
hệ nhất định nhằm tạo ra sự liên kết chặt chẽ, hài hoà trong tổ chức.
Vì vậy, khi xác lập các mối quan hệ về tổ chức, cần xác định rõ các yếu
tố: quan hệ dọc(theo thứ bậc quản lý) hay hệ ngang (theo chức năng); quan hệ
lâu dài, thường xuyên hay quan hệ đột xuất quan hệ chính thức hay quan hệ
khơng chính thức. Khái quát lại có 2 loại quan hệ cơ bản: quan hệ điều khiển
phục tùng và quan hệ phối hợp cộng tác. Với những kiến thức đã được học về
môn Tổ chức- Quản lý, trong bài tiểu luận này em muốn đề cập đến: Mối quan
hệ Điều khiển phục tùng, các hình thức điều khiển và sự vận dụng trong
quản lý doanh nghiệp
1
SƠ LƯỢC VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ
1/KHÁI NIỆM:
Thực tế trong đời sống kinh tế - xã hội luôn ln có sự hiện diện của tổ
chức dưới các hình thức: từ đơn giản đến phức tạp, từ vi mô đến vĩ mơ. Nói
chung tổ chức mang một ý nghĩa rất rộng nhưng trong bài viết này em muốn đề
cập tới một định nghĩa gần hơn với khái niệm Tổ chức quản lý: Tổ chức là một
cơ cấu (bộ máy hoặc hệ thống bộ máy) được xây dựng có chủ định về vai trị và
chức năng (được hợp thức hố), trong đó các thành viên của nó thực hiện từng
phần việc đựơc phân công với sự liên kết hữu cơ nhằm đạt tới mục tiêu chung.
Tổ chức quản lý gồm 3 yếu tố tạo thành:
- Chức năng là lý do hình thành và tồn tại của một tổ chức được khái quát
từ các nhiệm vụ chính phải làm thường xuyên để thực hiện mục tiêu của tổ chức.
- Cơ cấu là phương tiện để thực hiện chức năng, bao gồm các bộ phận hợp
thành tổ chức.
- Cơ chế vận hành là phương thức vận hành để cơ cấu hoạt động đúng
chức năng.
Do đó trong một tổ chức chúng ta phải biết kết hợp hài hồ cả 3 yếu tố
trên, có như vậy mới mong đạt được hiệu quả hoạt động của mình. Bởi lẽ chức
năng khơng rõ ràng sẽ khơng phục vụ đúng mục tiêu, cơ cấu không hợp lý sẽ
không thực hiện tốt chức năng, cơ chế không phù hợp sẽ gây rối loạn sự vận
hành của tổ chức.
2/CƠ CẤU TỔ CHỨC
Bất kỳ một hệ thống tổ chức nào dù được xây dựng theo loại hình nào
cũng đều bao gồm cơ cấu chính thức và cơ cấu khơng chính thức. Điều đó
phản ánh cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống
nhất của các mối quan hệ qua lại, vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong
đó cơ cấu chính thức là bộ khung của tổ chức làm nền móng cho hoạt động
2
quản lý. Cịn cơ cấu khơng chính thức đóng vai trò làm “gia vị” giúp giải
quyết các vấn đề phức tạp, tế nhị trong doanh nghiệp.
2.1/Cơ cấu chính thức:
* Cơ cấu chính thức của tổ chức là cơ cấu được ghi nhận chính thức trong
các văn bản pháp lý, điều lệ tổ chức của doanh nghiệp, cũng có trường hợp
khơng được ghi thành văn bản song được hợp thức hoá theo truyền thống, được
mọi người ghi nhận như là một thể chế.
* Cơ cấu chính thức xác định rõ vai trị, vị trí của mỗi bộ phận và mỗi
người trong tổ chức với các mối quan hệ quyền lực trong nội bộ tổ chức (bao
gồm quyền hạn, trách nhiệm, chế độ làm việc) để thực hiện sự phân công, phân
cấp và liên kết trong tổ chức, bảo đảm kỷ cương và hiệu lực tổ chức, phục vụ
mục tiêu của doanh nghiệp.
* Trong cơ cấu chính thức việc bố chí, đề bạt được thực hiện bằng quyền
lực hành chính. Giữa người phụ trách và ngưịi thừa hành có quan hệ điều khiểnphục tùng theo chức vụ, bằng phương pháp cưỡng chế chấp hành. Trong đó, mối
quan hệ phối hợp giữa các bộ phận cùng cấp được quy định rõ ràng, không được
tùy tiện theo cảm tính và phải gắn với trách nhiệm khi phối hợp.
