Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể (lấy ví dụ ở địa bàn thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.43 KB, 117 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Bộ máy chi cục thuế Error: Reference source not found
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự ra đời và phát triển của ngành Thuế luôn gắn liền với sự xây dựng và
trưởng thành của Nhà nước. Ở nước ta ngay sau khi tổng khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân, một tuần lễ sau ngày công bố độc lập trước toàn
thế giới ngày 02/9/1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 27 thành lập Sở
Thuế quan. Trải qua 65 năm xây dựng và trưởng thành từ chỗ là Sở Thuế
quan, Nha Thuế vụ, Vụ Thuế, Thuế công thương nghiệp . . . đến nay chúng ta
đã có một hệ thống thuế hùng mạnh từ trung ương tới địa phương: Tổng cục
Thuế. Năm 1946 thu từ thuế cả nước mới đạt 16.750 triệu đồng (tiền ngân
hàng cũ), năm 1990 là 8.000 tỷ, năm 2000 là 90.000 tỷ, năm 2005 là 190.000
tỷ (tài liệu công bố tại 60 năm xây dựng và phát triển ngành Thuế), đến năm
2009 dự toán thu ngân sách của cả nước khoảng 400.000 tỷ đồng (theo Quyết
định số 2704/QĐ-BTC ngày 01//12/2008 của Bộ Tài chính). Qua mỗi thời kỳ
ngành Thuế luôn hoàn thành nhiệm vụ chính trị, từ đáp ứng yêu cầu chi tiêu
của Chính phủ trong những ngày đầu kháng chiến đến góp phần xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước và cho đến ngày nay số thu từ thuế đã là “nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước”.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước, chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải cách cơ chế quản lý
thuế theo hướng tạo hành lang pháp luật trong chính sách thuế, quản lý thuế,
nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế phù
hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó, số thu từ thuế tăng đều qua
các năm, luôn trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển của đất nước. Trong chiến lược phát


1
triển kinh tế thị trường của cả nước, Đảng ta luôn coi trọng thành phần kinh tế
tư nhân, luôn tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi để các thành phần kinh tế
cùng phát triển và thực tế những năm qua với một cơ chế đơn giản, năng động
lực lượng hộ kinh doanh cá thể của cả nước đã không ngừng lớn mạnh, góp
phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên hệ thống thuế vẫn còn tồn tại những mặt còn hạn chế, thiếu
sót như: Chính sách thuế chưa thực sự đồng bộ, việc thu thuế đôi khi còn
trùng lắp, tính pháp lý chưa cao; chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị
trường; chưa xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp qua thuế; chính sách thuế còn có
những điểm quy định chưa chặt chẽ, tạo kẽ hở cho các tổ chức, cá nhân lợi
dụng gian lận thuế, trốn thuế; Bên cạnh đó, ý thức về trách nhiệm đối với thuế
của người nộp thuế nói riêng và người dân nói chung chưa tốt; công tác quản
lý thuế còn yếu kém ở một số lĩnh vực; Chưa đẩy mạnh ứng dụng tin học vào
công tác quản lý thuế; một bộ phận cán bộ thuế yếu cả về trình độ và phẩm
chất đạo đức, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới… từ đó làm
giảm hiệu quả quản lý của một số sắc thuế, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân
sách nhà nước.
Công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể còn gặp nhiều điều
bất cập, từ việc đăng ký thuế, xác định doanh thu, tính thuế đến việc thu thuế
vẫn là một dây chuyền công việc khép kín gần như rườm rà, luẩn quẩn, không
rõ ràng, gây ức chế cho người nộp thuế đồng thời lại tạo ra rất nhiều khó khăn
cho cơ quan quản lý thuế nói chung và ngành thuế nói riêng. Trong khi hộ
kinh doanh cá thể ngày càng chứng tỏ là một mô hình kinh tế năng động,
không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân và có những đóng góp quan trong
với ngân sách nhà nước. Chính vì vậy việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Hoàn
thiện cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể” (lấy ví dụ ở địa bàn
thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) theo tôi là hết sức cần thiết trong giai đoạn
2
hiện nay, hy vọng đề tài nghiên cứu vừa có ý nghĩa lý luận, vừa mang tính

thực tiễn sẽ góp phần việc xây dựng các giải pháp khả thi để giải quyết những
vấn đề tồn tại đặt ra đối với việc quản lý hộ kinh doanh cá thể, trong sự tác động
đến quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 – 2015.
2. Tình hình nghiên cứu
Xuất phát từ tầm quan trọng, phức tạp và ảnh hưởng của chính sách thuế
đối với nền kinh tế của cả nước nói chung, hộ kinh doanh cá thể nói tiêng, nên
đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước
về công tác thuế. Các công trình nghiên cứu đó tập trung vào những nội dung
sau:
+ Về cơ chế quản lý thuế.
+ Về vai trò Nhà nước.
Nhìn chung, các Đề tài đều đã đề cập đến vai trò của Nhà nước, về cơ
chế quản lý thuế và cũng đã có các đề tài nghiên cứu về cơ chế quản lý thuế
với kinh tế tư nhân; với doanh nghiệp; với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài; với kinh tế cá thể, tiểu chủ . . . Tuy nhiên với tính năng động và đóng
góp của các hộ kinh doanh cá thể với nền kinh tế quốc dân, việc hoàn thiện cơ
chế quản lý thuế là một việc làm cần thiết. Trong khi để có được một nền kinh
tế thị trường đầy đủ, thì yêu cầu bắt buộc phải là sự bình đẳng giữa các nền
kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Trong kinh tế tư nhân thì sự đóng góp
của hộ kinh doanh cá thể là không nhiều nhưng lại rất phức tạp, tác động đến
mọi đối tượng trong xã hội, là biểu hiện rõ nét nhất về thu nhập nâng cao đời
sống của xã hội. Có một thực tế mà chúng ta phải thừa nhận đó là trong sự
phát triển của đất nước, Nhà nước chưa thể và không thể giải quyết công ăn,
việc làm một cách triệt để và đảm bảo cuộc sống một cách đầy đủ hơn cho
toàn xã hội. Do đó việc các hộ gia đình, các cá nhân chủ động đầu tư, phát
3
triển kinh doanh để nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống là một việc làm
đáng được quan tâm và khích lệ. Địa bàn thị xã Tam điệp nói riêng, cả nước
nói chung: Hộ kinh doanh cá thể đang chiếm một số lượng lớn trong khu vực

