Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.53 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN CHUNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Chung



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CQTHTT

:

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

:


Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên

LS

:

Luật sư

QCN

:

Quyền con người

THTT

:

Tiến hành tố tụng

TTHS

:


Tố tụng hình sự

TTCC

:

Thu thập chứng cứ

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

VAHS

:

Vụ án hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:


Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THỂ
HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở
GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự ................................................................................. 7
1.2. Sự thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố
điều tra vụ án hình sự .................................................................................................... 14
1.3. Quy định của pháp luật hình sự thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền
con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự.................................................... 15
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ ĐIỀU TRAVỤ ÁN
HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................................... 45
2.1. Những kết quả đạt được ......................................................................................... 45
2.2. Những hạn chế, bất cập .......................................................................................... 48
2.3. Nguyên nhân .......................................................................................................... 50
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI................................... 61

3.1. Những yêu cầu của Đảng và Nhà nước bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp ......................................................................... 61
3.2. Tăng cường triển khai các biện pháp thi hành tốt Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 và tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao vai trò của luật
sư trong bảo vệ quyền con người .................................................................................. 63
3.3. Giải pháp xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng .... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 73


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [15]. Quyền con
người được bảo đảm bởi pháp lý, nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động làm tổn hại đến nhân phẩm, sự tự do cơ bản của con người và những
gì mà con người được phép hưởng thụ. Quyền con người là quyền tự nhiên vốn có của
con người, được Nhà nước công nhận và bảo vệ bằng pháp luật, bằng các thỏa thuận
pháp lý quốc tế.
Quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật, bởi lẽ, quyền con
người cho dù có là bẩm sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các Nhà nước
quy định (nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật, QCN
không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, thông qua
đó, nghĩa vụ tôn trọng, thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy
tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống
nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội.
Các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đã và đang ngày
càng ghi nhận nhiều hơn nữa về QCN trong hệ thống pháp luật và có cơ chế bảo vệ,
thúc đẩy phát triển quyền con người.
Trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp

năm 2013, QCN, quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm.Cụ thể hóa Hiến pháp, các QCN, quyền công dân được ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm
trong các văn bản pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, trong thực tiễn tố tụng hình sự thì quyền con người vẫn chưa được bảo vệ một
cách có hiệu quả.
Trong lĩnh vực tố tụng đặc biệt là tố tụng hình sự, vai trò của luật sư trong việc
bảo vệ quyền con người càng được thể hiện rõ nét hơn. Sự tham gia của luật sư trong
tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà
còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy

1


tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều luật sư không cập nhật được kiến thức pháp luật, kỹ
năng hành nghề. Trong khi đó xã hội luôn vận động phát triển, nhiều quan hệ mới xuất
hiện và pháp luật cũng luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hà Nội là Thủ đô của nước ta, với địa bàn rộng và số lượng VAHS được đưa ra
xét xử sơ thẩm lớn, phúc thẩm cũng nhiều, vai trò của luật sư trên địa bàn thành phố Hà
Nội đã đạt được nhiều thành tích nổi bật. Tuy nhiên, luật sư vẫn còn gặp một số khó
khăn trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và chưa phát huy được
một cách tốt nhất vai trò của mình ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Xuất phát từ nguyên lý: “Ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội”, nhằm góp phần
bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản
của BLTTHS, theo đó, Nhà nước đã giao phó sứ mệnh bảo vệ QCN, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự cho Luật sư, người được ví như là các “
Hiệp sỹ” khi đứng ra bênh vực cho những kẻ yếu thế, bị ức hiếp.
Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của luật sư trong bảo
vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố
Hà Nội” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài: “ Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố
điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là một trong những đề tài khoa
học mang tính thời sự, cấp thiết và tính nhân văn sâu sắc. Quyền con người là một
phạm trù đa diện, đòi hỏi cách tiếp cận và nghiên cứu đa ngành, liên ngành, song tiếp
cận và nghiên cứu luật học là một hướng chính. Đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về QCN, về vai trò của luật sư trong việc bảo vệ QCN với những góc độ
và mức độ khác nhau, trong đó có thể kể đến một số công trình sau:
- Lại văn Trình (2011), Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật
tp. Hồ Chí Minh.Luận án đã nêu và phân tích những điểm chung và những điểm đặc
thù về đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai
đoạn khác nhau của tố tụng hình sự; phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình

2


sự có liên quan đến việc đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự và thực tiễn thực hiện đồng thời đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tăng cường các biện pháp đảm bảo
quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau
của tố tụng hình sự [41].
- Hồ Sỹ Sơn (2011), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một
số đề xuất về hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Luật học số 1. Bài viết đã phân tích các
quan điểm khác nhau về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự; phân tích thực
trạng bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và đưa ra một
số giải pháp hoàn thiện một số quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự [37].
- PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn (2011), Bảo đảm quyền của người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học

số 3, Hà Nội. Theo tác giả, bảo vệ quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách của đảng
và pháp luật của nhà nước và đặc biệt là trong bối cảnh cải cách tư pháp và trong xu thế
hội nhập quốc tế hiện nay, vì quyền con người luôn gắn liền với quyền chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội. Bài viết đã phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị
bắt, người bị tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo vệ quyền của người bị bắt để tạm
giam và người bị tạm giam [38].
Ngoài ra còn có một số công trình khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu
như: Phạm Thị Hồng Vân (2014) Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ; Nguyễn Quang Hiền
(2011), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học; Giáo trình giảng dạy sau đại học “Quyền con người”, nhà xuất
bản khoa học xã hội năm 2011, của Học viện Khoa học xã hội do GS.TS. Võ Khánh
Vinh (Chủ biên); Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản (đồng chủ nhiệm),
bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong

3


giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Đại học quốc gia Hà Nội, 2005...
Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến QCN, quyền công dân, bảo vệ
QCN trong tố tụng hình sự, vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng, trong bảo vệ
QCN. Tuy nhiên, mỗi công trình có góc độ trọng tâm nghiên cứu riêng và ở những
thời điểm khác nhau nên về mặt nhận thức cả về phương diện lý luận và thực tiễn so
với bây giờ là có sự khác nhau. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là nguồn tài
liệu tham khảo giá trị mà luận văn của tác giả có thể kế thừa và tiếp tục nghiên cứu
trong quá trình hoàn thiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về vai trò của luật sưtrong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội, luận văn đưa ra các giải pháp
bảo đảm thực hiện tốt hơn nữa vai trò bảo vệ quyền con người của luật sư trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong
bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Thứ hai, phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của
luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
Thứ ba, làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai
trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
tại thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của nó.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nâng cao và phát huy vai trò bảo vệ quyền con
người của luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu của luận văn này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, pháp lý và thực trạng vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật
tố tụng hình sựvề vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự. Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con

người của người bị buộc tội và quyền con người của Người bị hại, Nguyên đơn dân sự,
Bị đơn dân sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự (gọi tắt là
đương sự) , trong đó, nhấn mạnh đến vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự của người bị bắt, Người bị tạm giữ, bị can vì, đây là
những đối tượng mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm hại nhất. Luận văn
không nghiên cứu vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người của những người
tiến hành cũng như người tham gia tố tụng khác như bị cáo, người làm chứng v.v.
Luận văn nghiên cứu vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2012 đến năm
2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền
con người, quyền công dân
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng đó là: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử và khảo sát thực tiễn...để giải quyết những
vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung lý luận về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con
người ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;

5


Kết quả nghiên cứu khoa học của luận văn góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu
phục vụ công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, công tác giảng dạy tại các trường Đại
học, Học viện và các cơ sở đào tạo khác về luật học, về nghiệp vụ nghề luật sư.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu khoa học của luận văn góp phần làm thay đổi, nâng
cao ý thức pháp luật của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự về vai trò của luật sư trong
bảo vệ QCN ở các giai đoạn của tố tụng hình sự nói chung và đặc biệt là ở giai đoạn

khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng; nâng cao kỹ năng của luật sư trong việc bảo
vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng ở các giai đoạn tố tụng khác nhau
của vụ án hình sự nói chung và ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định pháp luật thể hiện vai trò của luật
sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người
ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng caovà phát huyvai trò bảo vệ quyền con người của
luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THỂ HIỆN VAI
TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở GIAI ĐOẠN
KHỞI TỐ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền
con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
1.1.1.Khái niệm vai trò của luật sư
Theo Từ điển tiếng việt thì, Vai trò là tác dụng, chức năng trong sự hoạt
động, sự phát triển của cái gì đó. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người
đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực
trên cơ sở vị thế của người đó, đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã
hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ[56]. Vai trò thường dùng để nói
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của một sự vật hiện tương trong bối cảnh và mối
quan hệ nào đó. Vai trò của Luật sư được xác lập một cách khách quan bởi vị thế

của Luật sư trong mối quan hệ với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự
do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức,
phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [30].
Theo quy định của pháp luật thì luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người
bào chữa cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ
quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự (gọi tắt là đương sự trong vụ án).
Ở Việt Nam, Luật sư phải là Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có Bằng cử nhân luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe
bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư [30, Đ.10]. Một trong những
nguyên tắc hành nghề luật sư đó là sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt

7


nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng được quy định tại Điều 5 của Luật luật
sư hiện hành.
Như vậy, bằng kiến thức pháp luật được đào tạo, bằng kỹ năng và kinh
nghiệm nghề nghiệp, Luật sư được pháp luật trao cho các quyền năng để thực
hiện vai trò của mình nhằm góp phần bảo vệ QCN, bảo vệ những chủ thể đã và
đang ở vào vị trí thế yếu, bị tình nghi, bị khởi tố, điều tra về một loại tội phạm
nào đó, phải đối diện với những biện pháp ngăn chặn như Tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà họ khó có
điều kiện và đầy đủ về hiểu biết, kỹ năng để tự bảo vệ mình.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự
do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức,

phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [30].
Như vậy, Luật sư là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn và được cơ quan
quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận, hành nghề theo quy định của pháp luật.
Từ sự phân tích trên có hiểu: Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự là
ảnh hưởng, tác động của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người bị
buộc tội và các đương sự khác trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ
các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [18].
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về QCN do một số cơ quan nghiên
cứu và chuyên gia từng nêu ra. Các định nghĩa này cũng không hoàn toàn giống
nhau, tuy nhiên, xét một cách chung nhất thì QCN thường được hiểu là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, xét ở góc độ nào đi chăng nữa thì QCN cũng được xác định là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.

8


Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ, là
giá trị xã hội biểu hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân con người, đặt ra nghĩa vụ
đối với tất cả mọi người phải tôn trọng và nghĩa vụ của mỗi quốc gia là phải có
biện pháp bảo vệ và cơ chế thúc đẩy, bảo vệ quyền con người. Quyền con người
được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật quốc gia và quốc tế; theo nhận thức
chung của cộng đồng quốc tế thì QCN nó vừa có tính phổ biến lại vừa có tính
không thể tước bỏ, tính không thể phân chia, tính liên hệ và tính phụ thuộc lẫn
nhau; nó không thể bị tước đoạt một cách tùy tiện, trừ trường hợp được pháp luật

quy định và lý do tước đoạt là hành vi vi phạm pháp luật của người bị tước đoạt.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, song QCN có mối liên hệ gần gũi hơn
cả với pháp luật; QCN gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù
pháp lý, việc thực hiện các QCN vẫn cần phải có pháp luật, tức là nó trở thành
quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc, mang tính quyền lực Nhà nước bảo đảm
cho nó được thực thi trên thực tế và áp dụng thống nhất cho tất cả mọi chủ thể
trong xã hội.Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội
của các quyền tự nhiên, là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con
người hay nói cách khác, pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp Nhà nước bảo
đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã
hội, là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính
họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý.
Việc bảo vệ và thúc đẩy QCN trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà
nước, song cũng là quyền và trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân.Việc xác định
các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân có liên quan là rất
quan trọng để bảo đảm hiện thực hóa các quyền con người trên thực tế.Để đạt
được hiệu quả cao trong việc bảo vệ và thúc đẩy các QCN phải thiết lập được các
cơ chế cho việc thực thi các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau
về quyền con người như:
- Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị cao quý nhất
được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, là đặc trưng vốn có cần được