2.2/Cơ cấu khơng chính thức:
* Cơ cấu khơng chính thức là những hình thức tổ chức "phi hình thể"
nhằm thực hiện những mối liên hệ “mềm” trong nội bộ tổ chức giữa các cá nhân
và giữa các nhóm người có đặc điểm, lợi ích riêng cần được điều hồ để phục vụ
mục tiêu chung. Nó bổ sung cho cơ cấu chính thức để thực hiện đầy đủ và có
hiệu quả cao chức năng của tổ chức mà khơng sử dụng quyền lực hành chính.
* Trong doanh nghiệp việc bố chí đan xen vào nhau các quan hệ chính
thức và các quan hệ khơng chính thức sẽ giúp cho các nhiệm vụ quản lý được
thực hiện một cách linh hoạt hơn và có kết quả cao hơn. Vì vậy trong quản lý,
3
điều quan trọng là phải xác định được mức độ tối ưu để kết hợp hoạt động của
cơ cấu tổ chức khơng chính thức và của cơ cấu tổ chức chính thức.
QUAN HỆ ĐIỀU KHIỂN PHỤC TÙNG
1/Vai trị của quan hệ điều khiển phục tùng:
1.1/ Quan hệ điều khiển phục tùng là loại quan hệ chủ yếu trong một tổ
chức với tác động qua lại giữa cấp trên và cấp dưới (trên xuống và dưới lên)
giữa người phụ trách và người thừa hành.
Hành vi điều khiển: là hành vi đơn giản nhất của quản lý để giải quyết các
nhiệm vụ đơn nhất sau khi đã có những quyết định chung. Đó là hình thức tác
động tích cực nhất và cũng linh hoạt nhất, nhằm thực hiện các nhiệm vụ và kiểm
tra để ngăn chặn, khắc phục các sai lệch của các bộ phận thừa hành.
Việc lựa trọn phương pháp và hình thức xử lý, giải quyết tình huống cụ
thể ln phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó quan trọng và trước hết là thực
trạng tổ chức và trình độ kiến thức, chuyên môn, năng lực phẩm chất của người
quản lý cũng như chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong thứ bậc
của hệ thống tổ chức quản lý. Vì vậy sự điều khiển sẽ rất dễ rơi vào tình trạng
chủ quan tuỳ tiện, xử lý đối phó vụn vặt, mất đồng bộ trong hoạt động quản lý.
Sự điều khiển đó có thể mang tính hành chính (cưỡng chế thi hành) hoặc mang
tính hướng dẫn. Tính hành chính ở đây có thể hiện qua các phương pháp hành
chính:
Các phương pháp hành chính là các phương pháp tác động dựa vào các
mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý và kỷ luật của doanh nghiệp.
Các phương pháp hành chính trong quản trị kinh doanh chính là các cách
tác động trực tiếp của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động dưới
quyền bằng các quyết định dứt khốt, mang tính bắt buộc, địi hỏi người lao
động phải chấp hành nghiêm ngặt, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng.
Điều này thường được thể hiện qua nội quy làm việc của doanh nghiệp hay như
4
các quyết định của cấp trên yêu cầu cấp dưới phải thực hiện công việc được
giao.
Vậy các phương pháp hành chính có vai trị như thế nào trong quản trị
kinh doanh?
Nó xác lập trật tự kỷ cương làm việc trong doanh nghiệp. Là khâu nối các
phương pháp quản trị khác lại, phương pháp hành chính giải quyết các vấn đề
đặt ra trong doanh nghiệp rất nhanh chóng; Tác động hành chính có hiệu lực
ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy các phương pháp hành chính hết sức
cần thiết trong những trường hợp hệ thống bị rơi vào những tình huống khó
khăn, phức tạp.
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản trị theo 2
hướng tác động về mặt tổ chức và tác động diều chỉnh hành vi của đối tượng
quản trị
-Theo hướng tác động về mặt tổ chức: chủ doanh nghiệp ban hành các văn
bản quy định về quy mô, cơ cấu, điều lệ, nhằm thiết lập tổ chức và xác định
những mối quan hệ hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp.
-Theo hướng tác động diều chỉnh hành vi của đối tượng quản trị: chủ
doanh nghiệp đưa ra những chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới
thực hiện những nhiệm vụ nhất định, hoặc hoạt động theo những phương hướng
nhất định nhằm đảm bảo cho các bộ phận trong hệ thống hoạt động ăn khớp và
đúng hướng điều chỉnh kịp thời các sai phạm.
