Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.56 KB, 53 trang )












LUẬN VĂN:

Thực trạng tác động của cơ chế lãi
suất thị trường đối với nền kinh tế















Lời mở đầu



Phát triển nền kinh tế ở mức cao và bền vững, xoá hẳn 2 từ đói nghèo trên đất
nước là mục tiêu theo đuổi của tất cả các nước trên thế giới. Tuỳ theo mỗi thời kỳ,
giai đoạn mà mỗi nước lựa chọn riêng cho mình một con đường đi đến đích thích
hợp là sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì con đường đi
chung mà tất cả các nước đều lựa chọn đó là con đường hội nhập nền kinh tế trong
nước với nền kinh tế khu vực và thế giới mà chúng ta hay gọi là xu thế hội nhập.
Việt nam đang từng bước đi trên con đường chung đó, xong trước mắt còn rất
nhiều gian nan thử thách bởi nền kinh tế Việt Nam còn rất nhiều bất cập chưa đáp
ứng được điều kiện của hội nhập. Thấy được những khó khăn của mình thời gian
qua Nhà Nước ta đã chỉ đạo thực hiện rất nhiều chính sách để đổi mới toàn diện nền
kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập diễn ra nhanh chóng và an toàn. Nghành
ngân hàng một nghành kinh tế chủ lực của nền kinh tế đã thực hiện tốt vai trò nhiệm
vụ của mình trong thời kỳ đổi mới với việc thực hiện điều hành chính sách tiền tệ
hiệu quả như ổn định giá trị tiền tệ, kiềm chế lạm phát của NHNN. Với hệ thống
ngân hàng thương mại thì ngày càng hoàn thiện các nghiệp vụ của mình thực hiện
tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế thời gian qua. Trong giai đoạn
hiện nay giai đoạn mà xu thế hội nhập diễn ra nhanh chóng thì nghành ngân hàng có
những đổi mới tích cực diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết thể hiện ở việc điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN với hàng loạt các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng của các công cụ chính sách tiền tệ. Một trong những chính sách đổi mới
trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNđể góp phần tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế để quá trình hội nhập diễn ra nhanh là sự thay đổi trong điều hành
lãi suất với việc bỏ cơ chế quản lý lãi suất bằng biện pháp hành chính sang cơ chế
lãi suất thị trường. Đây được coi là một đổi mới có tính đột phá trong điều hành
chính sách tiền tệ của NHNNgây chú ý của các thành phần kinh tế trong xã hội. Với
mong muốn tìm hiểu về cơ chế lãi suất mới này Em chọn đề tài “Một vài suy nghĩ





về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất
thị trường – lãi suất thoả thuận” cho bài viết chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội
dung bài viết của Em được chia làm 3 phần như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất trị trường.
Chương 2: Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế.
Chương 3: Một vài suy nghĩ và những kiến nghị nhằm thực hiện thành công cơ chế
lãi suất thoả thuận.



Chương 1
Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất thị trường

1.1. Khái niệm lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tiết kiệm và đầu tư tồn tại như một tất
yếu vì nó xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong nền kinh tế - tuần hoàn
vốn tiền tệ, thể hiện cùng một lúc có những chủ thể trong nền kinh tế tạm thời có
vốn chưa sử dụng gọi là thừa vốn tạm thời, ngược lại có những chủ thể ở tình trạng
thiếu vốn tạm thời. Hiện tượng này tạo mâu thuẫn trong xã hội cần được giải quyết
nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí về vốn và căng thẳng về vốn. Tín dụng là
phương pháp điều hoà vốn nhằm giải quyết mâu thuẫn trên và đưa vốn sử dụng có
hiệu quả trong nền kinh tế.
Khi sử dụng bất kì khoản tín dụng nào, người đi vay cũng phải trả thêm 1
phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu cho người cho vay phần tăng thêm này
gọi là lợi tức mà theo Mác thì đây chính là giá cả về quyền sử dụng vốn vay. Tỷ lệ
phần trăm của lợi tức so với vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất.
Vậy lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong thời gian nhất định
mà người sử dụng vốn vay trả cho người sở hữu vốn.





Trong nền kinh tế thị trường, người đi vay cũng như người cho vay có thể là
chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình hoặc cá nhân nước ngoài. Lãi suất tác
động đến cả hai chủ thể người đi vay và người cho vay. Đối với người đi vay, lãi
suất tạo nên một khoản chi phí, làm giảm lợi nhuận còn đối với người cho vay, lãi
suất là một nguồn tạo ra thu nhập. Vì vậy, sự biến động của lãi suất ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống hàng ngày của mọi chủ thể kinh tế cụ thể như, lãi suất tác động
đến những quyết định của các cá nhân, các doanh nghiệp như chi tiêu hay để dành,
mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền tiết kiệm v.v. Do những ảnh hưởng đó của
lãi suất đến nền kinh tế cho nên ngân hàng Nhà Nước với tư cách là người quản lí vĩ
mô nền kinh tế, luôn phải xác định cơ chế điều hành lãi suất sao cho phù hợp với
từng thời kì của nền kinh tế từ đó thoả mãn được nhu cầu của cả người tiết kiệm và
người đầu tư.
1.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế.
- Lãi suất là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Lãi suất là một công cụ
kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh tế
tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
- Lãi suất ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vì
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có những sản phẩm tốt, muốn vậy
doanh nghiệp phải luôn cải tiến công nghệ sản xuất, nhưng điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải đầu tư một lượng vốn lớn mà bản thân doanh nghiệp không thể bỏ ra
ngay được. Vì vậy, doanh nghiệp phải vay vốn từ các ngân hàng, lãi suất phải trả
cho các khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất thấp sẽ
khuyến khích doanh nghiệp vay vốn đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, lãi suất là công cụ buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả do nếu
không sử dụng hiệu quả vốn vay thì doanh nghiệp rất dễ dẫn đến phá sản.
- Lãi suất là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại: điều
này được thể hiện rõ ràng trong cơ chế lãi suất thị trường, vì các ngân hàng thương

mại muốn tăng khối lượng vốn huy động, đồng thời mở rộng quan hệ tín dụng với
khách hàng thì các ngân hàng thương mại phải hạ lãi suất cho vay đồng thời tăng lãi