nền kinh tế tư nhân, có những đóng góp nhất định vào công cuộc phát triển
kinh tế của cả nước, trong khi hệ thống chính sách về thuế của Nhà nước đôi
khi chưa được kịp thời, chưa hoàn thiện, chưa được quan tâm đúng mức làm
cho sự phát triển của các hộ kinh doanh cá thể còn gặp nhiều khó khăn. Đó là
nguyên nhân thôi thúc tôi phải quan tâm nghiên cứu, góp phần hoàn thiện
chính sách thuế, tạo môi trường bình đẳng và tốt nhất để các hộ kinh doanh cá
thể ngày càng phát triển.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế nói chung
và về ccơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
- Nghiên cứu và làm rõ khái niệm và những đặc trưng của kinh tế tư
nhân (được biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể). Vai
trò Nhà nước về quản lý thuế đối với kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế;
- Xây dựng cách thức quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể hợp lý
phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm
mục tiêu tập trung thu cho Ngân sách nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình
đẳng, công bằng xã hội.
- Đánh giá thực trạng quản lý thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể trên
địa bàn thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;
- Đề xuất hướng đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý thuế từ nay đến
4
năm 2015 và những năm tiếp theo nhằm xây dựng cơ chế quản lý thuế hợp lý
và phát huy tính tích cực đối với các hộ kinh doanh cá thể; phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào hệ thống chính sách thuế

và cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
+ Không gian: Thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, bản luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
- Phương pháp khảo sát, thu thập số liệu kết hợp với tổng hợp và thống
kê và so sánh;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp Lôgíc và lịch sử.
6. Đóng góp của luận án
Để góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận án dự
kiến sẽ có những đóng góp sau:
- Khái quát và làm rõ những vấn đề cơ bản về vai trò Nhà nước về quản
lý thuế đối với hộ kinh doanh, từ đó nhằm xác định rõ cách thức quản lý thuế
thích hợp đối với hộ kinh doanh cá thể.
- Nêu bật những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà
nước về cải cách hệ thống thuế qua các thời kỳ từ năm 1990 đến nay, từ đó
đưa ra nhận xét và đánh giá tác động của vai trò Quản lý Nhà nước về thuế
đối với khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
5
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nghiên cứu, tổng kết các kinh nghiệm của các quốc gia và địa phương;
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối
với các hộ kinh doanh cá thể.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối với
hộ kinh doanh cá thể, trong đó tập trung vào nội dung đổi mới, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh cách thức quản lý trên nền tảng lý luận, thực tiễn cùng với

những điều kiện thực hiện cơ bản để đảm bảo các giải pháp được thực thi một
cách hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, bảo đảm công
bằng xã hội trong việc kê khai nộp thuế giữa những người nộp thuế thuộc mọi
thành phần kinh tế, tăng thu cho Ngân sách, tạo động lực cho phát triển kinh tế.
7. Kết cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện cơ chế quản
lý thuế.
Chương 2 : Thực trạng cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế
quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể ở thị xã Tam Điệp
tỉnh Ninh Bình.
6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
1.1. QUAN NIỆM VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ THUẾ.
1.1.1. Thuế và quản lý thuế.
1.1.1.1. Thuế và chức năng của thuế.
Ra đời tồn tại cùng với nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài và quan niệm về thuế cũng không ngừng được hoàn
thiện. Những nội dung cơ bản của thuế là:
- Thuế là biện pháp động viên của nhà nước mang tính chất bắt buộc đối
với các tổ chức và mọi thành viên trong xã hội, gắn liền với quyền lực chính
trị của nhà nước.
- Thuế là khoản đóng góp nghĩa vụ, bắt buộc mọi tổ chức và thành viên
trong xã hội phải nộp vào ngân sách nhà nước.
- Thuế là một bộ phận của cải từ khu vực tư chuyển vào khu vực công
nhằm trang trải những chi phí nuôi sống bộ máy nhà nước và trang trải các
chi phí công cộng mang lại lợi ích chung cho cộng đồng.

