LUẬN VĂN:
Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện
pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương
Lời mở đầu
Du lịch từ lâu vẫn được hiểu là nghỉ ngơi, tham quan giải trí. Nhưng trên thực tế, du
lịch có một hình ảnh năng động hơn, hình ảnh một ngành kinh doanh mới, có hiệu quả và
ngày càng phát triển trên mỗi quốc gia.
Bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của dịch vụ, tin học và nền kinh tế tri thức, thì du lịch ngày
càng trở nên quan trọng và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Du lịch được
coi là một ngành “ công nghiệp không khói”, “ xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu vô hình” để thu
về nguồn ngoại tệ. Hoạt động du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế và
đang phát triển nhanh với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Hoà chung với sự phát triển
của du lịch thế giới. Ngành Du lịch Việt Nam cũng đã có những bước chuyển biến rõ rệt
nhờ vào chính sách “ mở cửa ” của Đảng và Nhà nước, ngành du lịch đã có sự tăng trưởng
và phát triển đáng khích lệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Ngành du lịch Việt Nam trước những thách thức và cơ hội mới còn nhiều việc phải
làm để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên cơ sở giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước.
Trong bối cảnh chung của du lịch cả nước, Du lịch Hải Dương cũng bắt đầu có
những bước chuyển biến nhưng vẫn chưa thực sự phát triển với tiềm năng sẵn có của mình.
Là một tỉnh nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Hải Dương không có những tài nguyên, di
sản Văn hoá ở tầm quốc tế như nhiều tỉnh khác. Ngành du lịch chưa thực sự có những đóng
góp đáng klể vào thu nhập của người dân, nhưng như vậy không có nghĩa là Du lịch Hải
Dương không thể phát triển. Nằm trong tam giác phát triển của phía Bắc là Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh cùng với nhiều di tích và danh thắng cũng như các công trình văn hoá còn được lưu
giữ . Hải Dương có nhiều thuận lợi để phát triển thương mại và du lịch
Với mong muốn có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ hơn về tiềm năng du lịch của Hải
Dương, trong thời gian thực tập tại Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương em đã chọn đề tài
“ Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương ” làm
chuyên đề tốt nghiệp đại học của mình.
Kết cấu báo cáo chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 3 chương.
Chương I: Tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du
lịch
Chương II: Thực trạng tiềm năng du lịch và kết quả hoạt động du lịch ở Hải
Dương trong những năm qua.
Chương III: Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp chủ yếu nhằm
phát triển du lịch Hải Dương.
chương I: tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du lịch:
I/ Khái niệm chung về du lịch và tiềm năng du lịch.
1. khái niệm chung về du lịch.
1.1 Khái niệm về du lịch.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở
các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên,
không chỉ ở nước ta mà cả nhiều nước trên thế giới cũng chưa thống nhất. Về khái niệm và
nội dung đó có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO): "Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động của
một cá nhân đi đến và lưu lại không quá 12 tháng với mục đích kiếm tiền thường xuyên".
Theo Michel Coltmant: " Du lịch là mối quan hệ tương tác giữa bốn nhóm nhân tố:
khách du lịch, các tổ chức cung ứng du lịch, chính quyền nơi đến du lịch, dân cư tại nơi du
lịch để thống nhất hoạt động du lịch nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người".
Tuyên bố LaHay về du lịch viết: " Du lịch là hoạt động tất yếu của con người và của
xã hội hiện đại. Bởi lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời
gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con
người với con người".
Qua các định nghĩa về du lịch nêu trên ta nhận thấy nổi lên một số điểm chủ yếu:
- Hoạt động du lịch của con người ở ngoài nơi làm việc thường xuyên của họ.
- Hoạt động vận chuyển hầu như trong tất cả mọi trường hợp đi du lịch đều có sự
tham gia của một phương tiện giao thông nào đó.
1.2. Khái niệm về tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích cách mạng, giá trị nhân văn,
công trình lao đông sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du
lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch tạo ra sức hấp dẫn du lịch.
Về thực tế, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên các đối tượng văn hoá, lịch sử
đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng
trực tiếp vào mục đích du lịch. Những điều kiện hiện nay luôn tồn tại và gắn liền với môi
trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia nhằm tạo nên điểm đặc sắc cho
mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được khai thác và sử
dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên du lịch. Như vậy có
thể nói rằng, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề phát triển du lịch, trên thực tế cho
thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hậu quả hoạt
động du lịch càng cao bấy nhiêu.
- Mức độ khai thác của tài nguyên du lịch phụ thuộc vào:
+ Khả năng nghiên cứu phát hiện và đánh giá tiềm năng tài nguyên vốn còn tiềm ẩn.
+ Yêu cầu phát triển các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch,
các nhu cầu của khách ngày càng lớn, đa dạng và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí.
+ Trình độ phát triển khoa học công nghệ đã tạo ra các phương tiện để khai thác tiềm
năng mọi cách để đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu thoả mãn của khách du
lịch khi có nhu cầu khám phá những điều kỳ diệu của tài nguyên du lịch.
Như vậy, giống như các tài nguyên khác, tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử,
vì những thay đổi cơ cấu và nhu cầu đã lôi cuốn vào hoạt động du lịch những thành phần
mang tính chất kinh tế cũng như tính văn hoá - lịch sử. Nó là một phạm trù động, vì khái
niệm tài nguyên du lịch thay đổi tuỳ thuộc vào sự tiến bộ kỹ thuật, sự cần thiết về kinh tế,
tính hợp lý và mức độ nghiên cứu, khi đánh giá tài nguyên và xác định định hướng khai thác
chúng cần phải tính đến những thay đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh
tế - kỹ thuật khai thác các tài nguyên du lịch mới.
Bên cạnh những tài nguyên đã và đang được khai thác thì còn nhiều tài nguyên du
lịch vẫn tồn tại dưới dạng tiềm năng đó.
+ Chưa được nghiên cứu, đánh giá và điều tra đầy đủ.
+ Chưa được khai thác do " cầu" còn quá thấp.
+ Tính tài nguyên thấp, chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác và hình thành nên
các sản phẩm du lịch.
+ Các điều kiện để tiếp cận các phương tiện khai thác còn hạn chế, do đó còn gặp
nhiều khó khăn trong khai thác.
1.3. Khái niệm khách du lịch.
Nói đến khách du lịch, chúng ta có thể hiểu đó là những người đi từ nơi này đến nơi
khác để nghỉ ngơi, giả trí, cũng có thể hiểu đó là người đi du lịch hoặc kết hợp du lịch, trừ
trường hợp đi làm hay đi học…
Định nghĩa của nhóm tác giả trường kinh tế quốc dân có thể nói là tương đối hoàn
chỉnh." Khách du lịch là người đi đến một quốc gia khác, một vùng khác và lưu lại ở đó với
thời gian lớn hơn một ngày nhằm các mục đích khác nhưng không nhằm mục đích kiếm
tiền".