Tuy nhiên sử dụng các phương pháp hành chính địi hỏi các cấp quản trị
phải nắm vững những yêu cầu chặt chẽ sau đây, nếu không rất dễ gây ra hậu quả
nghiêm trọng khó có thể sửa chữa.
-Thứ nhất: Phương pháp hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định
đó có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Ngoài ra quyết
định phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên khi
đưa ra quyết định hành chính, nên cố gắng có đủ các thơng tin cần thiết cho việc
5
ra quyết định. Người quản lý doanh nghiệp chỉ ra quyết định trên cơ sở có đảm
bảo về thơng tin chính xác tin cậy. Tập hợp đủ thơng tin, tính tốn đầy đủ đến
các lợi ích và các khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi quyết định được thi
hành.Từ đó sẵn sàng bổ sung các biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực nếu có.
-Thứ hai: Khi sử dụng các phương pháp hành chính nên gắn chặt quyền
hạn và trách nhiệm của người ra quyết định. Mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử
dụng quyền hạn của mình phải có trách nhiệm về việc sử dụng
các quyền hạn đó. Đối với quyết định hành chính thì cấp dưới bắt
buộc phải thực hiện khơng được lựa chọn. Chỉ người có thẩm
quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi quyết định.
-Thứ ba: các phương pháp hành chính địi hỏi chủ doanh nghiệp phải có
quyết định dứt khốt, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả
năng có sự giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ được giao.
Là một nhà Quản lý chúng ta cần phân biệt các phương pháp hành chính
với kiểu quản lý hành chính quan liêu do việc lạm dụng các kỷ luật hành chính,
sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan.
Thường những mệnh lệnh kiểu đó gây ra nhiều tổn thất cho doanh nghiệp, hạn
chế sức sáng tạo của người lao động. Đó cũng là nhược điểm của phương pháp
hành chính. Cán bộ quản lý và cơ quan quản lý cần phải có trách nhiệm với
mệnh lệnh mà mình đưa ra, chống việc lạm dụng quyền hành nhưng không có
trách nhiệm, cũng như chống hiện tượng trốn tránh trách nhiệm, không chịu sử
dụng những quyền hạn được phép sử dụng và phải chịu trách nhiệm.
Tóm lại, các phương pháp hành chính là hồn tồn cần thiết, khơng có
phương pháp hành chính thì khơng thể quản trị kinh doanh có hiệu quả. Điều đó
tương tự như việc quản lý một đất nước mà khơng có luật pháp thì khơng làm
sao có thể quản lý nổi. Một thực tế trong tổ chức và quản lý yếu tố quan trọng
6
nhất, năng động nhất là con người. Vì vậy trong mối quan hệ giữa cấp trên và
cấp dưới trong một tổ chức người lãnh đạo quản lý phải làm tốt cơng tác tổ chức
chính bản thân và cả tổ chức do mình lãnh đạo, quản lý. Hiểu và nắm tổ chức
không chỉ về mặt cơ cấu; bộ máy; con người, phương tiện làm việc mà phải tìm
hiểu sâu nắm chắc chức năng nhiệm vụ, đường lối, mục tiêu phương hướng hoạt
động của tổ chức. Việc xây dựng và điều hành một tổ chức phải xuất phát từ một
yêu cầu công việc thực tế và từ một tầm nhìn rộng. Nếu không sẽ dẫn tới các tổ
chức dẫm chân lên nhau, cồng kềnh, kém hiệu lực.
*Tính hành chính được thể hiện qua cơ cấu trực tuyến và tính hướng dẫn
được thực hiện qua cơ cấu chức năng:
-Cơ cấu trực tuyến (đường thẳng theo chiều dọc)
Loại hình này chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý thuộc bất
kỳ doanh nghiệp nào. Nội dung cơ bản của cơ cấu trực tuyến là một cái thang
gồm nhiều bậc, trong đó cấp bậc trên điều khiển (quyết định, ra mệnh lệnh,
trực tiếp, kiểm tra) cấp dưới; cấp dưới phục tùng cấp trên. Đó là mối quan hệ
điều khiển phục tùng mang tính bắt buộc. Với cơ cấu này, nguyên tắc điều
hành tập trung xuyên suốt với chế độ thủ trưởng được đảm bảo thực hiện; loại
trừ tình trạng mâu thuẫn, chệch choạc giữa các nhiệm vụ đượcc phân cấp.