- Thuế là một hình thức phân phối thu nhập được nhà nước sử dụng để
động viên một phần thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội vào
ngân sách nhà nước.
Bản chất, đặc trưng của thuế.
Trên thực tế có rất nhiều các định nghĩa, quan điểm khác nhau, nhưng có
thể rút ra một số đặc trưng chung của thuế như sau:
Một là: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan
hệ tiền tệ phát sinh giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân
trong xã hội.
7
Hai là: Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một
cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có
tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước.
Ba là: Xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà
nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Như vậy thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân, pháp nhân
cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn của
thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định, tương đối qua từng giai đoạn phát
triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng của thuế, qua đó giúp ta phân
biệt giữa thuế với các công cụ tài chính khác như:
+ Tính bắt buộc
+ Tính không hoàn trả trực tiếp
+ Tính pháp lý cao
Chức năng của thuế
- Một là: Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước, là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách nhà nước
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà
nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng

đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại
và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để
Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân trong xã hội.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước với một nền kinh
tế nhiều thành phần, đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò
8
của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng cao đòi hỏi
thuế phải bao quát được hầu hết các nguồn thu nhập trong xã hội, để đảm bảo
nhu cầu chi tiêu của NSNN, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán. Nhà nước
thông qua thuế tiến hành phân phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc
nội. Thuế trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các
nước có nền kinh tế thị trường.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách
quan cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Hay nói cách khác,
quá trình huy động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất
hiện chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực và
chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Hai là, thuế là công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ sở nảy sinh từ chức
năng huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng
rộng rãi từ những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà
nước được thực hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế - xã hội của Nhà
nước dẫn đến mức độ chi tiêu công ngày càng lớn và hậu quả tất yếu đòi hỏi
Nhà nước phải tăng cường nguồn lực tài chính Nhà nước, nguồn lực được
hình thành chủ yếu từ thuế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy
định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định hợp lý người nộp thuế, đối

tượng đánh thuế, thuế xuất, chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế,
Thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội và được thể
hiện trên hai mặt đó là khuyến khích, thúc đẩy những hoạt động kinh doanh
cần thiết có hiệu quả cao; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt
hàng cần hạn chế tiêu dùng, hạn chế sản xuất theo hướng tiết kiệm chống lãng
phí, thúc đẩy mở rộng thị trường cạnh tranh lành mạnh. Trên cơ sở đó, Nhà
9
nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp với lợi
ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết
kinh tế của thuế đã được thực hiện. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị
trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao.
Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế
vì lợi ích của xã hội.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết
kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn
lực tài chính nảy sinh đồng thời với sự ra đời của thuế và được coi là chức
năng cơ sở, qua đó quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều
tiết. Ngược lại, nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm
cho chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển.
Ý nghĩa của chức năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm
bảo nguồn thu nhập cho Nhà nước đã tạo ra những điều kiện khách quan để
Nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội.
Điều đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các tầng lớp dân cư, do đó mở
rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự thống
nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng
huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của Nhà nước tăng lên.
Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực
hiện các chương trình kinh tế - xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng
huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là

giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là
tính hai mặt của thuế, nó có khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách
tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tiêu cực.
Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được tính toán kỹ lưỡng trong tiến
trình hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau.
10
Tóm lại, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử
dụng thuế đúng với chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền
kinh tế ở mỗi quốc gia không giống nhau mà tuỳ thuộc vào "nghệ thuật sử
dụng" công cụ thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính nguyên tắc là thuế
phải luôn luôn phù hợp với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế xã hội mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải
thường xuyên rà soát mức độ phù hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mình, thực hiện các cải cách thuế kịp thời nếu thấy
cần thiết.
1.1.1.2. Quan niệm về quản lý thuế.
Để đảm bảo mục tiêu thu đúng, đủ thuế nhằm phát huy đầy đủ vai trò
của thuế trong phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước phải đề ra các quy định,
luật pháp nhằm tạo một hành lang thống nhất, buộc mọi tổ chức, cá nhân kinh
doanh phải thực hiện theo.
Để Luật pháp về thuế được đảm bảo thực hiện, Nhà nước phải tổ chức ra
bộ máy để quản lý thu thuế và giám sát thực hiện đối với bộ máy này. Do bản
chất của thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp nên việc yêu cầu người nộp
thuế tự giác khi không có hệ thống luật pháp để bắt buộc là điều không thể
thực hiện, thậm chí kể cả khi có hệ thống luật pháp về thuế, nhiều tổ chức cá
nhân nộp thuế vẫn cố tình không thực hiện hoặc lợi dụng kẽ hở của chính
sách để tư lợi. Vì vậy, vai trò quản lý thuế của Nhà nước mang tính áp đặt và
là một tất yếu khách quan trong quá trình quản lý.
Từ những cơ sở lý luận trên ta có thể định nghĩa một cách khái quát về
quản lý thuế như sau:

