Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) QUYỀN của NGƯỜI bị BUỘC tội TRONG GIAI đoạn KHỞI tố, điều TRA vụ án HÌNH sự từ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÂM NGHĨA HÒA

QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021

download by :


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÂM NGHĨA HÒA

QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH BÌNH DƯƠNG

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ THỊ KIM OANH

Hà Nội, năm 2021

download by :


LỜI CẢM ƠN
Đề tài luận văn thạc sỹ “Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiển tỉnh Bình Dương” là kết quả của một quá
trình học tập, nghiên cứu và vận dụng những tri thức được học trong suốt quá trình
học tại trường Học viện Khoa học Xã Hội Kết quả này không chỉ là sự phấn đấu
của bản thân mà cịn có sự trợ giúp của q Thầy, Cơ đã hết lịng tận tụy, truyền đạt
những kiến thức quý báu trong thời gian qua.
Học viên xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Quý Thầy, Cô tại Học viện
Khoa Học Xã Hội đặc biệt là TS. Võ Thị Kim Oanh đã tận tình hướng dẫn phương
pháp nghiên cứu khoa học và nội dung đề tài.
Sở Tư pháp, Tòa án, các cán bộ quản lý trong ngành tư pháp, tịa án tại tỉnh
Bình Dương vì những lời đánh giá quý báu và sự giúp đỡ trong việc thu thập dữ liệu
cho luận văn này. Nghiên cứu này khơng thể hồn thành nếu khơng có sự giúp đỡ,
ủng hộ từ tất cả các ban ngành tỉnh Bình Dương
Đồng cám ơn gia đình và những người bạn thân vì những sự giúp đỡ to lớn và
ủng hộ nhiệt tình, động viên tạo mọi điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp
này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 03 năm 2020
Học viên cao học

Lâm Nghĩa Hòa


download by :


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI
TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................ 7
1.1Một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ............................................................ 7
1.2Quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .................................... 24
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 35
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNGVÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ......... 37
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền
của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra từ thực tiễn
tỉnh Bình Dương........................................................................................ 38
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật tố tụng hình
sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra ........ 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. xi
PHỤ LỤC ...................................................................................................... xiv

download by :



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nội dung

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

CQĐT

VKS

VKS

download by :


DANH MỤC HÌNH
Hình 2 1: Bản đồ hành chánh tỉnh Bình Dương.......................................................37

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2 1: Số lượng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên địa bàn tỉnh
Bình Dương từ năm 2014 đến năm 2018 ..................................................................39

DANH MỤC ẢNH
Ảnh 1: Trung tâm hành chính tại thành phố mới tỉnh Bình Dương ........................ xiv

Ảnh 2: Trụ sở viện Kiểm sốt Nhân dân tỉnh Bình Dương ......................................xv
Ảnh 3: Trụ sở Cơng an tỉnh Bình Dương ................................................................ xvi
Ảnh 4: Trụ sở tịa án Nhân dân tỉnh Bình Dương .................................................. xvii
Ảnh 5: Bệnh viên y học cổ truyền tỉnh Bình Dương ........................................... xviii
Ảnh 6: Nhà thờ Chánh tịa tỉnh Bình Dương .......................................................... xix
Ảnh 7: Cơng viên Phú Cường tỉnh Bình Dương .......................................................xx
Ảnh 8: Chợ Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương ........................................................... xxi

download by :


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người nói chung và quyền của người bị buộc tội trong tố tụng
hình sự nói riêng là giá trị cốt lõi được ghi nhận, bảo đảm trong các Công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên như: Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966. Bảo quyền con người của người bị buộc tội trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng là một
vấn đề ln được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Điều đó được thể hiện
trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới;
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận, bảo đảm quyền
con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng. Với mục tiêu xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó quyền con người được tôn trọng và
bảo vệ ở mức độ cao nhất. Quyền con người là một giá trị cốt lõi, trong tố tụng hình
sự quyền con người của người bị buộc tội lại là quyền dễ bị xâm phạm và tổn

thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi khi ở thế yếu trong quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự.
Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và bảo đảm thực hiện các
quyền này ở nhiều mức độ khác nhau. Khi tham gia vụ án trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, người bị buộc tội được bảo đảm các quyền con người cơ bản chung giống
như những công dân bình thường khác, bên cạnh đó người bị buộc tội cũng được
đảm bảo các quyền tố tụng phù hợp với địa vị pháp lý của họ để họ có thể bảo vệ tốt
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với người bị buộc tội là người dưới
18 tuổi pháp luật còn quy định những quyền tố tụng riêng, phù hợp với đặc điểm
nhân thân nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhìn chung các
1

download by :


quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra đã tương đối đầy đủ, hoàn thiện. Điều này đã tạo cơ
sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm quyền này trên thực tế. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu tác giả nhận thấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập trong quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội như: chưa quy định một
số quyền cho người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố điều tra, một số quyền quy
định nhưng chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện có hiệu quả trên thực tế, chưa có quy
định cụ thể để đảm bảo các quyền đặc thù của người bị buộc tội dưới 18 tuổi…
Thực tiễn khởi tố, điều tra trong những năm gần đâycho thấy, mặc dù pháp
luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ, nhưng quyền của người bị buộc
tội vẫn chưa thực sự được tôn trọng và thực hiện một cách triệt để làm giảm uy tín
của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây bất bình trong dư luận. Tỉnh Bình Dương
những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc đảm bảo quyền con
người, quyền công dân cũng được phát triển. Trong bối cảnh đó, tình hình trấn áp,

xử lý tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị xã hội được đề cao, nhiều loại tội phạm
phức tạp cũng xuất hiện. Từ bắt, tạm giữ, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự
là một quá trình dài để buộc tội, kết án đối với những chủ thể bị buộc tội khác nhau.
Việc đảm bảo quyền của những chủ thể bị buộc tội này là rất cần thiết để hoạt động
tố tụng tiến hành đúng pháp luật, khởi tố, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và
đảm bảo việc không để làm trái, làm sai pháp luật, xâm phạm đến quyền của những
người bị buộc tội. Bởi các lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài "Quyền của người
bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình
Dương" làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, trong khoa học pháp lý của nước ta, qua hoạt động nghiên cứu pháp
luật tố tụng hình sự đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan ở những góc độ và
mức độ khác nhau đối với vấn đề quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi
tố, điều tra. Vì người bị buộc tội là những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của
họ rất dễ bị xâm phạm trong giai đoạn này. Thực tiễn hiện nay, đa phần các cơng
trình nghiên cứu khoa học cũng như các bài viết của các tác giả chủ yếu viết về
2

download by :


quyền cơ bản của người bị tạm giam, tạm giữ, hay quyền cơ bản của bị can, bị cáo,
chưa tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể về quyền của người bị buộc
tội nói chung trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quyền đó
Mặc dù luật Tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) đã quy định:
“Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” nhưng trên thực
tế, mỗi địa phương lại có cách hiểu, cách giải thích khác nhau dẫn đến việc áp dụng các
quy định về quyền của người bị buộc tội nhiều khi khơng đúng, gây ra tình trạng oan sai
trong tố tụng hình sự. Liên quan đến vấn đề này, rất nhiều cơng trình có nội dung đề cập
đến vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền con người trong tố tụng

hình sự nói riêng. Cụ thể có nhiều cơng trình, bài tham luận như:
“Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” Nxb ĐHQG
TP.HCM, 2010, của TS Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên): “Quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Sách chuyên
khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, của PGS.TS. Trần Ngọc Đường; cuốn
sách “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, của TS. Trần Quang Tiệp; Luận án
tiến sỹ “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của
Nguyễn Huy Hoàng, Hà Nội, bảo vệ năm 2005; Luận án tiến sỹ “Bảo đảm quyền
con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của
Lại Văn Trình, TP Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2011; LS, PGS.TS Phạm Hồng Hải
với cuốn sách “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội”
“Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đạt; Bài nghiên cứu “Bảo đảm quyền của
người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam”. Tạp chí
Luật học số 3/2011 của PGS. TS Hồng Thị Minh Sơn…
Nhìn chung đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cơ bản về bảo đảm quyền con
người nói chung và quyền của người bị buộc tội nói riêng. Các tác giả cũng đã phân
tích làm rõ quyền con người của ngươì bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam,
một số tác gia ̉đi sâu nghiên cứu và các nguyên tăć của Bộ luật Tố tụng hình sự liên
quan đến quyền con người của người bị buộc tội. Tuy vậy, tác giả nhận thấy chưa
có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về quyền của người bị buộc tội trong giai
đoạn khởi tố, điều tra từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Dương, vì vậy đây là định
3