suất huy động ở mức cho phù hợp với ngân hàng mình điều này là có lợi cho các
chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ và ngày càng hoàn thiện để có chỗ đứng trên thị trường.
- Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
- Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế: nhìn vào tình
hình biến động lãi suất trên thị trường trong một thời gian, người ta có thể thấy
được tình hình kinh tế của một quốc gia. Trong giai đoạn đang phát triển của nền
kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cung – cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc
độ tăng của cầu quỹ cho vay nhanh hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng giảm xuống. Lãi
suất, mức lạm phát tính có mối quan hệ chặt với nhau cho nên căn cứ vào tình hình
biến động của lãi suất có thể dự đoán được các yếu tố kinh tế khác.
1.3 . Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà Nước qua các thời kì.
Lãi suất là một công cụ đặc biệt quan trọng trong tay NHNN để hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế,
nó tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, tích luỹ, tiêu dùng,
tiết kiệm và đầu tư… Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn nước ta trong nhiều năm đổi
mới cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với mục tiêu ổn
định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng
trưởng kinh tế. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập chung sang nền kinh tế thị
trường, cùng với việc đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt
động ngân hàng, cơ chế điều hành lãi suất đã được NHNN cải cách từng bước theo
hướng lãi suất thị trường và thu được những thành quả cơ bản, sử lí dần dần các bất
hợp lí trong cơ chế lãi suất, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần dần được nới

lỏng theo hướng đi tự do hoá với những bước đi thận trọng, cụ thể như sau:
- Thời kì từ năm 1992 trở về trước: Cơ chế lãi suất tín dụng thời kì này thể hiện sự
bao cấp về vốn của Nhà nước đối với nền kinh tế, lãi suất âm (lãi suất cho vay thấp
hơn lãi suất tiền gửi), ngân hàng quy định cụ thể từng mức lãi suất tiền gửi và lãi




suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề và lãi suất phân biệt
theo từng thành phần kinh tế.
- Thời kì từ 6/1992 đến 1995: Giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, lãi
suất cho vay bình quân cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất tiền gửi bình
quân cao hơn tỷ lệ lạm phát. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể thời kì
trước được thay thế bằng khung lãi suất (lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi
tối thiểu), trong phạm vi khung lãi suất của NHNN, các TCTD được phép ấn định
các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt động kinh
doanh và cung cầu vốn từng thời điểm. Cơ chế lãi suất thời kì này thực sự phát huy
vai trò tự nhiên vốn có của nó là đòn bẩy kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy
trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả người gửi tiền, người vay và
NHTM kinh doanh có lãi.
- Thời kì từ năm 1996 đến tháng 7/ 2000: Thời kì tiếp tục chính sách lãi suất thực
dương nhưng được nới lỏng hơn thời kì trước đó, bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi
suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhau cho khu vực thành thị, nông
thôn hoặc các loại hình TCTD trong thời hạn nhất định. Lãi suất tiền gửi bắt đầu
được tự do hoá. Cùng với cơ chế tín dụng thương mại, các TCTD còn thực hiện cơ
chế tín dụng ưu đãi thông qua chính sách lãi suất, đối với các đối tượng chính sách
xã hội theo chỉ đạo của chính phủ.
- Thời kì từ tháng 8/2000 đến 30/5/2002: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành lãi
suất theo trần sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt
Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lí đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, phù

hợp với luật NHNN và luật các TCTD. Đặc biệt từ tháng 6/2001, cơ chế điều hành
lãi suất ngoại tệ được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng, với việc bỏ quy định về
biên độ lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ, lãi suất cho vay đô la Mỹ nói riêng và cho
vay ngoại tệ nói chung đã hoàn toàn được tự do hoá. Các TCTD ấn định lãi suất cho
vay bằng đô la Mỹ theo thoả thuận với khách hàng, dựa trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Cơ chế lãi suất
tín dụng thời kì này là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hoá lãi suất, đáp




ứng đòi hỏi của nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế lãi suất
tái chiết khấu của NHNN đối với các TCTD cũng dần được đổi mới từ cho vay trực
tiếp nhằm bổ xung nguồn vốn lưu động cho TCTD sang cho vay tái cấp vốn, thực
hiện vai trò NHNN là người cho vay cuối cùng. Lãi suất cho vay tái cấp vốn được
điều chỉnh tăng hay giảm phù hợp với nội dung và mục tiêu của chính sách tiền tệ
từng thời kì có tác động một cách gián tiếp lên lãi suất thị trường tiền tệ.
Tổng quan nhận xét rằng, trong 15 năm đổi mới vừa qua, cơ chế lãi suất của
NHNN đã được hoạch định và điều hành theo định hướng tích cực, nới lỏng từng
bước hướng tới tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước, mức độ
hội nhập của nền kinh tế nước ta với thị trường tài chính khu vực và thế giới. Cơ
chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn, bám theo cung cầu vốn thị
trường, dần dần mở rộng quyền chủ động xác định lãi suất kinh doanh cho các
TCTD để tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát và điều hành
của NHNN đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đi sâu vào cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản, NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của các TCTD đối với
khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham
khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách
hàng có uy tín và một số các tiêu thức kinh tế vĩ mô khác. Mức lãi suất cơ bản được
cộng thêm một biên độ bằng số phần trăm tuyệt đối sẽ là giới hạn lãi suất tối đa cho

các TCTD được phép cho vay. Điểm khác biệt về nội dung đổi mới của cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản khác với cơ chế điều hành lãi suất trước đó, kể cả cơ chế
điều hành lãi suất trần là, việc xác định một mức lãi suất dựa vào quan hệ cung cầu
vốn tín dụng trên thị trường, thông qua việc tính toán bình quân các mức lãi suất
huy động và cho vay của một số NHTM được chọn làm đại diện cụ thể là 15 ngân
hàng, đồng thời tham khảo cân nhắc thêm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng,
lãi suất thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc và một số tiêu thức tăng
trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá Mức lãi suất này làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng thực hiện cho vay. Rõ ràng là, nếu như cơ chế lãi suất trước đó chủ yếu được
điều hành theo ý thức chủ quan áp đặt, hành chính thì cơ chế lãi suất này đã thể