9


tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kì cá nhân con người nào sinh ra trên
trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên
liên hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [6, tr.11].
- Quyền con người gắn chặt với hoạt động xã hội, các mối quan hệ xã hội

và các phương thức sống của cá nhân. Quyền con người là biểu hiện tiêu chí tác
động qua lại, củng cố các mối quan hệ, phối hợp hành động và hoạt động giữa
con người và con người...Những quyền như quyền được sống, quyền được tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được tự do ngôn
luận...phải được thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện [51, tr.13].
- Quyền con người là quyền gắn liền với hoạt động xã hội của mỗi cá nhân
nó có từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, là quyền bất khả xâm phạm đối với mỗi
cá nhân con người là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những nhu cầu cuộc
sống cơ bản cần được đáp ứng của con người [20, tr.8].
- Quyền con người là năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với
tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [10].Quyền con người là một tổng thể
những quyền gắn bó với nhau trong mối quan hệ biện chứng, đó là quyền cá nhân
và quyền của cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế, văn hóa xã hội,
quyền cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội.
Tóm lại: Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Khi nghiên cứu các văn kiện quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình
sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong
việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con
người năm 1985…, có thể thấy quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là
sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây
được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con
người trong tố tụng hình sự bao gồm những quyền sau “Điều 10, 11 UHDR và Điều
14, 15 ICCPR”: Quyền được xét xử công bẳng bởi một thủ tục tố tụng hình sự;

10



Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá
nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự
phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và
biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Người chưa thành niên phải
được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử
phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về
cùng một hành vi…; Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét
xử…[61]. Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội – đối tượng quan
trọng nhất cần bảo vệ trong trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình
tố tụng hình sự không chỉ có những người bị buộc tội mà còn có nhiều người khác
mà lâu nay khi nghiên cứu về quyền con người trong tố tụng hình sự, chúng ta hay
ít chú ý đó là quyền của nạn nhân của tội phạm (người bị hại), quyền của người làm
chứng và những người liên quan khác, quyền con người của những người tiến hành
tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Những người này họ cũng có
quyền con người của họ như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, quyền được bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng con
đường tố tụng hình sự.
Việt Nam chúng ta đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện
lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về quyền con người, điều đó
được thể hiện trong Luật Tố tụng hình sự của nước ta ở mức độ khác nhau. Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành có các nguyên tắc như: Thừa nhận Tòa án là cơ quan duy
nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công
dân; Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…[61].
Quyền con người trong tố tụng hình sự là những quyền chỉ dànhcho con người khi
họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi
nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Bảo vệ là chống lại sự xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn.“Bảo vệ quyền
con người” khác với “Bảo đảm quyền con người”. Bảo đảm quyền con người là


11


làm cho các quyền đó được thực hiện theo quy định của pháp luật. Còn bảo vệ
quyền con người giữ cho các quyền này không bị xâm phạm.
Như vậy: Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là giữ cho các quyền của
con người khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự không bị xâm phạm, nếu
đã bị xâm phạm thì yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khôi
phục lại, khắc phục, bồi thường oan, sai.
1.1.3. Khái niệm vai trò của Luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
Vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự là chức năng hoạt động nghề nghiệp của luật sư tham gia tố tụng trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trên cơ sở đơn mời luật sư của khách
hàng hoặc trên cơ sở phân công của Đoàn luật sư do có yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng đối với trường hợp được chỉ định luật sưđể bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho Người bị tạm giữ, bị can; Người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, góp
phần trong việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan hơn, toàn diện hơn, bảo
đảm việc giải quyết vụ án hình sự được đúng pháp luật, đúng người, đúng tội và
đặc biệt là góp phần hạn chế, tránh làm oan, sai đối với người vô tội.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ
quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự bắt đầu từ thời điểm khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Việc quy định thời hạn để cơ quan điều tra tiến hành xác minh, kiểm tra
nguồn tin về tội phạm để trên cơ sở đó xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm thì mới ra Quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa
nhằm loại trừ hay ít ra là hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc cho

tiến hành điều tra ngay thì sẽ dẫn đến việc xâm phạm đến QCN, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.

12


Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Cơ quan
điều tra áp dụng các biện pháp điều tra và các biện pháp ngăn chặn cần thiết để
phát hiện, thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội một cách khách quan, toàn diện và chính xác, đảm bảo cho việc
xử lý vụ án được đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Khi xác định có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra phải làm rõ ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; xác định lỗi, động cơ, mục đích phạm tội; điều tra thu
thập các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết gỡ tội của bị can; trong vụ án có đồng phạm
thì điều tra xác định ai là người tổ chức, chủ mưu, ai là người thực hành, ai là
người giúp sức, tức là xác định vai trò, vị trí, tính chất, mức độ của từng bị can
trong vụ án đó.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
Trong giai đoạn khởi tố và điều tra, người bị buộc tội bao gồm người bị
bắt, người bị tạm giữ và bị can. Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Với tư cách này, bị cáo chỉ tham gia trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự.
Từ sự phân tích trên, trong phạm vi của luận văn này, có thể đưa ra khái
niệm vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự như sau:
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ
án hình sự làảnh hưởng, tác động của luật sư với tư cách là người bào chữa hoặc
người bảo vệ quyền lợi của đương sự để giữ cho các quyền con người của người