download by :


hướng nghiên cứu mới của luận văn này. Để thực hiện luận văn tác giả đã lựa chọn,
kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích của nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, kế thừa có chọn lọc các kết
quả nghiên cứu trước về bảo vệ quyền con người trong TTHS đặc biệt là bảo đảm
quyền của người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự theo quy định của
bộ luật TTHS. Qua đó làm sáng tỏ quy định của pháp luật cũng như những hạn chế,
bất cập, và đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường đảm bảo quyền con người của
người bị buộc tội ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong pháp luật TTHS
Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bình Dương.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả thực hiện những nhiệm vụ cụ thể
như sau:
Làm rõ khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự;
Làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành về quyền của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Đánh gia thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018
Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận
về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự; số liệu báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền về việc áp dụng quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự.


4

download by :


4.2 Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; phân
tích, làm sáng tỏ các quy của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2015 về quyền của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; đánh giá thực tiễn
áp dụng quy định của pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương; đưa ra một số giải pháp
hồn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao.
+ Không gian: tác giả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bình Dương
+ Thời gian: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là quyền của người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương
trong 5 năm (2014-2018).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Để hoàn thành Luận án và để giải quyết các yêu cầu của Luận án tác giả sử
dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải
cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002,
Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/05/2005 của Bộ chính trị.về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên các số liệu thực tiễn có liên quan của các cơ quan

trong quá trình điều tra, khởi tố, truy tố vụ án hình sự tại tỉnh Bình Dương. Mặc
khác tác giả cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp phân
tích tổng hợp, so sánh, thống kê trong q trình nghiên cứu. Ngồi ra tác giả đề tài
cũng tham khảo một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả nghiên cứu trước đây
và các văn bản pháp luật về TTHH của nước ta để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
5

download by :


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Cung cấp cho khoa học pháp lý một số các vấn đề lý luận chung về quyền của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Làm rõ những quyền cơ bản của người bị buột tội trong giai đoạn điều tra khởi
tố vụ án hình sự.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa ra
những giải pháp, kiến nghị để bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong luật TTHS Việt Nam
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra được ghi nhận trong Luật TTHS Việt Nam, để
hạn chế, khắc phục oan, sai, động thời không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Trong nội dung nghiên cứu, đề tài sẽ làm rõ những vấn đề lý luận, vướng mắc,
hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật về quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định này trên thực tế. Vì vậy, đề tài có
thể được tham khảo trong hoạt động lập pháp nhằm góp phần vào việc hồn thiện
quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật trong
thực tiễn.
Bên cạnh đó, sau khi hồn thành đề tài cũng sẽ cung cấp cho khoa học pháp lý

các nội dung lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều
tra. Đề tài sẽ cung cấp thông tin để làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên,
sinh viên và những người khác có quan tâm đến nội dung này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 02 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của người bị buộc tội trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương và giải pháp
nâng cao.

6

download by :


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Một số vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm về quyền của người bị buôc tội trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự
Quyền con người là một thuật ngữ xuất hiện từ lâu đời trong các văn kiện
quốc gia hay quốc tế. Tuy nhiên, thực chất thì chưa có một khái niệm thống nhất
nào về quyền con người. Ở góc độ quốc tế, khái niệm về quyền con người thường
được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu như sau: Quyền con người là những bảo đảm
pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người. Ở