hiện một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu thị
trường, chú trọng đến cung cầu vốn tín dụng và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lãi
suất cơ bản cộng với một biên độ xác định trong từng thời kì, mặc dù biện pháp này
còn mang tính hành chính, nhưng sự can thiệp chỉ mang tính chất quy định về
nguyên tắc chung của NHNN và không quy định trực tiếp, cụ thể mức lãi suất cho
vay của các TCTD. Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh
hoạt đã tạo điều kiện bám sát tín hiệu thị trường, cung cầu vốn tín dụng, đáp ứng
mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền
tệ. Tuy nhiên, để phù hợp với cơ chế thị trường ngày càng phát triển và hoàn thiện ở
nước ta thì cơ chế lãi suất cần phải thay đổi sao cho phù hợp với thị trường.
- Từ 30/ 5/ 2002 đến nay: Ngày 30/ 5/ 2002, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban
hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với
khách hàng. Rõ ràng đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết
trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn
tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn. Đến đây thì lãi suất thực

sự đã được tự do hoá, được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn và bộc lộ
những vai trò vốn có của nó.
1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo cơ chế thị trường
Thực tiễn việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua cho
thấy chính sách lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Sự vận
động, thay đổi chính sách lãi suất có tác động nhanh và mạnh đến thị trường tiền tệ,
tín dụng tạo hiệu ứng rõ rệt đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tác động
đối với nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất chưa được sử
dụng một cách đầy đủ như một đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế,
chuyển sang cơ chế thị trường, lãi suất phát huy mạnh mẽ vai trò vốn có của nó với
tư cách là giá cả của vốn và chịu tác động của quan hệ cung cầu.
1.4.1. Cải cách kinh tế theo hướng thị trường đòi hỏi phải cải cách lãi suất




Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra
chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, một nội dung đổi mới có tính chất then chốt là chuyển hệ
thống ngân hàng từ 1cấp sang 2 cấp. Quá trình đổi mới bắt đầu từ 3/ 1988 theo nghị
định 53/ NĐ của chính phủ và chính thức từ pháp lệnh ngân hàng 5/ 1990. Qua hơn
10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, các chính sách về giá cả (giá cả hàng
hoá, tỷ giá hối đoái) ở Việt Nam đã được cải cách đáng kể theo định hướng thị
trường, theo định hướng đó cơ chế bao cấp ở khu vực ngân hàng cũng từng bước
được xoá bỏ và thay vào đó là chế độ hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Hệ thống ngân hàng 2 cấp được xác lập, NHNN thực hiện chức năng NHTƯ và
quản lí nhà nước về tiền tệ. Hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng
NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường, lãi suất
ngân hàng với tư cách là một loại gía cũng từng bước được chuyển đổi theo hướng
thị trường. Từ lãi suất thực âm chuyển sang lãi suất thực dương với các mức khống

chế trần sàn lãi suất cho vay, loại bỏ dần các mức khống chế và giai đoạn gần đây
nhất là cơ chế lãi suất cơ bản. Thực chất cơ chế này cũng vẫn còn là một hình thức
lãi suất trần và trong giai đoạn hiện nay cơ chế này đã không còn phù hợp nữa do
những hạn chế của nó vì vậy cần phải có cơ chế lãi suất mới phù hợp hơn.
Những hạn chế của cơ chế lãi suất cơ bản trong nền kinh tế thời gian qua
được bộc lộ như:
- Sau gần hai năm áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản từ tháng 8/ 2000 đến tháng 6/
2002 cho thấy, biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay dài
hạn là khá rộng cho các TCTD định đoạt mức lãi suất cho vay, kể cả việc cộng thêm
các khoản chi phí liên quan đến khoản vay mà không vượt quá biên độ tối đa cho
phép. Song thực tế thấy rằng biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với cácTCTD Nhà
Nước và các khoản tín dụng khu vực thành thị. Còn đối với các TCTD cổ phần và
các khoản tín dụng khu vực nông thôn là chưa thoả đáng cụ thể:
Bảng1.1: Lãi suất cơ bản đơn vị:% tháng




Thời gian
Lãi
suất
cơ bản

Trần lãi suất cho vay

Lãi suất cho
vay bình quân
khu vực thành
thị
Lãi suất cho

vaybìnhquân
khuvực nông
thôn
Cho vay
ngắn hạn
Cho vay
dài hạn
8/ 00 đến 2/ 01 0,75 1,05 1.25 0,775 1,1
3/ 2001 0,725

1,025 1,225 0,75 1,1
4/ 2001 0,70 1,0 1,20 0,75 1,05
5/ 01 đến 9/ 01 0,65 0,95 1,15 0,75 1,05
10/01đến 5/ 02 0,60 0,9 1,10 0,725 0,9
Nguồn số liệu: Tạp chí ngân hàng số 7/2002
Theo bảng số liệu ta thấy lãi suất cho vay bình quân cả ngắn hạn và dài hạn
của khu vực thành thị ngày càng giảm và luôn cách xa lãi suất trần. Còn khu vực
nông thôn lãi suất cũng ngày càng giảm tuy có áp sát với lãi suất trần. Điều này đã
cho thấy vai trò của biên độ nhằm xác định trần lãi suất cho vay tối đa của các
TCTD đã không còn ý nghĩa đối với xu hướng ngày càng giảm lãi suất cho vay
trong nền kinh tế trong giai đoạn này.
- Trong tình hình phát triển kinh tế hiện nay nhu cầu vốn của nền kinh tế để đầu tư
vào các phương án, dự án sản xuất kinh doanh là rất lớn. Điều này đòi hỏi các
TCTD phải đẩy mạnh việc khai thác vốn bằng nhiều cách để đáp ứng nhu cầu tín
dụng để đầu tư phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp tăng huy động vốn
của các tổ chức tín dụng là tăng lãi suất huy động vốn. Nhưng muốn tăng lãi suất
huy động (lãi suất đầu vào) thì cũng phải tăng lãi suất cho vay thì mới đảm bảo
yêu cầu kinh doanh không bị lỗ của các TCTD. Trong khi đó lãi suất cho vay lại bị
ấn định bởi lãi suất trần tối đa, như vậy cho dù lãi suất huy động không bị quy định
mức trần tối đa nhưng các TCTD vẫn không thể tăng lãi suất vượt mức lên được do

như vậy thì chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra không đảm bảo TCTD
kinh doanh có lãi. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay là một vấn đề thống nhất,
đã tạo quyền tự do xác định lãi suất huy động, thì cũng cần tạo quyền tự do xác