bị buộc tội (người bị bắt, bị can) và các đương sự khác (bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) khi tham
gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự không bị xâm phạm.
Như vậy nội hàm thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN ở giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự là: Cơ sở pháp lý, địa vị pháp lý của luật sư được
quy định trong BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của luật sư; Thực tiễn thực hiện

13


quyền và nghĩa vụ và nghĩa vụ của luật sư; Đánh giá chung, nhìn nhận chung của
xã hội về vai trò của luật sư trong các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng.
1.2. Sự thể hiện vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai
đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTHS không
chỉ là yêu cầu tất yếu có tính quy luật của sự phát triển xã hội mà còn là nhu cầu
cấp thiết của công dân và là điều kiện cần thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam. Trong tố tụng hình sự, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền
con người ở giai đoạn khởi tố điều tra được thể hiện dưới hai hình thức. Cụ thể là:
- Bảo vệ quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ và bị can;
- Bảo vệ quyền con người của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Khi phải đối mặt với uy lực của cơ quan công quyền, không phải ai cũng có đủ
hiểu biết pháp luật, và nhất là những người đang ở tình trạng yếu thế do bị buộc tội,
có đủ can đảm để tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Sự hiện diện của Luật sư
trong tất cả các giai đoạn của TTHS là chỗ dựa tin cậy của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Sự chứng kiến của Luật sư trong khi hỏi cung, khi đối chất, khi xét xử đảm
bảo chắc chắn rằng quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo sẽ
được bảo đảm.
Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và

phản biện. Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở
lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong TTHS. Điều 58Bộ luật TTHS hiện hành quy định:
“Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm
sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2020 khẳng định: Luật
sư có trách nhiệm trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong khi
triển khai hoạt động nghề nghiệp của họ. Với chức năng của mình, Luật sư đã tạo thế

14


ổn định, công bằng xã hội. Khi tham gia hoạt động trong TTHS với vai trò của mình,
Luật sư đã góp phần tích cực để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, một vấn đề
quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền.
So với sự giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp thì vai trò giám sát của
Luật sư có ý nghĩa hơn. Bởi vì Luật sư là người tiến hành hoạt động nghề nghiệp một
cách độc lập, chỉ ràng buộc trách nhiệm với thân chủ. Trong quá trình THTT, các
hình thức theo dõi, kiểm tra, đánh giá các tình tiết vụ án, cách thức THTT của các cơ
quan tố tụng, Luật sư phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm
nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng, hạn chế sự vi phạm QCN từ phía các cơ quan
tố tụng.
Luật sư thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người của người bị bắt, người bị tạm giữ
và bị can trên cơ sở các quy định của BLTTHS về nguyên tắc cơ bản của TTHS;
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa;
Luật sư thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người của người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trên cơ
sở các quy định của BLTTHS về nguyên tắc cơ bản của TTHS; quyền và nghĩa vụ

của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.3. Quy định của pháp luật hình sự thể hiện vai trò của luật sư trong
bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
1.3.1. Quy định về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và quyền của
người bị bắt, người bị tạm giữ và bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Theo quy định của hiến pháp, việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.Tổ
chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

15


Cụ thể hóa các quy định trên của Hiến pháp, việc bảo đảm quyền bào
chữa, bảo vệ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân đã được BLTTHS năm
2003 quy định ngay từ chương 2 về những nguyên tắc cơ bản, theo đó: “ Người
bị tạm giữ, bị can,… có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ,
bị can,… thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.”Tại
chương 4 của BLTTHS năm 2003 đã quy định chi tiết, cụ thể nguyên tắc cơ bản
của chương 2, theo đó các quyền của Người bị tạm giữ được quy định tại Khoản
2- Điều 48, trong đó có quyền: “ d, Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”;
Các quyền của Bị can được quy định tại Khoản 2- Điều 49, trong đó có quyền: “
e, Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
Như vậy, theo các quy định của pháp luật nói trên cho thấy, quyền “Tự bào
chữa” của Người bị tạm giữ, Bị can trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự

là quyền tự thân, vốn có của họ. Đây là quy định thể hiện QCN ở góc độ tự nhiên,
không một chủ thể nào, kể cả Nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ quyền tự bào
chữa của họ và được thể chế hóa bằng pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện.
Người bị tạm giữ, Bị can có quyền:Nhờ người khác bào chữa xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Theo
tác giả thì do quyền tự bào chữa vốn có của họ không phải ai cũng có đủ trình độ,
điều kiện để thực hiện tốt việc tự bào chữa của mình, nhất là trong bối cảnh bị Cơ
quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn
như bắt, tạm giữ, tạm giam. Mặt khác, quy định cho họ có quyền: “ Nhờ người
khác bào chữa” là nhằm tuân thủ quy định của Hiến pháp, tuân thủ nguyên tắc cơ
bản về bảo đảm quyền bào chữa của Người bị tạm giữ, Bị can, tôn trọng và bảo
vệ quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của Người bị tạm giữ, bị can,
bảo đảm sự vô tư, khách quan trong hoạt động bào chữa. Như vậy, người khác
bào chữa cho Người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình
sự là quyền phái sinh từ quyền của Người bị tạm giữ, Bị can. Nếu Người bị tạm
giữ, bị can không “ Nhờ” thì người khác không phát sinh quyền bào chữa cho họ.

16


Pháp luật TTHS quy định cho họ phương thức lựa chọn và thay đổi người
bào chữa. Theo quy định tại Điều 57 của BLTTHS năm 2003 về Lựa chọn và
thay đổi người bào chữa như sau: “ 1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị
can,… hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn”.
Vậy, nếu Người bị tạm giữ, Bị can trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự mà họ không thực hiện quyền: “ Nhờ người khác bào chữa” cho họ thì
sao? Liệu rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ có được đảm bảo trong mọi
trường hợp theo đúng tinh thần của Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS năm 2003.
Do việc áp dụng pháp luật hình sự có nguy cơ vi phạm quyền con người

cao nhất nên để bảo đảm, bảo vệ QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của Người bị
tạm giữ, Bị can trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, BLTTHS năm
2003 quy định: “ Trong trường hợp Bị can,… về tội theo khung hình phạt có mức
cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự; Bị can,… là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.”, nếu bị can hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều
tra,…hoặc……phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người
bào chữa cho họ.
Như vậy, có hai trường hợp được chỉ định người bào chữa, một trường hợp
liên quan đến quyền sống, quyền tối thượng nhất của con người và một trường
hợp liên quan đến người không thể tự bào chữa do có nhược điểm về thể chất,
người có nhược điểm về tâm thần, người chưa thành niên do khả năng tự bào
chữa bị hạn chế(do bệnh lý, tâm sinh lý, nhận thức còn hạn chế do chưa thành
niên). Tuy nhiên, trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b Khoản 2Điều 57 của BLTTHS năm 2003 thì Bị can,…và người đại diện hợp pháp của họ
vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa khi được Cơ quan
điều tra Chỉ định người bào chữa, bởi lẽ: quyền bào chữa là quyền vốn tự có của
Người bị tạm giữ, Bị can, còn Người khác bào chữa cho họ chỉ là quyền phái sinh
từ quyền của chính họ, do vậy, chính họ mới là người có quyền tự định đoạt,
quyết định có sử dụng quyền nhờ người khác bào chữa cho mình hay không ngay

17


cả khi được chỉ định người bào chữa từ phía cơ quan điều tra trong gia đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự.
BLTTHS năm 2003 quy định về những nguyên tắc cơ bản, nhưng chưa
quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Người bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự, Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hình sự. Tuy nhiên, Điều 28 BLTTHS năm 2003 có quy định:
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc

giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề
bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến
việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự”.
Ngườibị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án có các quyền quy định tại các Khoản 2, 3, Điều
51;Khoản 2- Điều 52, Khoản 2 - Điều 53, Khoản 1- Điều 54 nhưng quy định chưa
đầy đủ, trong đó không quy định cho những người tham gia tố tụng này quyền: “
Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình”.
Theo quy định tại Điều 59 BLTTHS năm 2003: Người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự
có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được cơ quan
điều tra,…,… chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.
1.3.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của luật sư
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến luật sư với
tư cách là ngườibào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hình sự.
Vậy, pháp luật quy định như thế nào về Vai trò của luật sư trong bảo vệ QCN
ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, cơ chế nào để bảo đảm cho luật sư thực
hiện tốt các quyền luật định? Những vấn đề này sẽ được tác giả nghiên cứu, bàn
luận sâu trên cơ sở pháp luật quy định nhằm làm rõ, nêu bật tác dụng, chức năng của
luật sư trong bảo vệ QCN, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của Người bị

