LUẬN VĂN:
Quản trị kinh doanh Makerting
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản trị kinh doanh Makerting
I. Khái niệm, vai trò của quản trị Marketing.
1. Khái niệm công ty thương mại theo quan điểm Marketing:
Từ góc độ macro- marketing, công ty thương mại được hiểu là một đơn vị kinh doanh
thương mại độc lập, được tổ chức theo quan điểm phân công lao động xã hội và Marketing
thương mại thoả mãn nhu cầu thị trường xã hội.
Như vậy, không phải bất kỳ 1 DNTM nào cũng là và đã trở thành công ty thương mại.
Điều này chủ yếu phụ thuộc vào những qui tắc pháp luật và bản thân mức độ độc lập của
đơn vị kinh doanh trên 3 mặt:
- Mức độ độc lập về tài sản
- Mức độc lập tác nghiệp
- Mức độc lập về pháp luật
Trên góc độ micro- marketing, công ty thương mại được hiểu là một chỉnh thể tổ chức và
công nghệ tiếp thị bán hàng trên thị trường, mục tiêu của nó là bao gồm một tổ hợp các đơn vị
DNTM (của hàng, trạm, kho ) và các cơ cấu quản trị.
Với góc độ tiếp cận này, các quá trình kinh doanh của công ty thương mại được thực hiện
trong phạm vi quản trị, điều hành và tác nghiệp mục tiêu các quan hệ tổ chức xác định so sánh
với các loại hình công ty có đặc trưng sản xuất khác, công ty thương mại có đặc trưng sau:
- Trình độ tán xạ lớn hơn các hoạt động cơ bản
- Tính phức hợp và phân hoá cao của cấu trúc tổ
- Tỷ trọng lao động sống lớn
- Tính nhất thể hoá hữu cơ các hoạt động thương mại.
Từ những phân định trên về khái niệm công ty thương mại, cần nhận thức rằng để đáp ứng
đúng khái niêm công ty thương mại, không phải bất kỳ 1 kiểu và trình độ tổ chức DNTM nào
cũng có bản chất tổ chức công ty thương mại hợp lý và hợp thức.
2. Điều kiện hoạt động của công ty thương mại:
Một công ty khi hoạt động kinh doanh cần phải đáp ứng các điều kiện về pháp lí và
năng lực hành vi tức là phải có tính hợp pháp và có khả năng hoạt có hiệu quả.
Về năng lực pháp lí:
Công ty cần có những điều kiện sau
- Phải được nhà nước thành lập hoặc thừa nhận và bảo hộ
- Phải có tài khoản riêng ở ngân hàng tự chủ về tài chính
- Độc lập về tài sản có kết cấu tài sản phù hợp với lĩnh vực kinh doanh mà công ty
đăng ký
- Độc lập, bình đẳng trong các quan hệ xã hội: Có trụ sở, tên gọi con dấu riêng, độc
lập giao dịch, có cơ cấu tổ chức riêng, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt
dộng kinh doanh của mình
Về năng lực hành vi:
Công ty cần phải đáp ứng được các yêu cầu theo luật thương mại, luật hợp đồng kinh
tế
- Tính hợp pháp thành lập, có giấy phép kinh doanh hoạt động đúng lĩnh vực cho
phép, đúng pháp luật
- Có bộ máy tổ chức, hệ công nghệ thích hợp đảm bảo cho lĩnh vực kinh doanh mà
công ty tham gia.
- Có năng lực tài chính: Đủ vốn pháp định, có khả năng huy động vốn 1cách hợp
pháp.
- Có năng lực chịu trách nhiệm về tài sản và pháp luật
Như vậy, nếu một công ty có được năng lực pháp lý như là điều kiện cần thì năng lực
hành vi là điều kiện đủ để xác lập tư cách pháp nhân hợp lý. Nếu như những điều kiện qui
định năng lực pháp lý tạo ra tiền đề cho sự độc lập và đảm bảo cho kinh doanh thì năng lực
hành vi quyết định những quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ luật định của công ty
thương mại.
3. Chức năng tác nghiệp của công ty thương mại:
Xuất phát từ vị trí của hệ thống Marketing công ty thương mại với môi trường kinh
doanh và thị trường của nó, xuất phát từ việc phân định vị thế, vai trò các trung gian thương
mại trong hệ kênh và mạng phân phối, xuất phát từ việc phân định nội dung chức năng công
nghệ tiếp thị thương mại chung của một công ty thương mại, về mặt tác nghiệp các công ty
thương mại nói chung có các nhóm chức năng chủ yếu sau:
H 1.1. Chức năng tác nghiệp của doanh nghiệp thương mại
Nhóm các chức năng trung gian kết nối thương mại: Bao gồm các chức
năng kết nối về không gian, thời gian, chức năng giao tiếp - phối thuộc, chức năng thông tin.