định lãi suất cho vay cho các TCTD, đó là sự cần thiết cho quá trình tổ chức kinh
doanh của các TCTD, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
-Lãi suất cơ bản với bản chất là quy định mức lãi suất trần cho vay chủ yếu nhằm
mục tiêu khống chế các TCTD không được cho vay với lãi suất cao vượt quá mức
ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế thị trường, các TCTD sẽ ngày càng cạnh tranh quyết liệt thông qua việc hạ
lãi suất cho vay đến mức thấp nhất có thể được để thu hút khách hàng. Các TCTD
không dễ độc quyền, tự do tăng lãi suất cho vay khi không được thị trường và khách
hàng chấp nhận. Điều này chứng tỏ việc khống chế trần lãi suất cho vay sẽ không
còn là vấn đề quan trọng trong khi nền kinh tế thị trường đã đặt các TCTD vào
cuộc cạnh tranh để tìm kiếm khách hàng và tăng thị phần tín dụng trong nền kinh tế.
- Đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn ngoài những khoản tín dụng chính sách
ưu đãi đã được chính phủ có quy định cụ thể các mức lãi suất thấp với các khoản
cho vay chỉ định sẽ là những khoản tín dụng thương mại cần được thực hiện theo lãi
suất thị trường. Cơ chế lãi suất thị trường này chính là sự thoả thuận giữa TCTD và
người vay vốn để đảm bảo yêu cầu kinh doanh của cả hai bên. Trên thực tế ở nhiều
vùng nông thôn người vay cần được hỗ trợ nhiều hơn về khối lượng, thời hạn, thủ
tục thuận lợi vay vốn hơn là vấn đề lãi suất. Sự chủ động về lãi suất tín dụng sẽ vừa
tạo sự chủ động kinh doanh của các TCTD vừa tạo cơ hội tiếp cận nhiều hơn các
khoản tín dụng trên thị trường chính thức của các tổ chức kinh tế và các hộ nghèo
vay vốn. Bởi thực tế lãi suất trên thị trường chính thức của các TCTD còn thấp hơn
nhiều các khoản tín dụng nặng lãi vẫn phổ biến ở các khu vực nông thôn hiện nay.
- Từ thực tế thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay bằng ngoại tệ cho thấy gần

hai năm thực hiện cơ chế này, tỷ giá và thị trường ngoại hối không những vẫn đảm
bảo ổn định mà còn tạo điều kiện cho các TCTD chủ động ấn định lãi suất huy động
và cho vay phù hợp với nhu cầu vốn ngoại tệ, biến động lãi suất thị trường quốc tế,
tăng khả năng huy động vốn, cho vay bằng ngoại tệ, nhất là cho vay đầu tư trung
dài hạn.




Từ những lí do trên cho thấy xu thế khách quan đòi hỏi của thị trường bỏ cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản thay bằng cơ chế lãi suất thoả thuận.
1.4.2. Cải cách khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đòi hỏi cải
cách lãi suất
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng. Nội dung
chủ yếu trong chương trình cải cách ở hệ thống ngân hàng theo định hướng thị
trường là
- Cải cách NHNN về công cụ chính sách, mô hình tổ chức nhằm nâng cao
năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính của NHNN
trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế.
- Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo tính an toàn, lành
mạnh và hiệu quả trong hoạt động, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
trong những năm tới.
Cải cách NHNN và chính sách tiền tệ:
Từ những năm 90 đến nay NHNN đã từng bước đưa ra các công cụ gián tiếp
thay thế các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, vai trò quản lí nhà
nước đã được tăng cường. Nhưng nhìn từ góc độ về chính sách tiền tệ trong mục
tiêu trung gian chỉ có thể chọn mục tiêu là M (tổng lượng tiền cung ứng) hoặc i
(mức lãi suất) vì hai mục tiêu này có mâu thuẫn, nếu cố định mức cung tiền thì phải
thả nổi lãi suất, nếu cố định lãi suất thì NHTƯ phải thường xuyên thay đổi mức
cung tiền tức thả nổi cung tiền mà điều này là không thuận lợi. Nếu cố định cả mức

cung tiền và lãi suất thì nền kinh tế sẽ cứng nhắc, không linh hoạt. ở Việt Nam trong
thời gian qua đã đặt ra cố định bao gồm cả lãi suất và lượng tiền cung ứng tức là ở
mục tiêu trung gian chọn cả hai mục tiêu là lãi suất và lượng tiền cung ứng, đây là
điều bất hợp lí trong điều hành chính sách tiền tệ mà NHNN cần thay đổi nếu chọn
cung tiền làm mục tiêu trung gian thì lãi suất cần phải thả nổi.
Cải cách hoạt động của ngân hàng thương mại theo hướng thị trường:
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam có thị trường chứng khoán chưa
phát triển thì các NHTM và các doanh nghiệp có quan hệ mật thiết đặc biệt là quan




hệ vay mượn vốn. NHTM là người cung ứng vốn theo những cách thức và điều kiện
nhất định các doanh nghiệp là người sử dụng tín dụng và là người trực tiếp tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Khi các ngân hàng không tự quyết định được việc ra
quyết định cho vay (điều kiện và lãi suất phù hợp với từng đối tượng) hoặc trong
điều kiện thiếu thông tin về doanh nghiệp thì sự phân bổ tín dụng trong nền kinh tế
sẽ có nguy cơ không hiệu quả và danh mục tín dụng của ngân hàng sẽ chứa nhiều
rủi ro.
Mặc dù từ năm 1990 các ngân hàng thương mại bắt đầu hoạt động theo
nguyên tắc thị trường, nhưng trên thực tế hình thức hỗ trợ, bao cấp cho các doanh
nghiệp nhà nước qua tín dụng ngân hàng vẫn tồn tại. Điều đó chứng tỏ quan hệ tín
dụng giữa hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp chưa thực sự là quan hệ tín dụng
thương mại. Bản thân ngân hàng thương mại vẫn chưa tỏ ra chủ động kinh doanh
chưa phát huy cao tính độc lập. Việc chuyển đổi sang tín dụng thương mại với lãi
suất thị trường sẽ tăng cường khả năng hoạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả
nguồn vốn xã hội. Mặt khác nếu tồn tại cơ chế bao cấp tín dụng trong khi các doanh
nghiệp nhà nước đang được cải cách theo hướng thị trường và thực hiện hoạch toán
kinh tế thực sự hơn thì sẽ dẫn đến sự bóp méo kết quả kinh doanh của các doanh
nghiệp.