- Định nghĩa khách du lịch quốc tế.
Theo tổ chức du lịch thế giới ( WTO): " Khách du lịch quốc tế là một người lưu trú ít
nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú với
nhiều mục địch khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
+ Khách du lịch quốc tế chủ động: là những người ở nước ngoài vào nước đó.
+ Khách du lịch quốc tế bị động: là những người ở trong nước đi ra nước ngoài.
- Định nghĩa khách du lịch nội địa.
Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO). " Khách du lịch nội địa là người đang sống
trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải là nơi cư trú
thường xuyên trong quốc gia đó, trong thời gian ít nhất là 24 giờ và không quá một năm với
các mục đích có thể là giải trí, công vụ, hội họp, thăm gia đình ngoài hoạt động làm việc để
lĩnh lương ở nơi đến.
- Theo Điều 4 Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 thì.
“ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học,
làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến ”
“ Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nướcngoài thường trú tại Việt Nam
ra nước ngoài du lịch ”
“ Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ tại Việt Nam ”
1.4. Khái niệm về thị trường du lịch
Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm du lịch có thể thấy thị trường du lịch được coi là
một bộ phận tương đối đặc biệt của thị trường hàng hoá nói chung, bao gồm toàn bộ các
mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan đến địa điểm, thơì gian, điều kiện và phạm vi
thực hiện hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch
Nét đặc thù riêng của thị trường du lịch là ở chỗ:
+ Thị trường du lịch thực hiện dịch vụ hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hôị về
du lịch
+ Toàn bộ các mối quan hệ của các mối quan hệ toàn bộ trên thị trường kinh tế du
lịch phải gắn liền với vị trí, thời gian, điều kiện và phạm vi thực hiện của thị trường hàng
hoá
+ Thị trường du lịch là tổng hợp nhu cầu hay tập hợp nhu cầu về sản phẩm du lịch, là
nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ
+ ở góc độ một đơn vị kinh doanh có thể hiểu thị trường du lịch là một tập hợp khách
hàng hay nhóm khách hàng đang có nhu cầu, mong muốn và có khả năng thanh toán sẽ
được thoả mãn
+ Thị trường du lịch, mối quan hệ mua bán được hình thành giữa các tổ chức kinh tế
phục vụ lưu thông phân phối trong du lịch, đó chính là các đại lý du lịch
+ Người mua thông qua những đại lý du lịch này xẽ biết được những thông tin vế sản
phẩm mà mình sẽ mua và sau khi đồng ý thực hiện mua ở đây. Như vậy, sản phẩm đang bán
trực tiếp ở thị trường hàng hoá này đã chuyển sang bán ở thị trường du lịch
+ Chỉ khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu du lịch mới xuất hiện và ngày
càng cao, chính vì thế thị trưồng du lịch xuất hiện muộn hơn thị trường hàng hoá
+ Trên thị trường du lịch không có sự dịch chuyển của khối lượng hàng hoá, do tính
chất đặc biệt của sản phẩm du lịch, khách hàng chỉ có thể tiêu dùng tại nơi bán sản
phẩm,nên thị trường du lịch là dòng một chiều của khách đến với sản phẩm.
- Cầu du lịch
Cầu du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được
hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý ( đi lại ) và nhu cầu tâm lý ( giao
tiếp ) trong hệ thống các nhu cầu của con người, để làm cho cuộc sống thay đổi về môi
trường sống, muốn có thêm hiểu biết cũng như muốn nghỉ ngơi, giải trí thoát khỏi sự căng
thẳng và môi trường ô nhiễm.
Nhu cầu du lịch có được thực hiện hay không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của
khách du lịch, có thời gian rỗi dành cho tiêu dùng du lịch và phải sẵn sàng mua sản phẩm
du lịch.
Khi thoả mãn 3 điều kiện này thì nhu cầu du lịch của cá nhân biểu hiện ở cấp độ ý
định. Nhu cầu du lịch ở cấp độ quyết định của tất cả cá nhân ở một không gian và thời gian
nhất định tạo ra thị trường khách du lịch hiện tại ở không gian và thời gian đó. Nếu nhu cầu
du lịch của các cá nhân chưa thoả mãn 1 trong 3 điều kiện nói trên thì tập hợp lại tạo ra thị
trường khách du lịch tiềm năng , khi mà trình độ sản xuất xã hội ngày càng phát triển, các
mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, mức độ toàn cầu hoá càng cao thì nhu cầu về du lịch
càng lớn về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nó.
- Cung du lịch
Cung trong du lịch là khả năng cung cấp toàn bộ hàng hoá về dịch vụ du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu của du khách, cung du lịch là toàn bộ hệ thống của cải và dịch vụ mà hệ
thống của cải và dịch vụ mà bộ máy du lịch đưa ra phục vụ khách bao hàm một chuỗi các
nhiệm vụ, trách nhiệm về hoạt động hợp thành các đơn vị tổ chức năng hoạt động trên thị
trường du lịch.
- Mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường du lịch.
Cung và cầu du lịch có mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau, cung tác
động lên cầu qua khối lượng và cơ cấu của nó, còn cầu ảnh hưởng đến sự phát triển của
cung qua việc tiêu thụ và sự phân hoá của cầu. Trong du lịch chỉ có dòng chuyển động một
chiều cầu đến cung. Xu hướng đặc trưng của thị trường du lịch là sự cân bằng giữa cung và
cầu. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch muốn phát triển hoạt động kinh doanh của mình
thì phải biết liên kết, tập hợp cầu, phải biết phối hợp cung - cầu để đem lại hiệu quả
kinh doanh cao ( vì cung trong du lịch là cố định, còn cầu thì phân tán, cung du lịch
mang tính bộ phận trong khi cầu di lịch mang tính tổng hợp).
1.5. Các khái niệm khác:
- Khái niệm kinh doanh lữ hành.
Kinh doanh lữ hành là việc đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công việc trong quá trình chuyển giao sản phẩm thực hiện giá trị sử dụng hoặc làm
gia tăng giá trị của nó để chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích lợi
nhuận.
- Khái niệm kinh doanh khách sạn.
Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch
vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ
ngơi và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi.
- Khái niệm kinh doanh vận chuyển.
Có 2 loại theo tính đặc thù, kinh doanh vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú
của khách du lịch và kinh doanh vận chuyển tại điểm du lịch.