Việt Nam, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách
quan của con người, được ghi nhận, bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế.Như vậy mặc dù khơng có khái niệm chung, nhưng cách hiểu
về quyền con người vẫn có nét tương đồng đó là quyền con người là quyền tự
nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Quyền con người là khái niệm ra đời gắn
liền với sự xuất hiện của Nhà nước và khi xã hội có sự phân chia giai cấp, khi có sự
vi phạm đến quyền con người thì lúc này quyền con người mới được đặt ra.
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học-kỹ thuật, vấn đề nhân
quyền ngày càng được quan tâm và hồn thiện hơn hết. Đó khơng cịn chỉ là vấn đề
của riêng một quốc gia nào mà là vấn đề cấp thiết của toàn nhân loại. Việt Nam
cũng là một quốc gia đã tham gia vào nhiều văn kiện, điều ước quốc tế về bảo vệ
quyền con người. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước hiện nay, bối cảnh xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế thì các quyền của con người
càng cần được tôn trọng và bảo vệ. Yêu cầu này không chỉ được đảm bảo về mặt xã
hội mà còn cả về mặt pháp lý, quyền con người phải được bảo vệ bằng luật pháp.

7

download by :


Việt Nam ln tích cực tham gia các Điều ước và hoạt động về quyền con
người của Liên Hợp Quốc. Chỉ thị 12/TW của Ban Bí Thư, ngày 12/7/1992 khẳng
định: Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh
của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó quyền con người trở thành giá trị chung
của nhân loại. Do đó chúng ta cần phải bảo vệ thành quả này trong mọi lĩnh vực,
đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Việc bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự nói chung, quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trong lĩnh vực này, quyền

con người dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và có thể gây ra những hậu quả nghiêm
trọng về vật chất, thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng và
ghi nhận các quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền con người của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Mục tiêu của quá trình tố tụng hình sự là đảm bảo cho việc phát hiện chính xác
và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội; góp phần bảo vệ cơng lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực
hiện nhiệm vụ trên, BLTTHS đã quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành
án; quy định quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tố tụng;
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải
quyết xong. Quá trình này bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau trong đó khởi tố,
điều tra vụ án hình sự là những giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự. Trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm xác định tội phạm,
8

download by :


người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như làm sáng tỏ các vấn đề có ý nghĩa đối
với việc giải quyết vụ án. Khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố
tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự sẽ làm phát sinh quan hệ pháp
luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền với người tham gia tố tụng, trong

đó có người bị buộc tội. Ở Việt Nam, thuật ngữ người bị buộc tội là thuật ngữ mới
được quy định trong BLTTHS 2015, tại điểm đ khoản 1 Điều 4 liệt kê người bị
buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để rõ hơn về khái niệm
người bị buộc tội chúng ta sẽ làm rõ các khái niệm người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Trong đó, pháp luật hiện hành không định nghĩa thế nào là người bị
bắt, tuy nhiên có thể hiểu người bị bắt là người bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh,
quyết định bắtngười theo quy định pháp luật. Theo quy định tại Điều 58 BLTTHS
năm 2015 người bị bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và
bắt trong trường hợp truy nã.
Về khái niệm người bị tạm giữ, tại khoản 1 Điều 59 BLTTHS 2015 quy
định:“Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội
tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”, pháp luật đã đưa ra định
nghĩa đối với người bị tạm giữ.
Về khái niệm bị can được quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015
như sau:“bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ
của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”, còn bị cáo được luật quy định như
sau “bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền
và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”.
Từ những quy định trên, ta nhận thấy người bị buộc tội trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can (không bao
gồm tư cách bị cáo vì tư cách bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa). Đồng
thời, theo quy định của BLTTHS năm 2015 người bị buộc tội trong quá trình tố
9

download by :



tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án nói riêng chưa phải
là người có tội vì khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật. Người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là người
bị tình nghi phạm tội, trong quá trình giải quyết vụ án đang bị các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Quyền con người của người bị buộc tội nói chung và quyền con người của
người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng là một
vấn đề ln được các quốc gia trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Hiến
pháp năm 2013 quyền con người được sắp xếp tại Chương 2. Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đứng sau Chương 1 về Chế độ chính trị.
Điều này chứng tỏ việc bảo đảm các quyền con người ngày càng được Đảng, Nhà
nước đề cao và đặc biệt quan tâm.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước ln có
những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ
bản được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ
bản của công dân được Nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ trước cơ
quan pháp luật.Hiện nay, trong BLTTHS khơng xây dựng khái niệm chính thức về
quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Tuy
nhiên, quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là
một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự, vì vậy cần làm sáng tỏ từ
góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc đảm bảo quyền, lợi ích cho người bị buộc tội
trong các giai đoạn tố tụng này.
Theo từ điển tiếng Việt khái niệm quyền như sau: quyền là điều mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi, đây là khái
niệm chung về quyền. Quyền là những điều không chỉ pháp luật mà cịn cả cộng
đồng xã hội cơng nhận cho được hưởng, được làm và người có quyền được địi hỏi
các chủ thể khác có trách nhiệm đáp ứng, đảm bảo cho họ được hưởng, được làm
các quyền đó. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, tùy thuộc vào địa vị tố tụng
và giai đoạn tố tụng khác nhau mà người bị buộc tội được pháp luật quy định cho

họ được hưởng, được làm những điều nhất định. Cơ quan có thẩm quyền có trách
10

download by :


nhiệm phải bảo đảm cho người bị buộc tội được hưởng, được làm những điều đó.
Nếu cơ quan có thẩm quyền không đảm bảo hoặc đảm bảo không đầy đủ thì người
bị buộc tội được địi hỏi cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho họ.
Theo từ điển Luật học khái niệm quyền được hiểu như sau: quyền là những
việc mà một người được làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế. Theo khái niệm này
thì quyền cũng được hiểu là những việc mà một chủ thể nào đó được làm mà khơng
bị ai ngăn chặn và hạn chế. Khái niệm này cũng được xây dựng dựa trên một số
thuộc tính cơ bản, đặc trưng nhất của quyền. Tuy vậy, đây là khái niệm chung về
quyền nên những đặc điểm riêng về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự chưa được sử dụng trong khái niệm này.
Như vậy, khái niệm về quyền theo các quan điểm trên được tiếp cận ở góc độ
chung. Theo logic học, để xây dựng khái niệm về một đối tượng cụ thể cần phải dựa
trên những đặc điểm đặc trưng về đối tượng đó. Vì vậy, dựa trên những đặc điểm về
quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự(chủ thể
của quyền, giai đoạn tố tụng, cơ sở pháp lý, nội dung, chủ thể có trách nhiệm đảm
bảo) có thể rút ra khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự như sau:
“Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
là những việc pháp luật tố tụng hình sự quy định cho người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can được hưởng, được làm, được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đảm bảo thực hiện trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự”.
1.1.2. Đặc điểm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự
Trên cơ sở khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố,

điều tra vụ án hình sự đã trình bày ở trên, có thể rút ra các đặc điểm đặc trưng về
quyền của người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng này như sau:
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
là một bộ phận cấu thành địa vị pháp lý bên cạnh nghĩa vụ của họ
Theo lý luận chung về pháp luật, bất kỳ một quan hệ pháp luật nào cũng được
tạo thành bởi ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật. Quan
11

download by :


hệ pháp luật tố tụng hình sự cũng khơng phải ngoại lệ. Trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự người bị buộc tội là một bên chủ thể tham gia vào việc giải quyết
vụ án. Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án họ mong muốn đặt được những
lợi ích nhất định và để họ đạt được những lợi ích hợp pháp đó thì pháp luật tố tụng
hình sự phải quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, đó là nội dung của
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
tố tụng hình sự. Trong một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự các chủ thể của quan
hệ sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền của chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của
chủ thể kia và ngược lại. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được pháp luật quy định các nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm còn người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can) được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý. Khi tham gia tố tụng trong
giai đoạn khởi tố, điều tra người bị buộc tội phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật và các chủ thể có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng
chế tố tụng buộc họ phải chấp hành nếu không tự giác thực hiện. Bên cạnh nghĩa vụ
pháp lý, pháp luật tố tụng hình sự phải quy định cho người bị buộc tội các quyền
phù hợp với địa vị tố tụng của họ. Việc quy định các quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án để họ có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của mình, đồng thời góp phần xác định sự thật của vụ án. Pháp luật tố tụng
hình sự quy định cho các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự những
quyền, nghĩa vụ nhất định và các quyền, nghĩa vụ này phù hợp với địa vị tố tụng
của mỗi loại chủ thể.
- Nội dung của quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự. Nội dung của quyền là những việc, những điều, những hành vi tố
tụng mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng, được bảo đảm thực hiện
khi tham gia tố tụng với các tư cách của người bị buộc tội. Đồng thời người bị buộc
tội được địi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phảo thỏa mãn, đáp ứng và đảm bảo đầy
đủ các quyền này cho họ.