Rõ ràng là khi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp được
chuyển đổi theo hướng thương mại thì đòi hỏi cơ chế lãi suất thương mại. Các
NHTM với chức năng là huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế và thực
hiện cho vay trên cơ sở phân tích, đánh giá doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh trong điều kiện môi trường nhất định và do đó họ sẵn sàng chấp
nhận vay vốn với những mức nhất định trong khi đó NHTM cũng huy động được
một lượng vốn với những chi phí nhất định và với những điều kiện rủi ro nhất định
họ cũng sẵn sàng cho vay tới doanh nghiệp với một mức lãi suất có thể chấp nhận
được đủ để bù đáp những chi phí và rủi ro có thể sảy ra.
1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi cải cách mạnh mẽ lãi suất




Xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay diễn ra nhanh hơn bao giờ
hết điều này dẫn đến thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Chu chuyển vốn
không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà vượt ra ngoài danh giới ấy. Những
hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế cũng đang ngày càng bị bãi bỏ. Việt Nam đã áp
dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đối với ngoại tệ từ tháng 6/2001 tức là lãi suất ngoại
tệ biến động theo cung cầu ngoại tệ trong nước và tình hình thị trường tài chính
quốc tế trong khi lãi suất nội tệ ở mức cố định bị khống chế đã dẫn đến hiện tượng
điều chỉnh danh mục tài sản trong công chúng do hiệu ứng thu nhập. Trong trường
hợp lãi suất ngoại tệ tăng nên do diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế thì dân
chúng sẽ chuyển sang đầu tư ngoại tệ và dẫn đến hiện tượng “chạy trốn” khỏi đồng
nội tệ mà hiện tượng này gọi là hiện tượng đô la hoá. Tình trạng này đã diễn ra ở
Việt Nam từ cuối năm 1998 và mạnh mẽ vào năm 2001 theo dõi hoạt động tiền gửi
bằng VND và ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng thương mại ta thấy:


Bảng1.2: Tiền gửi tại các NHTM.

đơn v
ị nghìn tỷ VND
Năm 1999 200
0
200
0
200
0
2000 200
1
200
1
200
1
Tháng 12 3 6 9 12 3 6 8
1. Tiền gửi của khối doanh nghiệp
- Bằng VND 37,8 41,8 45,5 49,7 59,4 58,0 59,8 62,3
- Bằng ngoại tệ 21,2 23,1 24,3 25,3 25,2 30,1 32,8 35,1
Trong đó tiền gửi
ngoại tệ thanh toán
12,3 13,9 12,8 12,6 13,5 14,0 13,2 13,5
2. Tiền gửi của khối dân cư
- Bằng VND 26,6 30,6 30,9 31,2 29,9 35,6 35,9 35,1
- Bằng ngoại tệ 22,6 27,0 29,1 33,6 45,1 47,8 51,5 54,6




Trong đó tiền gửi
ngoại tệ thanh toán

0,6 0,7 0,7 0,8 3,3 1,4 1,3 2,1
Nguồn: Tạp chí ngân hàng tháng 8/2002
Theo bảng số liệu trên thấy rằng chênh lệch lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đã
tác động lớn đến lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế và các cá nhân. Số lượng
tiền gửi bằng ngoại tệ liên tục tăng lên đặc biệt lượng tiền gửi của khối dân cư bằng
ngoại tệ trong các năm luôn cao hơn lượng gửi bằng VND.
1.5. Những điều kiện để thực hiện cơ chế lãi suất thị trường
Quan hệ cung cầu tiền tệ phản ánh bằng chính lãi suất thị trường theo quy luật
cung cầu. Nếu cung tiền tệ tăng thì lãi suất giảm, cầu tiền tệ tăng thì lãi suất tăng.
Điều này cho thấy lãi suất là hệ quả tất yếu của quan hệ cung cầu quỹ cho vay trên
thị trường. Đối với các trung gian tài chính, lãi suất là yếu tố “đầu vào”, “đầu ra”
và là công cụ cạnh tranh trên thị trường tiền tệ. Đối với hoạt động kinh tế vĩ mô, lãi
suất là một trong những công cụ kiểm soát và điều tiết thị trường nhằm ổn định và
thúc đẩy kinh tế phát triển, thể hiện ở vai trò của nó: Tạo động lực kích thích tiết
kiệm, phân bổ các nguồn vốn tài chính, góp phần giữ vững các cân đối kinh tế chủ
yếu trong nền kinh tế, kiềm chế lạm pháp, ổn định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại
của tiền tệ. Tạo điều kiện cho sự phát triển các TCTD hướng các khoản vốn tín
dụng vào các lĩnh vực hoạt động có hiệu quả và tỷ suất lợi nhuận cao nhất, đảm bảo
cho các TCTD trang trải được chi phí hoạt động bù đắp rủi ro và có lợi nhuận. Lãi
suất chỉ thực sự phát huy tốt nhất những vai trò đó khi nó thực sự là lãi suất thị
trường. Tuy nhiên không phải trong trong thời kỳ nào của nền kinh tế cũng áp dụng
cơ chế lãi suất thị trường có hiệu quả. Lãi suất thị trường chỉ phát huy hiệu quả khi
nền kinh tế có những điều kiện nhất định.
Đối với NHTƯ các nước đã áp dụng cơ chế lãi suất thị trường, việc sử dụng
công cụ lãi suất đều trải qua quá trình từ can thiệp bằng quy định mang tính hành
chính- kiểm soát trực tiếp, rồi tiến tới tự do hoá lãi suất. Về bước đi tiến tới cơ chế
lãi suất thị trường, mỗi nước tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội và khả năng,
mục tiêu phát triển nền kinh tế để lựa chọn bước đi nhanh hoặc bước đi dần dần