Một cơ cấu trực tuyến hợp lý phải đáp ứng các điều kiện:
+Số cấp quản lý càng ít thì càng ít người can thiệp vào quá trình quản lý,
tạo được sự ổn định cho đối tuợng cho đối tượng được quản lý(tránh tình trạng
chậm trễ, mệnh lệnh bị sai lạc, quan liêu cách bức).
+Thông tin quản lý được vân động trực tiếp, chỉ truyền dẫn theo chiều dọc
trên-dưới và không vượt cấp.
+Gắn chặt với công nghệ, trong đó mỗi cơng đoạn được chun mơn hố;
sự phối hợp hoạt động trong cả chu trình kinh doanh chỉ được thực hiện ở cấp
cao nhất.
7
+Bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa cán bộ quản lý và người thừa hành(quá nhiều
cán bộ phụ trách thì giảm tính linh hoạt của quản lý).
+Phi tập trung hóa quyền lực ở mức độ hợp lý, chuyển giao một phần
quyền lực và trách nhiệm cho cấp dưới để phát huy tính chủ động, sáng tạo và ý
thức dám chịu trách nhiệm của cấp dưới song vẫn kiểm soát được tồn bộ tình
hình,
Cơ cấu tổ chức trực tuyến được vận dụng với trình độ khác nhau từ đơn
giản đến phức tạp:
H.1
Trên H.1 là cơ cấu trực tuyến mở rộng theo chiều dọc, trong đó phải phân
cơng cho nhiều người thực hiện các phần việc khác nhau.
8
H .3
G iá m Đ ố c D o a n h N g h iệ p
Q uản Đ ốc
Q uản Đ ốc P hân X ưởng
Q uản Đ ốc
Đ ốc C ông
Đ ốc C ông
Đ ốc C ông
T ổ T r ë n g
T æ T r ë n g
T ỉ T r ë n g
Mở rộng
hơn nữa thì chia ra nhiều cấp, trong đó mỗi cấp lại có người điều khiển và kiểm
tra các khâu trực thuộc (H.2).
Ở mỗi cấp quản lý, người đứng đầu thường không thể trực tiếp qn
xuyến mọi mặt vì vậy cần có những người phó đặc trách từng phần việc; do thủ
trưởng phân công (ổn định lâu dài) và trực tiếp chịu trách nhiệm trước thủ
trưởng (không phải là 1 cấp quản lý trung gian). Đến lượt những người phó lại
phải có một số trợ lý giúp sức. Hình 3 là một ví dụ đối với một doanh nghiệp có
quy mơ tương đối ln.
H .4
G iá m Đ ố c
P h ó G iá m Đ ố c
p h á t triể n
T rợ lý
sản x uất
sản phẩm 1
P h ó G iá m Đ ố c
sản xuất
T rợ lý
sản xuất
sản p hẩm 2
Một dẫn chứng cụ thể
9
P h ã G i¸ m Đ ố c
m a rk e tin g
T rợ lý
sản xuất
sản phẩm 3
P h ó G iá m Đ ố c
tµ i c h Ýn h
Với tinh thần tích cực năng động chủ động sáng tạo phát huy các thuận
lợi, khắc phục các khó khăn tập thể cán bộ công nhân viên công ty xây lắp vật tư
kỹ thuật Quang Trung đã phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh đề ra.
1999
Giá trị tổng sản lượng
Tổng doanh thu
2000
2001
40435
51250
76125
25200
27300
41200
Để đạt được kết quả trên công ty đã vận dụng loại hình cơ cấu tổ chức
trực tuyến. Với cơ cấu này thì giám đốc đã phát huy được tính năng động sáng
tạo và kinh nghiệm quản lý, đồng thời là người toàn quyền quyết định mọi công
việc và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơng ty.
Ngồi ra để có thời gian tập chung vào những vấn đề lớn có tính chất
chiến lược giám đốc đã giao quyền chỉ huy, phụ trách một mảng cơng việc cho
cấp phó của mình. Các cấp phó này phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ được giao .
Các chức năng quản lý khác cũng được giao cho các thủ lĩnh chức năng
(Trưởng các phòng ban phụ trách ) gắn với trách nhiệm về cơng việc của mình
trước giám đốc và cấp trên trực tiếp quản lý mình .
*Sự điều khiển hành chính có khi là tuyệt đối (phải chấp hành đầy đủ, vơ
điều kiện) song cũng có những trường hợp cấp dưới đề nghị xem xét lại trong
khi vẫn phải chấp hành cho đến khi có quyết định mới. Mặt khác hướng dẫn
cũng có thể là bắt buộc hoặc chỉ là tham khảo để vận dụng.