- Chức năng kết nối không gian: Có quan hệ với việc khắc phục khoảng cách
không gian giữa các nơi sản xuất đến các nơi tiêu thụ - tức khoảng không gian từ khởi điểm
đến kết thúc kênh phân phối vận động.
Công
ty thuơng
Nhóm chức năng
k
ết nối
K
ết nối
thời
gian
Nhóm chức
năng
Kết
nối
không
gian
Nhóm chức
năng
Nghiên
cứu
Marketin
g m
ục
Chức
năng
th
ực
Hình
thành
dự trữ
Chuy
ển
hoá
mặt
hàng
Giao
tiếp
ph
ối
Chức
năng
thôn
g
Chức
năng
tư vấn
Chức
năng
giáo
B
ảo vệ
quản
lý
ch
ất
Nghiên
cứu
phát
tri
ển
- Chức năng kết nối thời gian: Có quan hệ mật thiết với phân phối - vận động
hàng hoá. Khoảng cách không gian đến nguồn giao hàng càng xa nhu cầu về tiêu dùng có tính
thất thường và gấp rút về thời gian bấy nhiêu.
- Chức năng giao tiếp phối thuộc: Biểu hiện trong hoạt động tổ chức phức tạp.
Với mục đích là liên kết và sắp xếp tổ chức các mối quan hệ của công ty thương mại với các
bạn hàng quyết định và giữa các doanh nghiệp của công ty thương mại hoạt động trên các địa
điểm khác nhau của khu vực thị trường được cung ứng. Một mặt nó là sự phối hợp - cung ứng
- tiêu thụ với những người tiêu thụ, mặt khác là sự giao tiếp phối hợp trong lĩnh vực thông tin
thanh toán tài chính. Vì vậy, chức năng giao tiếp là một chức năng quan trọng có ảnh hưởng
đến các khâu của quá trình vận động hàng hoá.
- Chức năng thông tin: Được thực hiện trong mối liên hệ với chức năng giao tiếp
phối thuộc. Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển chức năng thông tin cũng có vị trí
quan trong và cần thiết.
Nhóm các chức năng thương mại hàng hoá: Bao gồm các chức năng hình
thành dự trữ, chuyển hoá mặt hàng, bảo vệ và quản lý chất lượng hàng hoá, nghiên cứu và
phát triển mặt hàng mới
- Chức năng hình thành dự trự của công ty thương mại: Xuất phát từ yêu cầu
khách quan của dự trữ hàng hoá trong phân phối, vận động hàng hoá để điều tiết và khắc phục
những chênh lệch về không gian, thời gian, nhịp độ chức năng này yêu cầu phải phân phối
kết cấu dự trự tối ưu mỗi khâu đảm bảo yêu cầu dự trữ hàng hoá càng tiếp cận gần lĩnh vực
tiêu dùng có qui mô càng lớn.
- Chức năng chuyển mặt hàng: Xuất phát từ những chênh lệch giữa mặt hàng sản
xuất và mặt hàng thương mại, từ yêu cầu của hạch toán kinh doanh và phát triển trong cạnh
tranh mặt hàng thích ứng cao với kết cấu các thành tố nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
- Chức năng bảo vệ và quản lý hàng hoá: Có liên quan đến quá trình tiếp tục sản
xuất trong quá trình phân phối vận động hàng hoá.
Nhóm các chức năng thương mại thị trường: Bao gồm các chức năng thực
hiện, chức năng nghiên cứu marketing thương mại, chức năng giáo dục và giáo dưỡng nghiên
cứu thị trường
- Chức năng thực hiện: Đây là chức năng quan trọng nhất không chỉ có ý nghĩa
trong công ty mà còn có ý nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Chức năng nghiên cứu marketing thương mại: Đây là nét đặc biệt của công ty
thương mại. Tuỳ theo loại hình và vị trí của các công ty thương mại trong toàn bộ kênh phân
phối mà nội dung và kỹ thuật nghiên cứu có điểm khác nhau
- Chức năng giáo dục và giáo dưỡng nhu cầu thị trường: Là những nét điển hình
của công ty thương mại có tư duy kinh doanh hiện đại, các công ty thương mại phải góp phần
thực hiện một bộ phận nhiệm vụ của xã hội trên bình diện giáo dục và giáo dưỡng việc tiêu
dùng kinh tế. Chức năng này được thực hiện một cách gián tiếp thông qua cung ứng và chào
hàng.