theo kế hoạch đã vạch ra từ trước, nhằm tránh cho thị trường tài chính những tổn
thương có thể sảy ra, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trong nước có thời
gian thích nghi, điều chỉnh hoạt động kinh doanh phù hợp với sự thay đổi của thị
trường. Trình tự thực hiện cơ chế lãi suất thị trường tuy có sự khác nhau giữa các
nước và kết quả đạt được tuy có khác nhau song nhìn chung khi chuyển sang cơ chế
lãi suất thị trường các nước đều phải đáp ứng các điều kiện kinh tế sau:
- Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: về nhịp độ tăng trưởng, phát triển kinh tế,
giá cả, lạm phát… Bởi nếu, môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định do tác động
nào đó sẽ ảnh hưởng tới tiến trình tự do hoá lãi suất. Đồng thời, các luật pháp, chính
sách, nhất là cơ chế chính sách có liên quan, tác động trực tiếp đến lãi suất, tỷ giá
phải thích ứng, đảm bảo việc điều hành linh hoạt, nhanh, kịp thời khi có tác động
bất lợi đến lãi suất.
- Hệ thống tài chính đủ mạnh thể hiện ở năng lực tài chính, khả năng thanh
toán đảm bảo hoạt động có hiệu quả, an toàn, lành mạnh, có thể chủ động đối phó
với tình hình sấu có thể sảy ra khi thực hiện tự do hoá lãi suất, dù là nguyên nhân
khách quan hay chủ quan do bên trong nước hay ngoài nước gây ra
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo có
hiệu quả có khả năng tài chính đáp ứng được các nhu cầu thanh toán, có thể đối
phó, xử lí khi có tác động bất lợi do lãi suất gây ra.
- NHTƯ có khả năng giám sát và điều hành chính sách tiền tệ để phản ứng
kịp thời trước biến động bất thường của thị trường tài chính- tiền tệ do việc thực
hiện cơ chế lãi suất thị trường, tạo lòng tin đối với dân chúng và các nhà đầu tư đối
với thị trường tài chính.
- Chính sách tỷ gía linh hoạt và sự ổn định của thị trường tiền tệ thế giới:
cơ chế lãi suất thị trường gắn liền với chế độ tỷ giá linh hoạt, làm cho quan hệ lãi
suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ không bị bóp méo, tránh tác động sấu đối với thị
trường trong nước.
- Hoạt động của hệ thống ngân hàng vững vàng trước sự cạnh tranh trên

thị trường tiền tệ khi thực hiện lãi suất thị trường.




1.6. Những tác động tích cực của cơ chế lãi suất thị trường nên nền kinh tế nói
chung
Chuyển sang cơ chế lãi suất thị trường là bước đi tất yếu trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường ở tất cả các quốc gia. Khi lãi suất thực
sự được hình thành theo cung cầu tiền tệ trên thị trường và bị tác động bởi các yếu
tố từ thị trường thì nó cũng sẽ tác động trở lại thị trường một cách tích cực hoặc tiêu
cực. Tuy nhiên với một nền kinh tế đã đủ điều kiện thực hiện cơ chế lãi suất thị
trường thì lãi suất thị trường thường mang lại những tác động tích cực hơn là tiêu
cực nó thể hiện ở những khía cạch sau:
- Việc thực hiện cơ chế lãi suất thị trường là yếu tố có tính hạt nhân để thúc đẩy
thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, làm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy các
dịch vụ tài chính phát triển, góp phần ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Cơ chế lãi suất thị trường tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực
trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với chính sách kinh tế - tài
chính - đối ngoại trong nền kinh tế thị trường.
- Cơ chế lãi suất thị trường làm cho lãi suất tự điểu chỉnh linh hoạt và phù hợp
với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi
nhận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy các ngân hàng
thương mại phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa
ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp với khách hàng.
- Khi áp dụng lãi suất thị trường thì làm cho lãi suất trong nước bám sát hơn lãi
suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nước và từ nước ngoài tăng lên tài trợ cho
nhu cầu tín dụng trong nước. Lãi suất thị trường gắn liền với quá trình lới lỏng kiểm
soát ngoại hối, thực hiện chế độ lỷ giá linh hoạt thúc đẩy hoạt động ngoại thương

phát triển.
- Khi lãi suất thực hiện cơ chế lãi suất thị trường tức là lãi suất đã trong giai
đoạn tự do hoá điều này sẽ thúc đẩy cạnh tranh trong các ngân hàng thương mại.
Cạnh tranh thúc đẩy tiến bộ và dân chủ hoá hoạt động ngân hàng. Không một ngân




hàng nào có thể duy trì ưu thế lâu dài khi mà những ngân hàng khác, vì sự tồn tại và
phát triển của mình đã không ngừng tự đổi mới vươn lên. Khách hàng được quyền
xem xét chọn lựa ngân hàng mình thấy tốt để giao dịch điều này tạo nên mối quan
hệ bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa khách hàng và ngân hàng.
- Lãi suất thị trường làm tăng mức biến động của các luồng vốn đầu tư, NHNN
phải sử dụng và phát huy hơn nữa các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền
tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị
trường tiền tệ.
- Ngân sách nhà nước có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước
để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành.






























Chương 2
thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế

2.1. Những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam khi thực hiện lãi suất thị
trường - lãi suất thoả thuận
Từ kinh nghiệm các nước và từ thực tế cho thấy chỉ thực hiện cơ chế lãi suất thị
trường thành công trong điều kiện nền kinh tế cụ thể nhất định như : Nền kinh tế
phát triển theo định hướng thị trường, chính phủ có khả năng giảm thiểu những mất
cân đối vĩ mô bằng chính sách tài khoá hoặc phối hợp sử dụng các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ trực tiếp và gián tiếp. Thị trường tài chính phát triển có
chiều sâu, thống nhất và hoạt động trên cơ sở cạnh tranh. Ngân hàng trung ương có
thể dựa hoàn toàn vào công cụ gián tiếp có tính thị trường để điều tiết tỷ giá, lãi
suất, các biện pháp kiểm soát bị bãi bỏ. Hệ thống NHTM hoạt động trên nguyên tắc

thị trường hiệu quả v.v . Đối chiếu các điều kiện đó với thực trạng thị trường tài
chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể thấy Việt Nam đã đáp ứng được phần
nào những điều kiện cơ bản xong bên cạnh đó vẫn còn không ít những khó khăn
thách thức khi thực hiện cơ chế lãi suất thị trường.
2.1.1. Những điều kiện thuận lợi khi thực hiện lãi suất thị trường
Như đã phân tích ở trên hoạt động tín dụng thực chất là đi vay để cho vay, vì
vậy ngân hàng luôn tìm cách đi vay được, đồng thời cũng phải cho vay được. Muốn
vậy một điều kiện cơ bản là lãi suất đi vay và lãi suất cho vay phải phù hợp cả
người gửi và người vay và họ đều chấp nhận. Chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất
đầu ra bù đắp được chi phí nghiệp vụ ngân hàng, trích lập rủi ro và mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất do thị trường mà trước
hết do người vay quyết định, khi kinh tế phát triển, lợi nhuận tăng, nhu cầu đầu tư
sản xuất phát triển, nhu cầu vốn cao, người vay sẽ chấp nhận mức lãi suất cao hơn.
Lãi suất là giá cả của tín dụng và do cung cầu vốn quyết định, nhưng khác với hàng
hoá thông thường hàng hoá tiền vốn gắn chặt và ảnh hưởng đến nền kinh tế: lạm
phát, tỷ giá, lãi suất gắn chặt với nhau và nếu không có cơ chế quản lí tốt, phù hợp