2. Tiềm năng du lịch.
Theo nghĩa rộng, tiềm năng là tổng hợp tất cả các điều kiện bên trong và bên
ngoài có giá trị khai thác, sử dụng và phát triển.
Tiềm năng du lịch là một trong những điều kiện trực tiếp để phát triển du
lịch.
Tiềm năng du lịch bao hàm: vị trí địa lý, tài nguyờn du lịch, con người, thị
trường, các điều kiện về kinh tế - xó hội…
II/ Các đặc điểm chủ yếu để phát triển tài nguyên du lịch.
1. Đặc điểm tài nguyên du lịch.
Để có thể khai thác và sử dụng một cách tốt nhất các tài nguyên du lịch, cần phải
nghiên cứu các đặc điểm tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch có các đặc điểm sau đây.
1.1. Tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc
và độc đáo tạo ra sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách.
Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú càng đa dạng,
đặc điểm này tạo nên sự phong phú về sản phẩm du lịch, nếu chỉ tính toán đơn thuần từ mặt
kinh tế thì hiệu quả của tài nguyên du lịch đem lại là rất lớn có khi vượt trội hơn so với các
tài nguyên khác.
1.2. Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác.
Trong tài nguyên du lịch có tài nguyên có thể khai thác quanh năm, nhưng cũng có
tài nguyên khai thác lệ thuộc vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo diễn biến của
khí hâu, như ở nước ta các tài nguyên được khai thác theo mùa rất rõ rệt: vào mùa Xuân ở
đồng bằng Bắc bộ là mùa của những lễ hội như hội Chùa Hương, hội Lim, hội Đền Hùng ,
vào mùa Hè thường diễn ra các hoạt động biển, đặc biệt là du lịch biển diễn ra quanh năm ở
các tỉnh có biển, nhất là ở miền Trung từ Đà Nẵng trở vào có thể tắm biển quanh năm (cả 4
mùa )vì ở đó rất ít bị ảnh hưởng của không khí lạnh.
1.3. Tài nguyên du lịch là tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô
hình.
Đây được xem là đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch. khác với tài nguyên
khác, tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất tham gia vào việc hình thành nên các sản
phẩm du lịch, đó chính là giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Giá trị vô hình của tài
nguyên du lịch được khách du lịch cảm nhận thông qua những cảm xúc tâm lý, làm thoả mãn
nhu cầu của khách du lịch.
1.4. Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác.
Các tài nguyên du lịch thường được khai thác để phục vụ du lịch là các tài nguyên
vốn đã có sẵn trong tự nhiên do tạo hoá sinh ra hoặc con người tạo dựng lên và thường dễ
khai thác. Con người khó có thể tạo nên tài nguyên du lịch bởi vì nó sẽ giảm đi rất nhiều về
giá trị và sự hấp dẫn, chỉ cần đầu tư không lớn nhằm tôn tạo thêm vẻ đẹp và giá trị của tài
nguyên.
1.5. Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ tạo ra sản phẩm du lịch.
Khách du lịch thường đến tận những nơi có sản phẩm du lịch để thưởng thức, đây là
đặc điểm rất khác nhau giữa tài nguyên du lịch và các tài nguyên khác. Khác là những tài
nguyên sau khi khai thác có thể vận chuyển đến tận nơi để chế biến thành sản phẩm rồi lại
đưa đến tận nơi tiêu thụ, chính vì khách du lịch phải đi đến tận các điểm du lịch nơi có các
tài nguyên du lịch để thưởng thức sản phẩm du lịch. Nên muốn khai thác tốt tài nguyên này
phải chuẩn bị tốt các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vận chuyển
khách du lịch. Những điểm du lịch có vị trí thuận lợi sẽ thu hút được nhiều khách du lịch và
các hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt hiệu qủa cao.
1.6. Tài nguyên du lịch có thể sử dụng nhiều lần.
Các tài nguyên du lịch được xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử được
dụng lâu dài, vấn đề cơ bản là phải nắm được quy luật tự nhiên, lường trước được những thử
thách của tự nhiên, cũng như những tác động do con người tạo ra. Từ đó có định hướng lâu
dài và có biện pháp cụ thể để khai thác tài nguyên du lịch, bảo vệ và tôn tạo phát triển một
cách bền vững mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của du lịch trong tương lai.
2. Phân loại tài nguyên du lịch.
Các tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai loại: Tài nguyên
du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Thiên nhiên là môi trường sống của con người và của mọi sinh vật trên trái đất, thiên
nhiên bao gồm các yếu tố và các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các quá trình
biến đổi của chúng tạo nên các điều kiện tự nhiên thường xuyên tác động đến sự sống, hoạt
động của con người. Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch bao gồm:
- Địa hình: là các vùng núi có phong cảnh đẹp, hệ thống hang động, bãi biển, di tích
tự nhiên.
- Khí hậu: gồm tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người, tài nguyên khí
hậu phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng, du lịch, thể thao, giải trí
-Thuỷ văn: gồm mặt nước và các bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng.
- Sinh vật: gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các cơ sở hệ sinh thái
đặc thù.
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.
Là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người sáng tạo ra. Đó là
toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra,
đều được coi là những sản phẩm văn hoá. Tài nguyên du lịch nhân văn được phân chia
thành những nhóm cụ thể sau:
- Các di tích lịch sử văn hoá gồm: các di sản văn hoá thế giới, di tích lịch sử, thắng
cảnh cấp quốc gia và địa phương.
- Các lễ hội: làng nghề thủ công truyền thống gồm: nghề gốm sứ, trạm khắc đá, nghề
mộc, nghề kim hoàn
- Các đối tương du lịch gắn với dân tộc học.
- Các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác.
III/ Những nội dung cơ bản về hoạt động du lịch ở Hải Dương.
1. Những tiềm năng cần được đánh thức.
Thuộc đồng bằng Bắc Bộ với địa hình bao gồm cả đồng bằng và đồi núi, cùng với
lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, Hải Dương có nhiều lợi thế để phát triển toàn diện
cả du lịch văn hoá, tín ngưỡng tâm linh và du lịch sinh thái. ở phía đông Bắc có 2 huyện
miền núi là Chí Linh và Kinh Môn, tuy không rộng lớn nhưng cảnh quan đa dạng, trong đó.
Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp, rừng cây xanh tốt là thiên đường của du lịch sinh thái,
xây dựng sân golf, biệt thự, hình thành cắm trại, picnic, vùng núi hồ Côn Sơn - Kiếp Bạc -
Thanh Mai, vào thế kỷ 14 nơi đây đã biến thành chốn " Phật tổ" của Thiền Phái Trúc Lâm
và gắn liền với tên tuổi danh nhân Nguyễn Trãi, danh tướng Trần Hưng Đạo. Vùng Kinh
Môn có “ tập đoàn ” đá vôi với những hang động kỳ thú, nơi lưu giữ di tích của con người
từ thời đại đồ đá mới. Kinh Môn tự hào là nơi có động Kính Chủ, động Tâm Long từ thời
Trần được tôn tạo thành Chùa. Đến thế kỷ 17 Kính Chủ trở thành động nổi tiếng của đất
nước, nơi đây để lại bút tích của nhiều thời đại khác nhau. Huyện Thanh Miện nổi tiếng với
Đảo Cò Chi Lăng Nam, nơi du khách được hoà mình với thiên nhiên, ngắm những đàn cò
sinh động trong mọi trường đặc trưng vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Vùng Thanh Hà với cây vải
thiều đặc sản là lợi thế hứa hẹn một vùng du lịch miệt vườn độc đáo.
Hải Dương có 1.098 di tích các loại, bao gồm 133 di tích được xếp hạng quốc gia,
được bố khá đồng đều khắp thôn, làng của 11 huyện và thành phố Hải Dương chứa đựng
chiều sâu văn hoá, lịch sử vùng đất tỉnh Đông. Mỗi di tích gắn với một truyền thống, một
nhân vật lịch sử hay một phong cách kiến trúc của một thời đại nào đó. Chẳng hạn như Văn
Miếu Mao Điền ( thuộc địa phận huyện Cẩm Giàng) có bia khắc tên các cử nhân, tiến sỹ
thời phong kiến, di tích khảo cổ học gốm Chu Đậu ( xã Thái Tân, huyện Nam Sách) lưu
giữu dấu ấn của một trung tâm sản xuất gốm mỹ nghệ xuất khẩu từ thế kỷ 15, 16, hay đền
thờ nhà nho yêu nước Chu Văn An trên núi Phượng Hoàng ( xã Văn An, huyện Chí Linh ).
Không chỉ có vậy, Hải Dương còn có nhiều làng nghề truyền thống như: làng Đồng
Giao ( xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng) chuyên nghề chạm, khắc gỗ, làng Tam Lâm (
Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc) có nghề đóng giầy, làng Cúc bồ ( Kiến Quốc, huyện Gia Lộc)
có nghề mộc nổi tiếng , mỗi làng nghề đều mang bản sắc riêng, gắn với hệ thống di sản và
truyền thuyết. Tìm hiểu văn hoá và truyền thống làng nghề sẽ khiến du khách cả trong và
ngoài nước nhận biết được nhiều điều thú vị. Thực tế đó là tiền đề thuận lợi cho làng nghề
Hải Dương được " trình làng " với vị thế mới. làng nghề Văn hoá - Du lịch độc đáo và hấp
dẫn.
2. Những chuyển động đầu tiên.
Không phải chỉ từ năm 2003 lại đây, Hải Dương mới nhận rõ tiềm năng du lịch của
mình. Song, do khả năng đầu tư cho ngành du lịch còn hạn chế, nhỏ giọt, chưa đủ sức đem
lại những thay đổi to lớn. Chẳng hạn, để dần bắt nhịp với du lịch toàn quốc, một số khách
sạn, nhà nghỉ, nhà khách được nâng cấp thành khách sạn đạt tiêu chuẩn “ sao ”. Nhiều thành
phần kinh tế được tham gia, đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn đã tạo nên những
chuyển biến nhất định. Nếu như năm 1997, Hải Dương chỉ có 13 khách sạn, nhà nghỉ với
400 phòng, 900 giường, trong đó chỉ có 7 khách sạn đạt tiêu chuẩn thì đến năm 2003 toàn
tỉnh có 60 khách sạn, nhà nghỉ với 54 khách sạn đạt tiêu chuẩn, gồm 975 phòng, có 1500
giường, phần lớn thuộc về các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, có 4 khách
sạn 2 sao, 3 khách sạn 1 sao. Tuy nhiên, phần lớn các khách sạn, nhà nghỉ đều tập
trung tại thành phố Hải Dương, hầu hết các điểm du lịch chưa có các cơ sở du lịch thực hiện
kinh doanh dịch vụ lưu trú chuyên nghiệp. So với các tỉnh có tiềm năng du lịch, các dịch vụ
vui chơi giải trí, phương tiện đi lại, đường giao thông du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của
ngành du lịch Dải Dương còn quá thiếu và yếu. Ngoài một số điểm như An Phụ - Kính Chủ,
Côn Sơn - Kiếp Bạc được đầu tư xây dựng hệ thống giao thông phục vụ khu du lịch, những
điểm du lịch khác vẫn đang ở nguyên trạng hoang sơ hoặc " ăn nhờ" hệ thống giao thông
dân dụng, nối vào di tích vẫn là đường nhỏ. Vì thế, phần lớn trong hơn 1.000 di tích chủ yếu
thu hút khách trong phạm vi gần, vào vài tháng nhất định trong năm( chủ yếu là mùa lễ hội,
mùa xuân ) 100% làng nghề đều chưa khai thác du lịch. Bản thân các khu di tích, thắng cảnh
chưa được tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp đầy đủ, thường xuyên.
Để khắc phục tình trạng trên, năm 2001, Hải Dương đã đầu tư gần 50 tỷ nhằm đồng
tôn tạo khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc và sắp tới sẽ triển khai dự án xây dựng khu hồ Mật
Sơn ( Chí Linh ) với tổng số vốn đầu tư gần 41 tỷ đồng. Ngoài ra, khu núi An Phụ - Kính
Chủ, cũng được đầu tư xây dựng tượng đài Hưng Đạo Vương và tôn tạo đường lên đỉnh và
chùa Tường Vân với số tiền hàng chục tỷ đồng. Đó là những khoản tiền vốn đầu tư cho du
lịch lớn nhất trong thời gian vừa qua. Trong giai đoạn đầu mỗi năm cần đến 150 tỷ đồng để
tạo ra diện mạo mới cho ngành du lịch.Thiếu vốn đầu tư, đó là mấu chốt của bài toán khai
thác tiềm năng du lịch Hải Dương hiện nay. Tuy nhiên, tiềm năng du lịch Hải Dương đang
thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong và nước ngoài
tỉnh, các nhà đầu tư trong nước và từ nước ngoài.