Quản lý thuế là việc Nhà nước sử dụng các phương tiện, cách thức, biện
pháp nhằm thực hiện việc thu thuế sao cho đạt hiệu quả, đúng mục tiêu, mục
đích đề ra trong việc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
11
trong từng thời kỳ. Được biểu hiện cụ thể thành một hệ thống: Từ việc Nhà
nước ban hành chính sách, tổ chức bộ máy, triển khai thực hiện, kiểm tra
giám sát kết quả đến việc chỉnh sửa chính sách và ban hành chính sách mới
cho phù hợp với thực tiễn đang quản lý.
Như vậy quản lý thuế có các vai trò:
+ Quản lý thuế nhằm thực hiện một trong những chức năng quan trọng
của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính: Đó là điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất nhằm đảm bảo phát huy
tối đa những chức năng, vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội. Ngoài
ra, quản lý thu thuế còn thực hiện một mục tiêu quan trọng nữa là huy động số
thu cho Ngân sách Nhà nước. Thể hiện quyền lực tối cao và sự độc quyền của
Nhà nước trong việc quản lý và điều hành đất nước.
+ Giúp Nhà nước kiểm soát việc nộp thuế của người nộp thuế. Dù bất kỳ
ở xã hội nào, lợi ích của người kinh doanh luôn được đặt lên hàng đầu đối với
bản thân mỗi cá nhân nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, với vai trò
kiểm tra, giám sát, vai trò của Nhà nước về Quản lý thuế định hướng, sửa chữa
những sai sót trong quá trình thực hiện các Luật thuế dù vô tình hay cố ý sai
phạm. Đều phải duy trì bình đẳng xã hội trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
+ Giúp Nhà nước quản lý được bộ máy thu thuế. Một mặt, đảm bảo bộ
máy quản lý thuế vận hành trơn tru, không sai sót; mặt khác, cũng xuất phát
từ lợi ích cá nhân, con người trong bộ máy quản lý thu thuế của Nhà nước
cũng có những cá nhân hám lợi sẵn sàng bắt tay với người nộp thuế nhằm
giúp họ trốn thuế và thu những mối lợi bất chính làm thất thu cho Ngân sách,
hoặc cố tình gây khó dễ, sách nhiễu để vòi vĩnh. Điều đó đòi hỏi Quản lý thuế
với chức năng kiểm tra, giám sát sẽ hạn chế và xử lý các trường hợp này. Vì
vậy, việc quản lý bộ máy thu thuế chặt chẽ cũng là yêu cầu cực kỳ cấp thiết,

nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các
tác động xấu của mặt trái kinh tế thị trường.
12
+ Với vai trò hướng dẫn người nộp thuế, thông qua công tác tuyên truyền,
giáo dục sẽ nâng cao ý thức người dân trong việc chấp hành các Luật thuế, đảm
bảo việc thực hiện các Luật thuế được nghiêm chỉnh. Mặt khác, việc xử lý các
sai phạm đảm bảo nghiêm minh, đúng người, đúng việc nhằm răn đe những đối
tượng vi phạm, đồng thời làm gương cho các đối tượng khác.
1.1.2. Quan niệm về cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
- Cơ chế là tổng thể các yếu tố có quan hệ hữu cơ, tác động vào sự vận
hành của một hệ thống nhất định theo những mục tiêu nhất định. Về cơ bản,
cơ chế bao gồm những yếu tố thể hiện những tác động điều khiển của chủ thể
quản lý đối với hệ thống như: hình thức, phương pháp, công cụ và những
yếu tố tự phát tác động theo quy luật vận hành khách quan của hệ thống.
- Cơ chế kinh tế được hiểu là cơ chế vận hành của một nền kinh tế thống
nhất sao cho phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan của nó.
Khi phân tích cơ chế kinh tế với tư cách là cơ chế vận hành của một nền
kinh tế, chúng ta đề cập tới hệ thống quan hệ kinh tế không phải chủ yếu dưới
góc độ chiếm hữu tức quan hệ kinh tế - xã hội mà dưới góc độ phương thức
điều hành, tổ chức quản lý tức quan hệ kinh tế - tổ chức.
Như vậy cơ chế kinh tế là cơ chế điều tiết kinh tế với những phương
pháp, phương thức nhất định, phù hợp với các quy luật kinh tế và trình độ của
lực lượng sản xuất xã hội.
- Quản lý thuế là hoạt động của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại diện để
tổ chức, điều hành hệ thống quản lý thu thuế nhằm động viên nguồn thu từ thuế
vào ngân sách nhà nước theo những quy định của pháp luật về thuế. Việc quản
lý thu thuế được thực hiện thông qua một cơ chế, đó là cơ chế quản lý thuế.
Như vậy: Cơ chế quản lý thuế là tổng thể các phương thức, cách thức
mà cơ quan quản lý thuế tác động vào hệ thống thuế theo những mục tiêu
ngành thuế đã đặt ra trong từng thời kỳ nhất định.

13
Từ những phân tích trên, cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá
thể được hiểu là hệ thống các chính sách về thuế được ban hành điều chỉnh
đối tượng là các hộ kinh doanh cá thể, nhằm mục đích thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển, tạo điều kiện các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống, đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ.
1.2.1. Hộ kinh doanh cá thể và đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể.
1.2.1.1. Hộ kinh doanh cá thể và vai trò của hộ kinh doanh cá thể đối với
phát triển kinh tế xã hội.
Về khái niệm.
Hộ kinh doanh cá thể chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử
dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Về vai trò.
- Giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập góp phần cải thiện đời sống
cho người lao động.
- Tuy mức đóng góp của từng hộ kinh doanh cá thể không lớn nhưng với
một lực lượng hùng hậu, các hộ kinh doanh cá thể góp phần quan trọng đối
với thu ngân sách nhà nước.
- Cac hộ kinh doanh cá thể là một kênh phân phối hàng hoá quan trọng
và nhanh nhất đến người tiêu dùng trong toàn xã hội.
1.2.1.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể:
- Hộ kinh doanh cá thể sử dụng ít lao động với quy mô đơn giản, năng
động, được phân bố rộng rãi trong các tầng lớp dân cư.
- Hộ kinh doanh cá thể tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh.
14
- Hộ kinh doanh cá thể (bao gồm cả hộ hành nghề tư nhân) nếu có mức thu