có thể dẫn đến rối loạn, khủng hoảng kinh tế. Điều này đã sảy ra với các nước trong
khu vực năm 1997-1998 và với Mehicô gần đây. Nghĩa là, mặc dù là sản phẩm của
thị trường, kinh tế hàng hoá, lãi suất vẫn phải được quản lí với một cơ chế thích
hợp. Vai trò của NHNN qua điều hành lãi suất hơn 10 năm qua như đã nói ở trên là
một minh chứng và điều này đã góp phần không nhỏ vào thành tưụ công cuộc đổi
mới của nước ta. Giả sử ngay từ khi xoá bỏ cơ chế tập chung bao cấp chúng ta đã
cho tự do hoá lãi suất như bỏ quản lí với các hàng hóa thông thường và tình hình đã
sảy ra rất sấu. Do cơ chế quản lý vĩ mô và hoạt động của NHNN chưa đủ mạnh, môi
trường pháp lý chưa đồng bộ, chặt chẽ, các tổ chức tín dụng còn non yếu về nghiệp
vụ quản lí, nhiều tổ chức tín dụng đã huy động và cho vay vô tội vạ, cốt kiếm lợi

nhuận cao nên đã buông lỏng điều kiện cho vay dẫn đến nợ sấu của ngân hàng rất
lớn, rất nhiều khoản tín dụng không có khả năng thu hồi. Điều này sảy ra với hệ
thống tín dụng đô thị các năm 1989-1990 khi áp dụng lãi suất thoả thuận.
Do cạnh tranh không lành mạnh các tổ chức tín dụng đua nhau nâng lãi suất
huy động và cho vay. Vốn đầu tư dẫn về khu vực có lợi nhuận giả tạo trong khi các
khu vực sản xuất kinh doanh lành mạnh không hấp thụ được vốn vì lãi suất cho
vay cao hơn lợi nhuận thông thường. Hệ quả của hai điều kiện trên dẫn đến đổ vỡ
từng tổ chức tín dụng bởi vì khu vực kinh tế bong bóng sẽ đương nhiên phá sản.
Kinh nghiệm thực tế các thời kì 1989- 1990, cho thấy điều đó.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản
mà thực chất là cơ chế lãi suất bị khống chế trần thì lại hạn chế sự phát triển kinh tế
do cơ chế này bộc lộ những hạn chế đã phân tích ở trên. Như vậy, để khắc phục
những nhược điểm của lãi suất cơ bản, và đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu vốn cho
các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế, kích thích sản xuất hàng hoá phát triển,
cần áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận thay thế cơ chế lãi suất cơ bản. Vấn đề đặt ra
là nếu thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận liệu có dẫn đến những tiêu cực như đã
sảy ra ở các thời kì trước không? theo các nhà phân tích kinh tế thì điều đó không
thể lặp lại trong giai đoạn hiện nay do môi trường kinh tế hiện nay đã đổi mới và có




những thuận lợi để áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận hay nói cách khác việc áp
dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đã có điều kiện chín muồi như:
Trước hết nhìn vào tình hình phát triển kinh tế trong thời gian qua của Việt
Nam với tốc độ phát triển kinh tế khá cao 6,8% vào năm 2001 và bình quân 7%
trong những năm tiếp theo trong một thời gian dài, tỷ giá tương đối ổn định, cán cân
thanh toán ở mức cân bằng. Việt Nam được coi là môi trường kinh tế vĩ mô tương
đối ổn định. Cùng với hệ thống ngân hàng lành mạnh và cạnh tranh hơn nhiều so
với trước cụ thể như độ sâu tài chính đã được nâng lên từ 20% năm 1998 lên trên

40% vào năm 2002, với 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 38 ngân hàng thương
mại cổ phần, hơn 30 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 1000 quỹ tín dụng nhân
dân. Các ngân hàng đã tạo một sân chơi tương đối bình đẳng cho các ngân hàng
thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh. Thị trường tiền tệ cũng hoạt động sôi
nôỉ hơn, việc ra đời của nghiệp vụ thị trường mở từ 7/2000 với tần suất 1 phiên/10
ngày sau đó 1 phiên/ 2 tuần vào năm 2001và hiện nay là 2 phiên/ 1 tuần đánh dấu
một bước phát triển đúng hướng của nền kinh tế. Đó là những tiền đề cần thiết để tự
do hoá lãi suất và chuyển từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp có hiệu quả mà
nền kinh tế Việt Nam đã đạt được.
Thứ hai nhìn vào việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước
với một loạt bước đổi mới trong điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá
như tự do hoá lãi suất tiền gửi nội tệ từ 1/1996 tiếp đến sử dụng lãi suất cơ bản cộng
thêm biên độ giao động từ tháng 8/2000, từ 6/2001 tự do hoá lãi suất cho vay ngoại
tệ và 5/2002 thực hiện lãi suất thị trường. Với bước đi thận trọng trong đổi mới điều
hành chính sách lãi suất phù hợp với thông lệ quốc tế là điều thuận lợi nữa để thực
hiện lãi suất thị trường mà không gây sốc cho nền kinh tế.
Đi đôi với việc dần thực hiện cơ chế lãi suất thị trường NHNN đã sử dụng
công cụ tái cấp vốn để hỗ trợ đắc lực trong thời kì khan hiếm tiền đồng thông qua
việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu và sử dụng nghiệp vụ
SWAP ngoại tệ giữa ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại bên cạnh đó