3. Tạo tương lai mới bằng những chiến lược mới.
Quy hoạch phát triển du lịch Hải Dương xác định gồm 4 chiến lược trọng tâm là:
chiến lược đầu tư, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược nâng cấp chất lượng sản
phẩm và tuyên truyền quảng bá. Trong đó chiến lược quan trọng nhất là đầu tư kết cấu hạ
tầng, vật chất kỹ thuât tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp, song nguồn
vốn hiện có chỉ cho phép đầu tư vào một vài điểm nhất định. Vì vậy, để đạt được mục tiêu
phát triển nền kinh tế của tỉnh, trong đó có vấn đề đầu tư cho du lịch, Hải Dương đang mời
gọi mọi đối tác đầu tư, mọi nguồn vốn ở trong và ngoài nước đầu tư mạnh vào lĩnh vực này
trên cơ sở quy hoạch du lịch đã được phê duyệt. Để phát triển tương xứng với tiềm năng và
yêu cầu, Sở Thương mại - Du lịch Hải Dương đang kết hợp với Tổng cục Du lịch tổ chức
đào tạo nhân viên khách sạn, hướng dẫn viên du lịch, bởi lẽ một khi hạ tầng du lịch được
đổi mới, chiến lược nhân lực sẽ càng được đẩy mạnh tạo nên hình ảnh mới cho nhành du
lịch Hải Dương. Với hàng chục làng nghề và lực lượng lao động dồi dào, chiến lược nâng
cao chất lượng sản phẩm du lịch của Hải Dương hướng tới khuyến khích đầu tư sản xuất
những mặt hàng lưu niệm đặc trưng, giúp Hải Dương được nhìn nhận như một vùng đất
mang bản sắc văn hoá độc đáo và riêng biệt.
Với mục tiêu tận dụng lợi thế vị trí địa lý, Hải Dương bắt đầu thực hiện cơ chế phối
hơp với ngành du lịch của Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh để biến Hải Dương thành một"
mắt xích" trong tuyến du lịch liên tỉnh.Sắp tới Công Ty Du lịch Hải Dương sẽ trở thành
công ty thành viên của Tổng công ty du lịch Hà Nội là bước khởi sắc đầu cho chính sách tạo
mối quan hệ hợp tác liên kết trong du lịch của Hải Dương. Mục tiêu của ngành đến năm
2006 sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 25%/ năm, với doanh thu 300 tỷ đồng và du lịch của tỉnh sẽ
đón 300 nghìn lượt khách. Cùng với tốc độ tăng trưởng, ngành đặc biệt coi trọng việc phát
triển du lịch bền vững, phát triển du lịch nhưng vẫn đảm bảo an ninh, gắn du lịch với phát
huy, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, truyền thống văn hoá địa phương.
Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của du lịch hiện nay, con đường phát triển đúng
đắn cho du lịch Hải Dương là: Chinh phục khách hàng bằng chất lượng bền vững, theo tiêu
chuẩn quốc tế để thực sự là điểm đến tốt nhất đối với mỗi khách hàng.
IV/ Những điều kiện nhằm phát triển du lịch Hải Dương:
1. Điều kiện chung.
Du lịch chỉ có thể phát sinh, phát triển trong nhữngđiều kiện và hoàn cảnh thuận lợi
nhất định. Trong số những điều kiện đó có những điều kiện tác động trực tiếp đến việc hình
thành nhu cầu du lịch và việc tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch, bên cạnh đó có
những điều kiện mang tính phổ biến nằm trong các mặt của đời sống xã hội và có những
điều kiện gắn liền với từng khu vực địa lý. Tuy nhiên, tất cả các điều kiện này có quan hệ
chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành mội trường cho sự phát sinh, phát
triển du lịch.
1.2 Về mặt xã hội.
Theo địa giới hành chính, tỉnh Hải Dương có 11 huyện, 1 thành phố loại III , với dân
số năm 2002 là 1.683.138 người, mật độ dân số trung bình 1.022 người/km. Dân cư thường
tập trung ở đô thị và các thôn xóm dọc theo các trục giao thông đường bộ, đường thuỷ quan
trọng…Dân cư sinh sống ở Hải Dương chủ yếu là dân tộc Kinh theo hai tôn giáo chính là:
Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Tính cách của người dân Hải Dương mang đậm nét đặc trưng
của vùng văn minh lúa nước Châu thổ sông Hồng: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở
và giàu lòng mến khách.
Do kinh tế tăng trưởng ổn định nên đời sống dân cư ở thành thị và nông thôn đều
được cải thiện. Đến năm 2002 tỷ lệ hộ đói nghèo chỉ còn 7%, toàn tỉnh đã đạt tiêu chuẩn
quốc gia về xoá mù chữ. Đến nay, tất cả các xã, phường trên địa bàn tỉnh đều có hệ thống
điện, đường, trường, trạm tương đối hoàn chỉnh, thêm vào đó là chính sách phát
triển du lịch cùng với sự ổn địnhvề mặt chính trị và an ninh đã làm cho du lịch của
Hải Dương có điều thuận lợi hơn để phát triển.
1.2. Về mặt kinh tế.
Trong quá trình cùng cả nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tỉnh
Hải Dương đã tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế cũng như quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong
tổng sản phẩm xã hội của tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực du lịch, trong thời kỳ 1998 - 2003 đạt
mức tăng trưởng bình quân rất cao ( 30% ) và chiếm tỷ trọng 1,14 % GDP của tỉnh Hải
Dương năm 2003. Kết quả mà ngành du lịch đạt được là nhờ có nhiều hoạt động tuyên
truyền quảng bá du lịch được Sở Thương mại - Du lịch tiến hành như phát hành phim, sách
về du lịch, tổ chức triển lãm và xây dựng các tour du lịch làng nghề, tổ chức gian hàng du
lịch Hải Dương tại Liên hoan du lịch Hà Nội đã góp phần tạo ra hình ảnh mới cho hoạt
động du lịch của tỉnh Hải Dương.
2. Điều kiện đặc trưng.
Trong quá trình cả nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Hải
Dương đã tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế cũng như quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong Tổng sản
phẩm xã hội của tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ du lịch, trong thời kỳ 1998 – 2003 đạt
mức tăng trưởng bình quân rất cao ( 30% ) và chiếm tỷ trọng 1,14% GDP của tỉnh Hải
Dương năm 2003. Kết quả mà ngành du lịch đạt được là nhốc nhiều hoạt động tuyên
truyền quảng bá du lịch được Sở Thương mại - Du lịch tiến hành như phát hành
phim, sách về du lịch, tổ chức triển lãm và xây dung các tour du lịch làng nghề, tổ
chức gian hàng du lịch Hải Dương tại Liên hoan du lịch Hà Nội…đã góp phần tạo ra
hình ảnh mới cho hoạt động du lịch của tỉnh Hải Dương.
2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Tài nguyên du lịch của Hải Dương được phân bố đều trên phạm vi toàn tỉnh và tập
trung nhiều tại hai huyện miền núi Chí Linh và Kinh Môn.