nhập dưới mức lương tối thiểu (do Chính phủ quy định) không phải đăng ký
kinh doanh (trừ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện) và chưa phải nộp thuế.
1.2.2. Nội dung cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
1.2.2.1. Xây dựng hệ thống luật và chính sách về thuế
Hệ thống luật và chính sánh thuế là các biện pháp mà Nhà nước đưa ra
để đạt được những mục tiêu về thuế. Chính sách thuế thể hiện đường lối và
phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc
dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực thuế, xác định mức thuế và ưu đãi về thuế trong từng giai đoạn
phát triển nhất định. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng
cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của
Nhà nước trong từng thời kỳ. Hệ thống thuế gồm nhiều hình thức thuế khác
nhau nhưng sự hình thành từng hình thức thuế do cơ sở thuế quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường, thuế suy cho cùng đều lấy từ thu nhập. Do yêu
cầu của quá trình tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu kỳ
khép kín và luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó. Chính sự biến đổi
đa dạng đó đã làm nảy sinh các cơ sở thuế khác nhau, tạo ra khả năng đánh
thuế của Chính phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín và hình
thành các hình thức thuế khác nhau.
Với chức năng, vai trò của thuế, thì thuế không chỉ được sử dụng để tập
trung nguồn lực cho NSNN mà còn là một trong những công cụ quan trọng
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Bởi vậy, việc xây dựng một hệ thống thuế hiệu
quả nhằm giải quyết thoả đáng cả hai yêu cầu trên luôn là tiêu chí của mỗi
quốc gia. Những tiêu chí cơ bản để xây dựng hệ thống thuế có hiệu quả và
15
thoả mãn hai yêu cầu trên là: (1) Tính công bằng; (2) Tính hiệu quả; (3) Tính
rõ ràng minh bạch; (4) Tính linh hoạt. Các tiêu chí này phải kết hợp với nhau
một cách tối ưu nhất nhằm thực hiện mục tiêu của hệ thống một cách tốt nhất

trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của quốc gia và theo từng giai đoạn
phát triển kinh tế. Từ yêu cầu đó hệ thống chính sách thuế được thiết lập và
không ngừng cải cách và củng cố.
Hệ thống chính sách thuế hiện nay gồm: 9 sắc thuế cơ bản (thuế giá trị
gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập
doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế sử dụng đất
nông nghiệp; thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất).
Ngoài ra, còn một số loại thu dưới hình thức phí và lệ phí. Hệ thống chính
sách thuế này cơ bản đã bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống
nhất đối với mọi thành phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu
chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời hệ thống chính sách thuế trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của
Nhà nước đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong
nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Hệ thống luật và chính sách về thuế đối với hộ kinh doanh cá thể. Với
mục tiêu bình đẳng, chính sách thuế được áp dụng chung cho các loại hình
kinh doanh được thể hiện trong việc áp dụng chung các mức thuế suất đối với
cùng ngành hàng, nhóm mặt hàng. Trong quản lý thuế đối với các hộ kinh
doanh cũng như các doanh nghiệp, chính sách thuế áp dụng ở một số sắc thuế
chủ yếu là: Thuế Môn bài, thuế Giá trị gia tăng (GTGT), thuế Thu nhập cá
nhân (TNCN) hiện nay và 2008 trở về trước là thuế Thu nhập Doanh nghiệp
(TNDN), thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế Tài nguyên, Trong đó, các sắc
16
thuế ảnh hưởng nhiều nhất đến các hộ kinh doanh đó là thuế GTGT và thuế
TNDN (trước 1999 là Lợi tức), thuế thu nhập cá nhân (từ tháng 1 năm 2009).
Do không kiểm soát chặt chẽ được doanh thu, việc áp dụng các Chính sách
thuế từ khi thực hiện chính sách “mở cửa”đối với các hộ kinh doanh chỉ mang
tính chất ước chừng tức là: Đối với các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo

Luật doanh nghiệp (Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công
ty Cổ phần ) việc kê khai nộp thuế thực hiện theo cách: Lấy doanh thu nhân
(x) thuế suất; Tuy nhiên đối với các hộ kinh doanh lại nộp thuế theo cách: Lấy
doanh thu (ấn định ước chừng) nhân (x) tỷ lệ chịu thuế (ấn định ước chừng) rồi
mới nhân (x) thuế suất. Xảy ra tình trạng cào bằng giữa các hộ kinh doanh và
không công bằng trong việc kê khai nộp thuế với các doanh nghiệp.
- Đảm bảo mục tiêu nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện để hộ kinh
doanh để phát triển. Đối với bất kỳ khu vực kinh tế nào, việc nuôi dưỡng
nguồn thu của thuế cũng là điều cần thiết, nhất là giai đoạn hiện nay, chúng
ta đang công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân mà hộ kinh doanh
chiếm tỷ lệ lớn và đóng vai trò quan trọng. Đảm bảo mục tiêu này, chính sách
phải sát với thực tế kinh doanh của các hộ kinh doanh vì vậy, để động viên
được các hộ kinh doanh tích cực sản xuất, kinh doanh, chính sách thuế phải
đảm bảo động viên ở một tỷ lệ hợp lý, cân đối giữa thu nhập và thuế phải nộp.
- Chính sách đơn giản, dễ hiểu, đảm bảo hiệu lực pháp lý cao. Vơí đặc
trưng của hộ kinh doanh cá thể là mô hình tổ chức đơn giản, trình độ quản lý
thấp, để có thể triển khai thực hiện chính sách thuế đối với các hộ kinh doanh
cá thể chính sách thuế phải đơn giản, dễ hiểu, hợp lý và dễ thực hiện. Tất
nhiên, cũng phải kèm theo chế tài xử phạt nghiêm khắc để chính sách thuế
được thực hiện nghiêm túc. Luật Quản lý thuế ra đời và có hiệu lực từ
01/7/2007 đã quy định chặt chẽ quyền và trách nhiệm của cơ quan thuế cũng
như của người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân liên quan. Đây là một cố gắng
17
nỗ lực của ngành thuế trong việc tham mưu cho các cơ quan lập pháp của Nhà
nước để lập ra một khung pháp lý chặt chẽ, làm nền tảng cho việc thực hiện
các Luật thuế.
1.2.2.2. Xây dựng qui trình thực hiện quản lý thuế
Quy trình quản lý thuế là một bộ phận hợp thành các thủ tục hành chính
thuế tương ứng với một phương thức quản lý thuế nhất định. Mỗi cơ chế quản
lý thuế đòi hỏi áp dụng một quy trình quản lý nhất định, phù hợp với tư duy