12

download by :


- Quyền của người bị buộc tộitrong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
được ghi nhận và bảo đảm bởi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Pháp luật là yếu tố có vị trí quan trọng nhất trong một nhà nước pháp quyền.
Quyền con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và quyền
của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng là một
giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc
trưng tự nhiên vốn có cần được tơn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá
nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bởi pháp luật
của các quốc gia thành viên, cũng như bởi cộng đồng quốc tế. Bảo vệ quyền của
người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự bằng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Trong giai đoạn
hiện nay việc ghi nhận và đảm bảo các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo
quyền con người của họ. Ở bình diện chung, pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và

đảm bảo quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự
ở nhiều mức độ khác nhau. Ở mức độ chung nhất quyền của người bị buộc tội trong
giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự được ghi nhận và đảm bảo thông qua hệ
thống các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự (nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa, nguyên tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm…). Ở phương diện cụ thể, BLTTHS năm 2015 xây dung các điều luật quy định
cụ thể về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình
sự. Việc pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và đảm bảo các quyền của người bị
buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự sẽ tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc đảm bảo quyền của họ trong thực tiễn tố tụng, góp phần củng cố niềm
tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp chế, tính cơng khai, minh bạch của
pháp luật, cũng như phản ánh bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc
tôn trọng và đảm bảo quyền con người của quyền của người bị buộc tội trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.

13

download by :


- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có trách nhiệm phải tơn trọng và đảm bảo các
quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án, pháp luật tố tụng hình sự cũng ghi nhận
trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tơn trọng và
đảm bảo các quyền của người bị buộc tội. Các hoạt động tố tụng hình sự mang tính
quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các chủ thể
mang quyền lực nhà nước có trách nhiệm phải thơng báo, giải thích và đảm bảo cho
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng hoặc thực hiện đầy đủ các quyền

mà pháp luật đã ghi nhận cho họ. Trong quá trình tố tụng, các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tơn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết
của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ những biện pháp ấy
nếu xét thấy vi phạm hoặc khơng cịn cần thiết. Trường hợp người bị buộc tội cho
rằng cơ quan, người có thẩm quyền chưa đảm bảo các quyền của họ trong giai đoạn
khời tố, điều tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật thì họ có quyền yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo hoặc thực hiện quyền khiếu nại.
Người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự trước hết họ
vẫn là một con người và được xác định là chưa có tội, vì vậy khi tham gia tố tụng
họ phải được pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền con người tự nhiên vốn có
như quyền đảm bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm… đây là quyền con
người mà tất cả những người tham gia tố tụng đều được pháp luật ghi nhận và đảm
bảo thực hiện. Việc ghi nhận đảm bảo các quyền con người trong tố tụng hình sự nói
chung và quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự
nói riêng trong pháp luật tố tụng hình sự phải trên cơ sở chuẩn mực pháp lý quốc tế về
bảo vệ quyền con người, trên cơ sở tinh thần tiến bộ của Hiến pháp năm 2013.