Chí Linh núi đồi trùng điệp có độ cao trung bình không quá 700m, rừng cây xanh tốt,
cảnh quan đẹp, có nhiều hồ nước tự nhiên, có nhiều di tích, di chỉ văn hoá như: khu danh
thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân là địa danh thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi;
Khu du lịch danh thắng Côn Sơn là nơi cảnh đẹp thiên nhiên, tâm linh gắn liền với cuộc đời
của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, cùng với tên tuổi của danh
nhân đất Việt khác như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang, đồng thời là một trong ba Trung
tâm của phái Trúc Lâm ( Côn Sơn - Yên Tử - Trúc Lâm ).
Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú, nơi còn lưu lại di tích
của con người thời đại đồ đá mới. Núi An Phụ với đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu trên
đỉnh và tượng đài người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo ở chân núi là nơi thích hợp cho
du lịch tâm linh. Hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham thích hợp cho du
lịch vãn cảnh gắn với những trang sử hào hùng chống quân Nguyên của nhân dân ta.
Ngoài ra, các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ
có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của văn hoá
Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà, nổi tiếng với cây vải tổ, làng Cò ( Chi Lăng
Nam ) Thanh Niệm, Văn Miếu Mao Điền (huyện Cẩm Giàng ), gốm chu Đậu (huyện Nam
Sách ) rất thuận tiện cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch đồng quê và tham
quan nghiên cứu khoa học.
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.
Trên địa bàn tỉnh hiện nay có trên 1.098 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 133 di
tích đã được Nhà nước xếp hạng, bao gồm các đình, đền, chùa, phủ với nét kiến trúc độc
đáo, có sự giao thoa của kiến trúc cổ và kiến trúc hiện đại, giữa kiến trúc Phương Đông và
Phương Tây. Đặc biệt, các di tích lịch sử văn hoá đều gắn với các lễ hội truyền thống văn
hoá dân gian, đây là tài nguyên du lịch nhân văn lớn, là động lực và thế mạnh cho du lịch
Hải Dương phát triển.
Ngoài các di tích lịch sử văn hoá, các lễ hội truyền thống văn hoá dân gian, tài
nguyên du lịch Hải Dương còn được thể hiện qua các làng nghề truyền thống trong tỉnh, các
giá trị văn hoá phi vật thể cùng truyền thống canh tác lâu đời của người dân vùng đồng bằng
Châu thổ sông Hồng, tất cả làm cho nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương thêm phong
phú và là điều kiện thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch.
Hiện nay, tài nguyên du lịch của Hải Dương đã được cải thiện một cách căn bản về
hạ tầng giao thông, điện nước, vệ sinh môi trường và an ninh trật tự. Một số dự án lớn đã
được triển khai thực hiện và hoàn chỉnh như dự án mạng lưới giao thông khu Côn Sơn –
Kiếp Bạc, Đền thờ Chu Văn An, đường lên núi An Phụ, đường giao thông dẫn đến Đảo cò ở
Chi Lăng Nam- Thanh Miện, Dự án kè hồ Côn Sơn đã ngày càng tạo cho Hải Dương
những sản phẩm du lịch có tính háp dẫn du khách ngày càng cao hơn.
2.3. Điều kiện sẵn sàng đón tiếp khách.
* Cơ sở lưu trú du lịch.
Các cơ sở lưu trú du lịch phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2000
cả tỉnh có 26 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó, chỉ có 1 khách sạn 2 sao, 1 khách sạn 1
sao; đến năm 2004 cả tỉnh có 60 cơ sở lưu trú du lịch được phân loại, xếp hạng, với
tổng số 1.500 phòng, trong đó, có 1050 phòng đạt tiêu chuẩn. Có 6 khách sạn xếp hạng
2 sao, 6 khách sạn xếp hạng 1 sao. Năm 2005 trên địa bàn của tỉnh đã có một khách sạn
đạt tiêu chuẩn 4 sao đi vào hoạt động.
* Kinh doanh lữ hành.
Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trên địa bàn tỉnh đã trú trọng đẩy mạnh
công tác thị trường, xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn nâng cao chất lượng
hiệu quả kinh doanh. Đến hết năm 2004 toàn tỉnh có 7 doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành nội địa, 15 doanh nghiệp vận chuyển hành khách. Hoạt động vận chuyển khách
du lịch không chỉ chuyển biến về số lượng mà còn cả về chất lượng phương tiện phục
vụ được nâng cao hơn. Năm 2000 toàn tỉnh có gần 200 xe kinh doanh vận chuyển
khách du lịch; đến năm 2004 đã có trên 500 xe đảm bảo chất lượng, tiện lợi và an toàn
cho khách tham gia kinh doanh trong lĩnh vực này.
CHương II: Thực trạng tiềm năng và kết quả hoạt động du lịch ở hải dương trong
những năm vừa qua
I/ thực trạng tiềm năng du lịch và quá trình khai thác sử dụng tiềm năng du lịch ở Hải
Dương.
1.thực trạng tiềm năng du lịch ở Hải Dương.
1.1.vị trí địa lý.
Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Tây giáp Hưng Yên, phía Đông
giáp Hải Phòng, phía Nam giáp Thái Bình, phía Bắc giáp Bắc Ninh.
Địa hình của tỉnh Hải Dương tương đối bằng phẳng. Giao thông thuận lợi có cả
đường bộ, đương sắt và đường sông. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh, nằm trên trục đường quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45
km về phía Đông và cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có 20 km
quốc lộ 18 chạy qua, nối sân bay quốc tế Nội Bài ra biển ( qua cảng Cái Lân - Quảng Ninh
). Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng chạy qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội và các
tỉnh phía Bắc ra các cảng biển. Hơn nữa, Hải Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ ( Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh ), sẽ là thuận lợi cho Hải Dương tham gia mạnh mẽ
vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, đặc biệt là trao đổi hàng hoá với
các tỉnh bạn, các thành phố lớn và xuất khẩu.
Trong quy hoạch phát triển du lịch quốc gia, Hải Dương nằm trong không gian trung
tâm du lịch Hà Nội và các vùng phụ cận thuộc vùng du lịch Bắc Bộ, với tiềm năng du lịch
nổi trội như du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch làng nghề độc đáo Mặt khác, Hải
Dương gần vị trí trung tâm du lịch biển Hải Phòng, Hạ Long, có hệ thống đường bộ và hệ
thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói
riêng.
1.2. Đặc điểm địa hình.