quản lý thuế, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ quản lý, trình độ trang thiết bị
của cơ quan thuế và trình độ nhận thức của đối tượng nộp thuế nhằm đạt hiệu
quả cao trong công tác quản lý.
Quản lý thuế ở nước nào cũng gặp khó khăn bởi các hộ kinh doanh cố ý,
tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp;
Tình trạng trốn, ẩn lậu về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản
thu và diễn ra ở các lĩnh vực, vùng, miền khác nhau, vừa làm thất thu cho
ngân sách nhà nước, vừa không bảo đảm công bằng xã hội. Do đó, tùy theo
từng nước và từng thời gian nhất định, việc áp dụng cơ chế thuế hợp lý với
những tiêu chuẩn được ưu tiên để đạt được mục tiêu đề ra trong việc hoạch
định chiến lược, chương trình là cần thiết. Tuy nhiên cơ chế quản lý thuế với
những tiêu chuẩn khi ban hành sẽ được sử dụng trong một thời gian nhất định
và sẽ được điều chỉnh cho phù hợp khi cần thiết.
Đối với Việt Nam, cho đến nay ngành thuế đã xây dựng được một số
tiêu chuẩn nhất định (như các tiêu chuẩn về chỉ tiêu số thu, thời gian đăng ký
mã số thuế, thời gian xử lý tờ khai, phát hành thông báo thuế, thời gian hoàn
thuế ). Tuy nhiên, còn nhiều tiêu chuẩn khác chưa được xây dựng hoặc chưa
được hoàn thiện (như các tiêu chuẩn về đối tượng ngừng kê khai, các tiêu
chuẩn về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế, lĩnh vực thanh tra, xử lý tờ khai
thuế ).
18
Trong quá trình cải cách quản lý thuế và hội nhập quốc tế về thuế, quản
lý thuế của Việt Nam đã chuyển đổi từ quản lý thuế theo đối tượng (chuyên
quản), đến cơ chế tự tính - tự khai nộp theo thông báo và đến nay là cơ chế tự
tính - tự khai - tự nộp thuế trên cơ sở tăng cường dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp
thuế và thanh tra thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của đối tượng
nộp thuế, ngành thuế Việt Nam sẽ phải hoàn thiện các tiêu chuẩn đã thực hiện
và xây dựng những tiêu chuẩn mới đảm bảo tính tiên tiến, có khả năng đánh
giá một cách toàn diện hệ thống quản lý thuế. Để thực hiện tốt cơ chế quản lý
thuế đối với hộ kinh doanh cá thể theo quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày

26/7/2004 của tổng cục thuế. Quy trình quản lý thuế theo chức năng bao gồm:
Một là, hỗ trợ và tuyên truyền đối tượng nộp thuế:
Thực hiện tiếp nhận hồ sơ thuế và hướng dẫn hộ mới ra kinh doanh kê
khai đăng ký nộp thuế, trả lời, giải đáp các vướng mắc của người nộp thuế
trong quá trình thực hiện các quy định hiện hành về chính sách thuế, thông
qua các hình thức trả lời tại cơ quan Thuế, qua điện thoại hoặc bằng văn bản
theo đúng hướng dẫn về nghiệp vụ tại các quy trình do Tổng cục Thuế ban
hành về việc hướng dẫn thực hiện công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong
thẩm quyền.
Chủ trì phối hợp với các bộ phận chức năng tổ chức tiếp xúc thông qua
các hình thức hội nghị, hội thảo, tập huấn để phổ biến hướng dẫn chính sách
và thủ tục về thuế cho đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự khai nộp.
Lưu trữ và tổ chức phổ biến chính sách thuế mới, thực hiện việc đào tạo
và đào tạo tại chỗ về chuyên môn nghiệp vụ đối với lực lượng cán bộ chuyên
trách của đơn vị. Lưu trữ và thông báo các nội dung hướng dẫn chính sách
thuế đã tiến hành cho người nộp thuế đến các bộ phận chức năng nhằm thống
nhất các biện pháp thi hành pháp luật về thuế trong toàn ngành.
Thực hiện các chế độ về đánh giá, phân tích, báo cáo với các cấp có
thẩm quyền, và cơ quan cấp trên theo quy định.
19
Hai là, kê khai kế toán thuế:
Thực hiện việc tiếp nhận tờ khai, hồ sơ thuế của người nộp thuế, và tiến
hành xử lý trong thẩm quyền hoặc chuyển cho các bộ phận chức năng theo
phân công, phân cấp, theo qui định tại quy trình.
Căn cứ vào số liệu kê khai thuế của người nộp thuế tiến hành các bước
theo quy trình xử lý thông tin về số thuế phát sinh nhằm mục đích quản trị dữ
liệu thuế theo yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ (Nhưng không tác động vào
việc kê khai của người nộp thuế).
Theo dõi, giám sát việc xử lý thông tin về số thuế phát sinh theo kê khai
của người nộp thuế, trên cơ sở dữ liệu đó tiến hành phân tích, đánh giá chung