2/Các hình thức điều khiển và sự vận dụng trong quản lý doanh nghiệp:
Điều khiển được thực hiện qua các hình thức quyết định khác nhau,
như chỉ thị, mệnh lệnh, thông báo(bằng văn bản hay truyền miệng).
10
*Lệnh: là yêu cầu của cấp trên (hoặc người phụ trách) đối với cấp dưới
(hoặc người thừa hành), đòi hỏi họ phải thực hiện một nhiệm vụ nhất định, có
chỉ rõ thời hạn phải hoàn thành hoặc những yêu cầu đặc biệt phải đảm bảo. Chỉ
những cán bộ quản lý trực tuyến (thủ trưởng cấp trên) mới có quyền ra lệnh.
Nếu lệnh có tính bắt buộc phải thực hiện tuyệt đối thì nó phải đáp ứng các tiêu
chuẩn pháp lý để có hiệu lực cao.
*Chỉ thị: là yêu cầu đối với người dưới quyền khi xử lý những sự việc
riêng biệt. Các phó giám đốc, quản đốc, trưởng phịng...có quyền ra những chỉ
thị trong phạm vi quyền hạn được giao (theo quy chế của doanh nghiệp), không
vi phạm các mối quan hệ chính thức.
Chỉ thị có thể được người dưới quyền khiếu nại thẳng lên giám đốc doanh
nghiệp nếu thấy không hợp lý. Các chỉ thị quan trọng phải dùng văn bản. Những
người phụ trách cấp thấp(tổ trưởng,đội trưởng...) chỉ cần chỉ thị miệng song cần
rõ ràng, dứt khốt.
*Thơng báo: có tính nhẹ nhàng hơn, chủ yếu cung cấp thơng tin cho cấp
dưới về những vấn đề cần lưu ý.
Điều khiển bao hàm sự kiểm tra tình hình chấp hành các quyết định và
sau đó có thể có quyết định điều chỉnh, bổ sung.
Một thực tế trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là việc sử dụng
mệnh lệnh một cách tuỳ tiện thiếu khoa học. Đó là thói quen cấp trên thường ra
lệnh cho cấp dưới của mình bằng miệng mà ít khi sử dụng văn bản. Và khi cấp
dưới khơng hồn thành cơng việc gây hậu quả có liên quan đến trách nhiệm thì
lại đổ lỗi cho cấp dưới của mình. Hay như việc một cơng nhân đang làm việc
theo lệnh của tổ trưởng thì quản đốc phân xưởng xuống và u cầu người cơng
nhân đó thực hiện công việc khác. Làm cho người công nhân không biết làm
theo lệnh của ai. Nếu nghe lệnh của cấp trên trực tiếp mình là tổ trưởng thì lại sợ
quản đốc, cịn nếu nghe lệnh quản đốc thì lại sai ngun tắc do đó trong doanh
nghiệp cấp trên khi ban hành lệnh hay chỉ thị tốt nhất là nên dùng văn bản, hạn
11
chế dùng miệng tránh tình trạng ban hành lệnh chồng chéo, gây khó xử cho
người thi hành lệnh.
12
KẾT LUẬN
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý trong doanh nghiệp hiện nay đòi hỏi
phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đây là
vấn đề hết sức phức tạp có ý nghĩa quan trọng bởi đối tượng của nó là lao động
quản lý. Trước tình hình đó vấn đề các doanh nghiệp cần phải làm là làm thế nào
xử lý hài hoà các mối quan hệ trong tổ chức đặc biệt là mối quan hệ điều khiển
phục tùng là một yếu tố quan trọng đối với việc sống còn của một doanh
nghiệp. Cũng như thể hiện bộ mặt của một doanh nghiệp có văn hố hay khơng
vì khi cấp trên ra quyết định thì cấp dưới ở đó sẽ phải nhất nhất tuân theo và
cùng bổ sung, góp ý với các quyết định của giám đốc.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tổ chức quản lý.
2. Giáo trình quản trị kinh doanh.
3. Khoa học tổ chức và quản lý.
4. Quản lý và chỉ huy quản lý.
14
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
1
SƠ LƯỢC VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ
2
1. Khái niệm
2
2. Cơ cấu tổ chức
2
2.1. Cơ cấu chính thức
3
2.2. Cơ cấu khơng chính thức
3
QUAN HỆ ĐIỀU KHIỂN PHỤC TÙNG
4
I. Vai trò của quan hệ điều khiển - phụ tùng
4
II. Các hình thức điều khiển và sự vận dụng trong quản lý doanh
11
nghiệp
KẾT LUẬN
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
15