Là tỉnh vừa có vùng đồng bằng vừa có đồi núi tạo cho Hải Dương có khả năng phát
triển mạnh và đa dạng các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Vùng đồi núi của tỉnh chiếm khoảng
10% diện tích đất tự nhiên, còn lại là vùng đồng bằng chiếm 90% diện tích đất. Địa hình của
Hải Dương nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một
số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng úng ngập vào mùa mưa. Hệ thống sông ngòi của tỉnh
khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, sông Luộc và các trục Bắc Hưng Hải, có
khả năng bù đắp phù sa cho đồng ruộng, đồng thời cũng là tuyến giao thông thuỷ, tạo điều
kiện tốt cho việc giao lưu hàng hoá nội tỉnh cũng như với các tỉnh khác trong vùng. Tuy
nhiên, sông ngòi có nhiều cũng gây khó khăn trong việc đầu tư đắp đê phòng chống lụt bão
và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất .
1.3. Đặc điểm khí hậu.
Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng Châu thổ sông Hồng, Hải Dương nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 – 1700 mm, nhiệt
độ trung bình hàng năm là 23oC, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Lượng mưa phân bố
không đồng đều, tập trung vào tháng 7 và tháng 8, dễ gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất
và dân sinh. Độ ẩm không khí trung bình là từ 75 – 80%, các tháng có độ ẩm cao là tháng 7
và tháng 8, với độ ẩm trung bình là 80 – 86%. Hải Dương mang đầy đủ những đặc thù của
khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều và có 4 mùa rõ rệt: mùa xuân, mùa hạ, mùa
thu, mùa đông. Nhìn chung, khí hậu của Hải Dương thuận lợi cho môi trường sống của con
người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật và thích hợp cho các hoạt động du lịch.
Đặc biệt điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau mầu thực
phẩm, đặc biệt là khả năng trồng rau xuất khẩu.
1.4. Đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng, rừng và hệ sinh thái.
1.4.1.Đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng.
- Đất đai.
Đất ở Hải Dương chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đồng bằng chiếm 89% diện tịch tự
nhiên, chủ yếu là đất phù sa sông Thái Bình, thuận tiện cho việc sản xuất nhiều loại cây
trồng cho năng xuất cao. Vùng đất đồi núi chiếm 11%diện tích tự nhiên nằm gọn ở phía
Đông Bắc thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, vùng đất này nhìn chung nghèo chất dinh
dưỡng, chủ yếu dành cho phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công
nghiệp như lạc, chè.
- khoáng sản.
Khoáng sản không nhiều nhưng có một trữ lượng lớn với giá trị kinh tế cao là nguồn
nguyên liệu quý giá để phát triển công nghiệp, đó là nguồn đá vôi có trữ lượng khoảng 200
triệu tấn đủ để sản xuất 4-5 triệu tấn xi măng/năm, nguồn cao lanh 40 vạn tấn, đất sét chịu
lửa khoảng 80 triệu tấn
1.4.2. Rừng và hệ sinh thái.
Trong những năm qua do phát triển kinh tế của tỉnh chưa theo quy hoạch thống nhất,
việc khai thác đất, chặt phá rừng bừa bãi ở thượng nguồn đã tác động xấu tới điều kiện sinh
thái của Hải Dương, ngoài ra việc sử dụng không hợp lý số lượng không nhỏ thuốc trừ sâu,
phân hoá học trong quá trình canh tác, đồng thời mức độ phát triển công nghiệp và quá trình
đô thị hoá tăng nhanh, chất thải ngày một nhiều đã ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, môi
sinh.
Nhìn chung hệ sinh thái của tỉnh Hải Dương ngày một bị xâm phạm, tính cân bằng
đang bị phá vỡ. Vì vậy, vấn đề trước mắt cần giải quyết ngay là: phải có chính sách hữu hiệu bảo
vệ và chăm sóc diện tích rừng hiện có và nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi trọc còn lại.
Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ môi trường để duy trì và làm giầu tài nguyên đất.
1.5. Tài nguyên nước.
Nguồn nước tại Hải Dương khá phong phú, hệ thống sông ngòi khá dầy đặc với các
sông lớn là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thầy. Ngoài ra, trên lãnh thổ
Hải Dương còn có rất nhiều ao hồ được phân bố rộng khắp trên khắp địa bàn tỉnh.
1.6. Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Phần lớn đất đai của Hải Dương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, ở phía Đông Bắc có 2
huyện niềm núi, tuy không rộng lớn nhưng có cảnh quan đa dạng. Vùng Chí Linh núi đồi
trùng điệp cao không quá 700m, rừng cây xanh tốt, rất thuận lợi cho việc xây dựng những
công trình văn hoá. Vùng Kinh Môn có nhiều núi đá vôi, có những hang động kỳ thú, nơi
còn di tích của con người từ thời đại đồ đá mới. Cách đây hàng ngàn năm, dân tộc ta đã
quan tâm tới 2 vùng cảnh quan đặc biệt này. Côn Sơn, Thanh Mai thế kỷ 14 đã trở thành
Trung tâm của thiền phái Trúc Lâm, đến thế kỷ 17, Kính Chủ trở thành động nổi tiếng của
đất nước, nơI để lại bút tích của danh nhân thời đại.
Hải Dương có địa hình khá bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn với những
cánh đồng lúa tốt tươi, những dòng sông lớn, môi trường tự nhiên khá trong sạch. Nhiều
làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Du lịch
sinh tháI, nghỉ dưỡng, du khảo đồng quê, tham gia nghiên cứu khao học. Các tài nguyên du
lịch tự nhiên thường gắn với tài nguyên du lịch nhân văn. Một số tài nguyên du lịch tự nhiên
tiêu biểu xin được dẫn ra sau đây.
1.6.1. Khu danh thắng Phượng Hoàng – Kỳ Lân.
Khu danh thắng thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh. Phượng Hoàng là khu danh
thắng có rừng thông bát ngát, suối trong róc rách, núi đá lô xô, chùa tháp cổ kính, khu danh
thắng có tới 72 ngon núi ngoạn mục, có mộ và đền thờ Chu Văn An một người thầy tiêu
biẻu cho tài coa đức trọng của nền giáo dục Viêt Nam. Có chùa Huyền Thiên, cung Tử Cục,
điện Lưu Quang, am Lệ Kỳ, miết Trí và giếng Soi.
Khu thắng cảnh này rất thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi, thăm di
tích lịch sử.
1.6.2. Khu di tích danh thắng Côn Sơn.
Khu di tích ở xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, nằm giữa 2 dãy núi Phượng Hoàng –
Kỳ Lân, cách Hà Nội khoảng 70km
Khu di tích danh thắng này có nhiều núi, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di
tích gắn liền với cuộc đời của danh nhân lịch sử. Ngay từ thời Trần chùa Côn Sơn là 1 trong
3 Trung tâm của thiền phái Trúc Lâm ( Côn Sơn – Yên Tử – Quỳnh Lâm ). Mảnh đất này đã
gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán,
Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được nhiều dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn lịch
sử của dân tộc.