18


tạm giữ, bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự,
cụ thể như sau:

1.3.2.1.Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con ngườicủa người bị buộc
tội trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự
- Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ
quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.
Giai đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, bảo đảm không một tội phạm nào không
bị phát hiện, không một người vô tội nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: Tố giác
của công dân; Tin báo của cơ quan, tổ chức; Tin báo trên các phương tiện thông
tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú.
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 100 của BLTTHS
năm 2003 như sau: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu
tội phạm”.
Như vậy, dấu hiệu của tội phạm đã được xác định là căn cứ khởi tố vụ án
hình sự. Khi xác định dấu hiệu của tội phạm chỉ cần xác định có sự việc phạm tội
xảy ra mà chưa cần xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi đã
khởi tố vụ án, cơ quan điều tra sẽ tiến hành các hoạt động điều tra để xác định
người thực hiện tội phạm.
Khởi tố vụ án được tiến hành trong thời hạn không quá hai tháng, Điều
103 của BLTTHS năm 2003 quy định: “ Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ
ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra

19



trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa
điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không
quá hai tháng.”
Trong giai đoạn khởi tố, Cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền
theo quy định của BLTTHS năm 2003 ban hành các loại quyết định sau: 1) Quyết
định khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm (Điều 104); 2)
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 107 của BLTTHS năm 2003 ( Điều 108); 3) Quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác( Điều 106);
4) Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố nếu đã khởi tố mà có một trong những
căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS năm 2003( Điều 108).
Ngoài ra, tại chương 8 quy định về Khởi tố vụ án hình sự còn có một số
quy định về trình tự tố giác và tin báo về tội phạm, về khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại, về quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong
việc khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được coi là giai đoạn tố tụng độc
lập và có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự, bởi lẽ: Khởi tố
vụ án bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, thông qua
việc Cơ quan điều tra kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin về tội phạm, mới
có điều kiện để làm rõ sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không, việc
giải quyết, xác minh tội phạm không được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, đầy
đủ sẽ có thể không phát hiện ra dấu hiệu tội phạm, dẫn đến việc ra quyết định
không khởi tố vụ án, dẫn đến bỏ lọt tội phạm; khởi tố vụ án tạo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp theo, sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án,
hoạt động điều tra được tiến hành và tập trung vào điều tra làm rõ các hành vi

phạm tội và để xác định người thực hiện hành vi phạm tội.

20


Vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hình sự quy định
cho luật sư những quyền hạn, nghĩa vụ như thế nào, cơ chế nào để bảo đảm cho
luật sư thực hiện tốt, phát huy vai trò bảo vệ QCN, quyền công dân, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân ở giai đoạn này?
Theo quy định tại Khoản 1- Điều 58 của BLTTHS năm 2003 thì thời điểm
Người bào chữa tham gia tố tụng là từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt
người theo quy định tại Điều 81 (Bắt người trong trường hợp khẩn cấp) và Điều
82 (Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã) của Bộ luật này thì người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ
bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm
sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Đối chiếu quy định trên về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng với
quy định về Khởi tố vụ án hình sự tại chương 8 của BLTTHS năm 2003, chương 4
về Người tham gia tố tụng thì vai trò của Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ có duy nhất một chủ thể được
quyền nhờ người bào chữa là Người bị tạm giữ (nhưng giới hạn trong trường hợp
Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điều
81 và người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang theo quy định tại Điều 82 của
BLTTHS năm 2003).
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 của BLTTHS năm 2003 thì thời điểm
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự) được tham gia
tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Đối chiếu quy định trên về thời điểm Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
được tham gia tố tụng với quy định tại chương 8 của BLTTHS năm 2003 về Khởi

tố vụ án hình sự thì Người bảo vệ quyền lợi của đương sự với tư cách là luật sư
chưa được tham gia tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự vai trò của luật sư trong bảo vệ
QCN chỉ trong phạm vi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người
bị tạm giữ trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81( Bắt người trong

21


×