14

download by :


1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định về quyền của người bị buộc tội trong TTHS
- Ý nghĩa về mặt lý luận
Những quy định trong bộ luật TTHS về người bị buộc tội là những quy
xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, chính vì vậy, việc quy định quyền và
nghĩa vụ của người bị buộc tội có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận bởi nó sẽ làm
cơ sở cho việc nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ pháp lý của những người này.
Mặc khác, căn cứ vào những đánh giá, nhìn nhận đó, các nhà làm luật có thể tìm ra

các biện pháp để hồn thiện pháp luật, áp dụng pháp luật, đảm bảo tính ứng dụng
trong thực tiễn của pháp luật, để từ đó có thể đánh giá, nhìn nhận những điểm tích
cực, những hạn chế của các quy định pháp luật trong BLTTHS
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong BLTTHS có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng bởi trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay. Việc đảm bảo quyền và nghĩa
vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế còn là việc đảm bảo
cam kết về thực thi quyền con người theo các Điều ước Quốc tế hiện nay
Bên cạnh đó, việc xác lập quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội còn tránh
sự xâm hại từ phía các cơ quan tố tụng, góp phần định hướng và chỉ đạo cho những
người thực thi pháp luật, tránh những sai sót, vi phạm quyền con người, đảm bảo sự
khách quan, thận trọng trong việc nhận thức vụ án hình sự một cách khoa học,
khơng làm oan người vô tội, không làm bỏ lọt tội phạm điều này khơng chỉ ảnh
hưởng đến uy tín của Nhà nước mà cịn gây ra tâm lý khơng tin tưởng vào pháp luật
của người dân.
Mặc khác, việc quy định quyền của người bị buộc tội cịn có ý nghĩa trong
ngăn ngừa, phịng chóng tội phạm. Điều này ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong tố
tụng hình sự, bởi vì người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy chưa bị coi là
có tội nhưng họ có thể là người đã thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có những
biện pháp ngăn chặn thì rất có thể hậu quả tiêu cực cho xã hội. Việc ngăn ngừa và
phòng chóng tội phạm cịn có ý nghĩa về một Nhà nước pháp quyền, nơi pháp luật
luôn tồn tại và công minh.

15

download by :


- Ý nghĩa chính trị xã hội
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa

trong việc bảo đảm quyền con người. Thể hiện tính hội nhập cơng ước quốc tế về
quyền con người. Quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nơi mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất, việc
quy định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội có ý nghĩa vơ cùng quan trong
bởi quy định quyền của người bị buộc tội cũng chính là quy định nghĩa vụ, trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tạo ra sự bình
đẳng trong quá trình tố tụng.
- Ý nghĩa pháp lý
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là cơ sở
cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật; đảm bảo hoạt động tố tụng nhanh chóng,
khách quan. đúng sự thật vụ án. Đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Việc quy định đầy đủ, chặt chẽ các quyền và
nghĩa vụ của người bị buộc tội sẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc lạm dụng các biện
pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với người bị buộc tội.
Bên cạnh đó, việc pháp luật tố tụng hình sự quy định quyền cho người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự góp phần xác định sự thật của vụ
án.Xác định sự thật của vụ án hình sự là mục tiêu hướng tới của quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp theo
quy định của BLTTHS để xác định sự thật của vụ án. Sau khi đã xác định được sự
thật của vụ án thì sẽ ra các quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án. Để xác định sự
thật của vụ án hình sự CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật,
trong số đó, có những hoạt động tố tụng nhằm thu thập chứng cứ có liên quan trực
tiếp đến người bị buộc tội. Trong quá trình cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
các tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập chứng cứ để xác định sự thật
của vụ án người bị buộc tội có thể thực hiện các quyền mà pháp luật quy định nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời việc thực hiện các quyền này
16


download by :


sẽ góp phần xác định sự thật của vụ án, hạn chế oan sai trong giai đoạn khởi tố, điều
tra hình sự. Chẳng hạn như quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, quyền đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, quyền yêu cầu, quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài
liệu, đồ vật và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá, quyền đề nghị
giám định, định giá tài sản, tự bào chữa, nhờ người bào chữa, quyền khiếu nại…
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nếu cơ quan, người có thẩm quyền
tơn trọng và đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp
luật tố tụng hình sựđã quy định sẽ góp phần quan trọng trọng việc làm sáng tỏ sự
thật của vụ án, hạn chế những sai lầm, vi phạm trong quá trình tố tụng.
Như vậy, việc pháp luật tố tụng hình sự quy định các quyền của người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc
góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, đồng thời việc quy định quyền
người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng này tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho họ
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng.
1.1.4. Cơ sở của việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự
được được quy định trên cơ sở Công ước quốc tế về đảm bảo quyền con người nói
chung và quyền con người của người bị buộc tội nói riêng.
Việt Nam là một quốc gia dân chủ, ln nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và nêu cao vấn đề nhân quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chỉ rõ: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu
tranh của lồi người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ
những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng
chỉ đạo “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các

dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”. Quyền con người
là một quyền thiêng liêng và được thừa nhận từ lâu đời, tuy nhiên, ở mỗi quốc gia
17

download by :


khác nhau, với nền kinh tế, văn hóa, xã hội, tơn giáo và lịch sử đặc thù sẽ có những
quy định cụ thể khác nhau, nhưng vẫn phải đảm bảo được những giá trị phổ biến
chung của nền văn minh nhân loại. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
chính là bảo đảm quyền sống, quyền được tự do, quyền tố tụng mà pháp luật quy
định, đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Chúng ta có
thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực
tố tụng hình sự như: Tun ngơn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Cơng ước chống tra tấn, đối xử vô nhân
đạo và hạ nhục con người năm 1985. Theo Điều 10 và 11 Tuyên ngôn nhân quyền
thế giới năm 1948 và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966, quyền con người trong tố tụng hình sự bao gồm: Quyền bình đẳng trước
pháp luật; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền
tự do cá nhân khác; Quyền được suy đốn vơ tội; Quyền bào chữa; Quyền được xét
xử nhanh chóng, kịp thời; quyền khiếu nại;…
Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân được
tôn trọng và bảo vệ cả ở phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền con
người là một giá trị thiêng liêng bất khả xâm phạm, quyền con người tồn tại trong
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, quyền của người bị buộc tội là một
vấn đề nhạy cảm, dễ bị xâm phạm và để lại hậu quả nghiêm trọng nhất. Vì các
quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền có thể tác động

trực tiếp đến quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của con người, của công dân.
Việt Nam là thành viên của các Cơng ước nói trên, với nghĩa vụ của quốc gia
trong việc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế, Việt Nam có trách nhiệm nội luật
hóa tinh thần của Công ước quốc tế vào trong hệ thống pháp luật của quốc gia để
triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc
tế nêu trên, Các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội
trong giai đoạn khởi tố, điều tra ở Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu và ngày
càng hoàn thiện. Việc quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
18

download by :


khởi tố, điều tra phải đảm bảo sự phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế, đồng thời
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa trên cả hai phương diện là xây
dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự
được được quy định trên cơ sở quy định tinh thần của Hiến pháp năm 2015 về đảm
bảo quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 đã nội luật hóa các quyền con người của người bị buộc
tội trong các Công ước, đồng thời đảm bảo thực hiện các quyền này trên thực tế.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định các nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc bảo vệ quyền
cơ bản của con người, của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được suy đốn vơ tội, quyền bào chữa, quyền
được xét xử kịp thời, công bằng, công khai, quyền khiếu nại… Các quyền này được
đảm bảo trong tất cả các giai đoạn của q trình giải quyết vụ, trong đó có giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Mọi hoạt động tố tụng, hành vi và quyết định tố tụng
của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án phải hướng đến mục
đích tơn trọng và đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội. Vì vậy, việc quy
định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tả vụ án hình sự

trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo
quyền con người, quyền cơng dân nói chung và quyền của người bị buộc tội nói
riêng, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự
được được quy định trên cơ sở đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng, phù
hợp với tư duy lập pháp, mơ hình tố tụng và các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội ở Việt Nam
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự phải trên cơ sở sự tương thích với các điều kiện nội tại của Việt Nam.
Pháp luật là một yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng vì vậy phải được xây dựng
dựa trên những điều kiện đặc thù của Việt Nam, có nhu vậy mới đảm bảo hiệu quả
của các hoạt động tố tụng, đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện các quyền của
người bị buộc tội. Đảng ta chủ trương khơng chuyển đổi mơ hình tố tụng mà chỉ đặt
19

download by :


×