tình hình thực hiện của từng hộ kinh doanh nhằm mục đích thu thuế và mục
đích khác theo yêu cầu tại hồ sơ thuế của người nộp thuế và các bộ phận chức
năng, cũng như các bộ phận có liên quan của Ngành.
Quản trị, tổng hợp và lưu trữ thông tin về thuế của từng hộ kinh doanh
trong phạm vi phân cấp theo quá trình hoạt động của người nộp thuế.
Thực hiện các chế độ về đánh giá, phân tích, báo cáo với các cấp theo
quy định.
Xây dựng dự toán thu và tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện dự toán
thu theo qui định.
Ba là, thu nợ và cưỡng chế thuế:
Nhận hồ sơ pháp lý thuế của người nộp thuế và tổ chức thực hiện các
biện pháp đôn đốc thu nợ, cưỡng chế về thuế từ bộ phận quản lý thu nợ và bộ
phận kiểm tra xử lý.
Phân tích dữ liệu - thông tin về tình trạng thuế trên hồ sơ thuế của người
nộp thuế, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp xử lý, phối hợp thực hiện nhằm
mục tiêu đôn đốc thu nợ, cưỡng chế về thuế đối với người nộp thuế không
tuân thủ pháp luật thuế một cách có hiệu quả.
20
Tổ chức thực hiện quy trình theo dõi, đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế
theo yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, và theo thực tiễn của việc áp dụng cơ
chế tự khai, tự nộp trong phạm vi phân cấp, phân quyền.
Giúp Lãnh đạo xây dựng các biện pháp, cơ chế phối hợp, cũng như hành
lang pháp lý về việc thực thi quyền hành pháp về thuế - mà cụ thể là quyền
đôn đốc thu nợ và cưỡng chế về thuế.
Thực hiện các chế độ về đánh giá, phân tích, báo cáo với cơ quan cấp
trên theo quy định.
Bốn là, thanh tra, kiểm tra:
Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm đối với người nộp thuế trong
phạm vi phân cấp, phân quyền quản lý trên cơ sở thông tin thuế đã được thu
thập, và phân tích theo quy trình, đồng thời dựa trên cơ sở nguồn lực của từng

bộ phận trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, đồng thời báo cáo cơ quan thuế
cấp trên.
Theo kế hoạch đã được lãnh đạo duyệt, bộ phận thanh tra, kiểm tra (có
thể) phối hợp với các phòng chức năng của Cục, cũng như các cơ quan ban
ngành tại địa phương để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra người nộp thuế
theo quy trình thanh tra, kiểm tra thuế do Tổng cục Thuế ban hành nhằm tránh
chồng chéo trong công tác thanh tra, kiểm tra.
Tiến hành thực hiện các bước chuẩn bị cho việc thực hiện công tác thanh
tra, kiểm tra theo quy trình, bao gồm: Mục đích, yêu cầu, nội dung cuộc thanh
tra, kiểm tra; Phương pháp tiến hành; tiến độ thực hiện cuộc thanh tra, kiểm tra.
Thực hiện thanh tra, kiểm tra tại cơ sở theo quyết định về thanh tra, kiểm
tra đúng theo các qui định tại quy trình thanh tra, kiểm tra do Tổng cục Thuế
ban hành.
Lập hồ sơ trình có thẩm quyền chỉ đạo giải quyết hoặc đề nghị cơ quan
chức năng khởi tố theo quy định của pháp luật đối với người nộp thuế vi
phạm nghiêm trọng pháp luật thuế.
21
Tiếp nhận, kiểm tra, phân loại hồ sơ đề nghị hoàn thuế, miễn thuế, giảm
thuế của người nộp thuế, dự thảo quyết định hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhập số thuế được hoàn thuế, miễn thuế,
giảm thuế theo quyết định.
Thực hiện xác minh và trả lời kết quả xác minh hoá đơn theo quy định.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế theo thẩm quyền.
Báo cáo thực hiện kế hoạch và kết quả thanh tra, kiểm tra đối với các cấp
có thẩm quyền.
1.2.2.3. Tổ chức thực hiện quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
Bộ máy quản lý thuế được tổ chức thành ba cấp từ Trung ương đến địa
phương, từ Tổng cục thuế đến Cục thuế và cuối cùng là Chi cục thuế. Tổng
cục thuế phụ trách quản lý trên địa bàn lãnh thổ. Cục thuế phụ trách địa bàn
tỉnh. Chi cục thuế phụ trách địa bàn quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh. Đối