* Giếng Ngọc.
Giếng ngọc nằm ở núi Kỳ Lân, bên phải lối lên Bàn Cở Tiên, phía dưới chân Đặng
Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo
mộng ban cho chùa nguồn nước quý. Nước giếng trong vắt xanh mát quanh năm, uống vào
thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên gọi là Giếng Ngọc và nước ở đây được các sư dùng làm
nước cúng lễ của chùa.
* Bàn Cờ tiên.
Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn. Đỉnh Côn Sơn là
một khu đất bằng phẳng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên có dùng nhà bia theo kiểu Vong Lâu Đình,
hai tầng cổ các có 8 mái. Đứng từ đây, du khách có hể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn.
* Thạch Bàn.
Bên suối Côn sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng
chân nghỉ tại đây khi Người đến thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá
xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch
Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyên Trãi lấy làm “chiếu thảm” nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm
thơ và suy tư việc nước.
1.6.3. Khu vực núi An Phụ.
Đây là dãy núi nổi lên như một nón chóp khổng lồ xanh đậm một rừng cây, mờ ảo
vài công trình kiến trúc giữa vùng đồng bằng phía bắc Hải Dương. Núi còn nhiều những cây
rừng thiên nhiên. Đỉnh núi cao 246m. Từ đỉnh núi người ta có thể nhìn bao quát về đồng
bằng Hải Dương, nhìn thấy sông Kinh Thầy uốn khúc, thấy khu vực núi đá vôi Kinh Môn
nên thơ. Trên đỉnh núi là đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là Đền Cao, còn văn
bia của An Phụ Sơn Từ với 2 giếng nước mang đầy cổ tích Mới đây, Bộ Văn hoá đã cho
xây dựng một tượng đài Trần Hưng Đạo hoành tráng, những tấm phù điêu bằng gốm nung,
bậc lên xuống bằng đá Việc điểm xuyết của con người đã khiến cho khu vực núi An Phụ
có sức hấp dẫn lớn đối với du khách.
1.6.4. Khu hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham( Kinh Môn)
Nằm về phía bắc của đỉnh Yêu Phụ, trong dãy Dương Nham như một hòn Non bộ
khổng lồ giữa mênh mông sóng lúa của thung lũng Kinh Thầy. Phía Bắc Dương Nham dòng
sông lượn sát chân núi, sơn thuỷ hữu tình, phía tây Nam Dương Nham là làng quê cổ Kính
Chủ – quê hương của những người thợ đá xứ Đông, sườn phía Nam Dương Nham có mộit động
lớn gọi là động Kính Chủ ( hay động Dương Nham ), đã được xếp vào hàng Nam Thiên.
Khu núi đá vôi Dương Nham và động Kính Chủ còn gắn liền với các trang lịch sử hào hùng của
dân tộc chống quân Nguyên, vùng núi đá nơi Dương Nham còn gắn liền với lịch sử hình thành người
Việt cổ, cảnh đẹp nơi đây rất hấp dẫn đối với khách du lịch.
1.6.5. Khu Lục Đầu Giang – Tam Phủ Nguyệt Bàn.
Đây là một khu vực sông trải dài sát với các hệ thống di tích của Kinh Bắc. Trên khúc sông này
có khu vực bãi bồi gắn liền với các truyền thuyết đánh quân Nguyên nơi có hội Bình Than
1.6.6. Khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà
Là một miệt vườn nổi tiếng với cây Vải Tổ. Giống vải ở đây ngọt và rất có giá trị với nhân dân
ta và khách du lịch. Sản phẩm từ vải cũng được chế biến một cách sinh động, Rượu vải, vải khô, vải “
tham gia ” làm vị thuốc. Vùng vải thiều này hiện thời được trải rất rộng bám dòng sông Hương ( Thanh
Hà kỳ thú, thơ mộng.
1.6.7.Làng cò ( Chi Lăng Nam Thanh Miện).
Làng Cò thuộc xã Chi Lăng, huyện Thanh Miện. Gọi là làng Cò vì làng có một đảo nhỏ nằm
giữa hồ vực rộng mênh mông với hàng vạn con cò về đây trú ngụ, xây tổ. Trên đảo có tới 9 loài cò, cò
trắng, cò lửa, cò bộ, cò ruồi, cò đen, cò hương, cò nghênh, cò ngang, diệc. Ngoài ra trên đó còn có tới
ba, bốn ngàn loài Vạc và các loại chim quý hiếm như Bồ Nông, Mòng Két, Le Le cùng trú ngụ ở nơi
đây. Đến đây vào lúc hoàng hôn hay sớm mai là lúc
“ giao ca ” thú vị giữa cò và vạc trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày.
1.6.8. Khu Ngũ Nhạc Linh Từ – Lê Lợi, Chí Linh
Khu vực đền Ngũ Nhạc là nơi thờ Sơn Thần theo tín ngưỡng người Việt cổ. Trước đây đã
từng có 5 miếu nhỏ trên 5 đỉnh núi, được tôn tạo từ thời Nguyễn. Những công trình này đều mang
tính cổ xưa và gắn với phong cảnh núi non.
1.6.9. Khu rừng Thanh Mai.
Một khu vực rừng Thanh Mai gắn liền với những đền chùa, một trong những quê
hương của Trúc Lâm Tam Tử.
1.6.10. Thiên nhiên của nền văn hoá lúa nước.
Dường như mật độ các dòng sông và một hệ thống đình, đền, chùa được bố cục dày
đặc trên toàn tỉnh. Những đình, đền, chùa này đều gắn liền với cây đa, bến nước hoặc những
dòng sông, bến đò luôn luôn tạo nên những cảnh đẹp dễ gây ấn tượng đối với du khách.
Phải chăng trong mỗi người dân Việt Nam hình ảnh về cây đa, bến nước, sân đình đã gần
như trở thành một biểu tượng của Văn hoá Việt.
1.6.11. Mỏ nước khoáng ở Thạch Khôi.
Đây là một mỏ nước nóng đã từng là nguồ để tạo nên nước khoáng. Nhiệt độ nóng
đến mức tương đối vừa phải và được sử dụng để chữa bệnh. Cần thiết phải có nghiên cứu
sâu hơn về nguồn nước ở khu vực này để khai thác vì mỏ nước khoáng này rất gần thành
phố Hải Dương.
1.7. Tài nguyên du lịch nhân văn.
1.7.1. Tài nguyên du lịch văn hoá vật thể.
* Các di tích lịch sử văn hoá, cách mạng.