NHNN chủ động chủ động mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn để điều tiết vốn
khả dụng của các tổ chức tín dụng phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ.
Hơn nữa NHNN ngày càng tăng tính độc lập trong việc thực thi chính sách tiền tệ
là những điều kiện hết sức quan trọng để đảm bảo cho việc chuyển đổi sang điều
hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp một cách linh hoạt.
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, tiến tới gia nhập tổ chức

thương mại thế giới (WTO), gia nhập AFTA và theo tinh thần của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX.Việc chuyển đổi điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua công cụ gián tiếp thay cho công cụ
trực tiếp tiến tới thực hiện lãi suất thoả thuận là một yêu cầu bức thiết và đã đủ điều
kiện chín muồi. Do vậy, quyết định số 546/ 2002/QĐ- NHNN ngày 30/5/2002 của
thống đốc NHNN về cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng đồng Việt Nam là
hoàn toàn phù hợp và đúng lúc là một nhu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế.
2.1.2. Những thách thức đặt ra khi thực hiện lãi suất thị trường - lãi suất thoả
thuận.
Tính tất yếu về xu hướng hội nhập cũng như thực hiện cơ chế lãi suất theo cơ
chế thị trường là không cần phải bàn thêm xong lộ trình và bước đi như thế nào và
khi nào thực hiện cho thích hợp nhất thì cần phải tính toán thận trọng. Tại Việt Nam
có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề tự do hoá lãi suất, có những ý kiến cho rằng
tự do hoá lãi suất trong thời gian qua là chưa thích hợp. Những ý kiến đó không
phải là không có cơ sở mà đối chiếu với các điều kiện để tự do lãi suất thấy rằng
việc thực hiện tự do lãi suất ở Việt Nam còn gặp không ít những thách thức.
a. Thị trường tài chính Việt Nam còn hết sức kém phát triển và lạc hậu so với
các nước trong khu vực.
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế, thị trường tài chính
Việt Nam vẫn còn lạc khậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Sự nông cạn của
thị trường sẽ làm cho các công cụ thị trường kém phát huy tác dụng, trong đó bao
gồm cả lãi suất thị trường. Sự yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam được
phản ánh qua các chỉ số tài chính cơ bản như chỉ số M
2
/GDP, tín dụng/ GDP, tiền




gửi/ GDP, đều ở các mức thấp hơn so với các chỉ số của các nước trong khu vực

như năm 2002 tỷ lệ M
2
/ GDP ở Việt Nam là 40% trong khi đó ở Inđônêsia là
53,3%, ở Thái Lan là 95,7%, ở Singapore là 84,4%. Bên cạnh đó sự yếu kém còn
thể hiện ở chỗ tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và và
nhỏ bé về khối lượng giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh và trên thị trường mở - thị trường tiền tệ. Cụ thể tại thị trường mở hoạt
động chưa sôi động số lượng thành viên tham gia thị trường mở còn ít chiếm 1/3
tổng số tổ chức tín dụng tại Việt Nam, mỗi phiên giao dịch chỉ có từ 1 đến 5 thành
viên tham gia. Các thành viên tham gia chủ yếu chỉ có 4 NHTM Nhà Nước. Hàng
hoá trên thị trường mở còn nghèo nàn chỉ có hai loại là tín phiếu NHNN và tín
phiếu kho bạc nhà nước, những giấy tờ có giá này chỉ tập chung vào các TCTD có
quy mô lớn nên đã hạn chế tác dụng của công cụ này. Các ngân hàng thương mại cổ
phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hầu như đứng ngoài quan sát tham gia thị
trường chưa nhiều.
b. Cơ chế lãi suất thị trường đòi hỏi một chế độ thông tin tương xứng.
Theo điều 1 của quyết định 546/2002/QĐ/NHNN, quy định "Tổ chức tín
dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn trên thị
trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các tổ chức pháp nhân và cá
nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam". Đó là
một quy định rất phù hợp với cơ chế thị trường nhưng vấn đề đặt ra là các NHTM
làm thế nào để xác định "mức độ tín nhiệm" của khách hàng vay? điều đó đòi hỏi
phải có một chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể ra quyết
định cho vay một cách phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các thời điểm
nhất định. Cũng có thể nói một cách khác, các doanh nghiệp cần được định mức tín
nhiệm một cách tương ứng để tránh tình trạng "tốt như nhau". Việc xác định đâu là
doanh nghiệp có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi một chế
độ thông tin, cập nhật và minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ
kế toán và kiểm toán chuẩn mực quốc tế. Doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ thì
thường săn sàng chấp nhận vay với mọi gía. Tình trạng khách hàng chấp nhận vay





với mọi giá nhắc nhở ngân hàng về lợi nhuận cao thường gắn với rủi ro cao, và do
đó ngân hàng phải cảnh giác cân nhắc kỹ trường hợp này.
Hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thực hiện kiểm tra điều
kiện vay vốn của khách hàng chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng cụ thể là lịch
sử quan hệ với ngân hàng và các thông tin do khách hàng đưa ra như các bản báo
cáo kết quả kinh doanh, các phương án, dự án trên thực tế thì các số liệu trên bản
báo cáo và trong các phương án dự án của các khách hàng gửi đến hầu như phù hợp
với điều kiện của ngân hàng. Trong đó ngân hàng không có cơ sở nào để xác minh
sự minh bạch và rõ ràng số liệu thông tin mà khách hàng đưa ra là chính xác với
khách hàng vì vậy việc xác định mức độ tín nhiệm của khách hàng là rất khó. Điều
này đòi hỏi khả năng và trình độ của ngân hàng về đánh giá khách hàng rất cao
trong khi đó các ngân hàng thương maị Việt Nam rất hạn chế về vấn đề này.
Xây dựng thể chế thị trường, như việc tăng cường tính công khai về thông
tin, điều kiện đảm bảo an toàn và và giám sát tài chính là việc cần thiết phải tiến
hành song song vơí quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính
tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu
quả. ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng, hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn
và làm lệch lạc việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám sát đối với hoạt
động của các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng
ngân hàng (CIC) của NHNN đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn trong giai đoạn thí
điểm và do đó, chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập.
Điều này đưa đến khó khăn cho các NHTM trong việc đưa ra một mức lãi suất thoả
thuận phù hợp với mức độ tín nhiệm của từng doanh nghiệp và diễn biến thị trường.
Hơn nữa, đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng
ngân hàng hơn nữa theo cơ chế thương mại - lãi suất thương mại thực sự.

c. Hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém là thách thức cho quá
trình chuyển đổi sang lãi suất thị trường

×