với hộ kinh doanh cá thể, do tính chất kinh doanh trải rộng và đông đảo trên
khắp địa bàn, để đảm bảo mục tiêu quản lý thu thuế hiệu quả, chặt chẽ, hạn
chế thất thu thuế và yêu cầu Bộ máy quản lý thu thuế phải đơn giản, gọn nhẹ,
chi phí thấp. Mặt khác, cần có một bộ phận chuyên sâu, nắm chắc địa bàn để
có thể quản lý hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh một cách chặt chẽ.
Mô hình quản lý hiện nay là các Đội thuế phường, xã trực thuộc Chi cục thuế
và các Uỷ nhiệm thu thuế thuộc UBND các xã, phường trực tiếp thực hiện
việc quản lý thu thuế. Ngoài ra, còn một số đội bộ phận chuyên môn cùng
thuộc Chi cục thuế quản lý để thực hiện công tác tổng hợp, báo cáo, kiểm tra,
giám sát và tham mưu về công tác thu thuế.
Xây dựng phương thức quản lý thuế trên cơ sở thực hiện các quy trình
quản lý một cách đồng bộ. Mục đích của việc ban hành các quy trình quản lý
nhằm công khai hoá các hoạt động của cơ quan thuế trong quản lý, xoá bỏ các
thủ tục phiền hà, tốn kém cho người nộp thuế. Tạo điều kiện thuận lợi nhất
22
cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Mặt
khác ban hành quy trình quản lý còn nhằm kiểm tra việc thực hiện các công
việc của cán bộ thuế với yêu cầu khoa học, tiết kiệm thời gian với hiệu quả
cao nhất.
1.2.2.4. Giám sát việc thực hiện quản lý thuế và việc tuân thủ pháp luật về
thuế của các tổ chức cá nhân trong việc thực hiện pháp luật về thuế.
Giám sát thực hiện quản lý thuế đã được xây dựng theo qui định chung
về pháp luật trong việc tổ chức thực hiện đối với người nộp thuế mà ở đây là
hộ kinh doanh cá thể với cơ quan thuế.
Thực hiện luật quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể, cơ quan thuế
đã xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát hồ sơ kê khai thuế nhằm chống
thất thu thuế qua việc kê khai thuế; ngăn chặn và xử lý kịp thời những vi
phạm về thuế nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế trong việc thực
hiện kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế.
Tổ chức quản lý thuế là hoạt động của cả một hệ thống, được vận hành

bởi con người được xã hội phân công lao động. Vì là một hệ thống điều hành
bởi con người, hoạt động quản lý thuế không thể lúc nào cũng trơn tru, hoàn
hảo trên tất cả các khâu của hệ thống. Mặt khác, quản lý thuế là một công việc
phức tạp, gần với đồng tiền, vì vậy dễ nảy sinh tiêu cực. Từ đó phát sinh công
tác kiểm tra sự hoạt động của bộ máy quản lý thuế. Một mặt, đánh giá thực
trạng hoạt động của bộ máy, mặt khác để phòng ngừa và xử lý nghiêm các
trường hợp cố tình vi phạm. Công tác kiểm tra đối với bộ máy quản lý thuế có
thể chia thành hai cách thức:
- Công tác tự kiểm tra: Đây là hoạt động của bộ máy thanh tra nội bộ,
mục đích nhằm chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
của các cán bộ thuế. Công tác tự kiểm tra mang tính chất thường xuyên, liên
tục đối với tất cả các cấp trong hệ thống quản lý thuế từ Tổng cục thuế, Cục
thuế đến Chi cục thuế.
23
- Công tác kiểm tra của các đơn vị ngoài ngành thuế: Thường được tổ
chức theo chương trình, kế hoạch định sẵn của các cơ quan thuộc Nhà nước
như: Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Bộ Tài chính. Mục
đích thanh tra, kiểm tra của các đơn vị này cũng nhằm phát hiện và chấn
chỉnh sai phạm của cơ quan thuế các cấp nhưng trên quan điểm khách quan
do độc lập với ngành thuế.
Vì vậy để đảm bảo hoạt động kiểm tra giám sát chấp hành tốt nhiệm vụ,
công vụ của chi cục thuế thị xã Tam Điệp, tuân thủ nghiêm túc các quy định
của pháp luật, đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hoá ngành thuế.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của công tác kiểm tra sự tuân thủ trong
toàn ngành thuế; góp phần đưa công tác quản lý thuế và quản lý nội bộ Chi
cục thuế thị xã Tam Điệp đi vào nề nếp, xây dựng ngành thuế ngày càng vững
mạnh toàn diện.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đối
với hộ kinh doanh cá thể.
1.2.3.1. Môi trường quản lý thuế

Việt Nam đang trên bước đường thành công trong công cuộc phát triển
kinh tế với các thành tựu của hơn 20 năm đổi mới. Tình hình chính trị ổn
định, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao cũng là
những nhân tố tác động tích cực đến sự phát triển của các hộ kinh doanh cá
thể. Bên cạnh đó cũng còn những khó khăn nhất định như, việc ban hành các
sắc thuế quá phức tạp, qui định không rõ ràng, thủ tục hành chính về thuế
rườm rà gây khó khó khăn cho người nộp thuế và cán bộ thuế, trình độ hiểu
biết về thuế và ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh về thuế của các tầng lớp
dân cư còn hạn chế, nếu các hộ kinh doanh cá thể hiểu Luật thuế và các quy
định khác liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình thì việc thực hiện
Luật thuế sẽ được tuân thủ ở mức độ cao và ngược lại, nếu không hiểu biết,
24

×