- Chức năng tư vấn: Trên đây là những chức năng tác nghiệp của các công ty
thương mại trong cơ chế kinh doanh đổi mới ở nước ta hiện nay. Những chức năng này bao
hàm và thích ứng với vị trí đặc biệt cũng như các mục đích kinh tế xã hội của một công ty
thương mại hiện đại.
4. Các khái niệm cơ bản của quản trị Marketing:
4.1. Là quá trình phân tích hoạch định tổ chức thực hiện và K/sóat của chương
trình, các mục tiêu nhằm tạo dựng duy trì mở rộng những trao đổi có lợi với người mua mà
công ty muốn hướng đến.
Hình 1.1
Chiến lược
chung c
ủa
Hoạch định
chi
ến l
ư
ợc
Ki
ểm tra
đánh giá
chiến
lư
ợc
Tổ chức
thực
hiện
chi
ến
4.2. Nội dung, quy trình các bước trong quản trị Marketing
B1.Tiến hành phân tích các cơ hội thị trường
B2. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu
B3. Hoạch định chiến lược Marketing
B4. Hoạch định các chương trình Marketing
B5. Tiến hành T/c thực hiện các chương trình Marketing
B6. Kiểm tra đánh giá hoạt động Marketing.
Như vậy quản trị Marketing theo định hướng theo điều kiện hiện nay sẽ được coi là
nguyên lý kinh doanh nếu mọi hoạt động trong quá trình quản trị đều hướng vào việc thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng.
Xét về tổng thể quản trị Marketing trong điều kiện hiện nay phải thỏa mãn được các yếu
tố
Định hướng khách hàng: cố gắng bằng mọi giải pháp để thỏa mãn khách hàng
Định hướng đối thủ cạnh tranh (So sánh đối thủ cạnh tranh)
Phảiđảm bảo sự phôi kết hợp và liên kết các chức năng
Phải có định hướng, trọng tâm trong dài hạn
Bảo đảm khả năng tạo LN
4.3. Vị trí và mục tiêu của quản trị Marketing trong quản trị kinh doanh của công
ty.
- Vị trí và vai trò của quản trị Mareting
Quản trị Marketing đảm bảo sự trung gian kết nối giữa hạt nhân và khách hàng và các
yếu tố trong quá trình kinh doanh
Nó có tác động mạnh mẽ đến mức độ thời điểm và cơ cấu của nhu cầu có khả năng thanh
toán để đạt được mục tiêu đặt ra.
1
2
3
4
5
6
- Mục tiêu : Bảo đảm tối đa hóa khả năng tiêu thụ,tối đa hóa sự thỏa mãn của khách
hàng,tối đa hóa sự lựa chọn cho khách hàng trong kinh tế thị trường (phong phú về sản lượng
và chất lượng),tối đa hóa chất lượng cuộc sống (cuộc sống phát triển do sản phẩm chất lượng
phát triển, an toàn hơn).
II. Cơ sở lý thuyết marketing của mặt hàng kinh doanh thương mại.
1. Khái niệm và cấu trúc mặt hàng thương mại.
1.1. Khái niệm mặt hàng thương mại được hiểu là một phối thức sản phẩm hỗn hợp
(aproduct- formulection – mix) được lựa chọn, xác định và chuẩn bị để bán ở các cơ sở doanh
nghiệp thương mại đối với thị trường mục tỉêu và cho những tập khách hàng trọng điểm xác
định.
Như vậy mặt hàng thương mại phản ánh tích lựa chọn mục tiêu và độ chín tới, để
thương mại hóa một sản phẩm, nó là yếu tố quyết định nhất của Marketing – mix mục tiêu của
bất kỳ công ty kinh doanh nào nói chung và công ty thương mại nói riêng.
1.2. Cấu trúc mặt hàng thương mại.
Có thể mô hình hóa khái niệm mặt hàng thương mại theo cấu trúc của nó
bằng công thức sau:
Mặt
hàng
thương
mại
=
Phối
thức
sản
phẩm
hỗn
hợp
+
Mức
giá
khả
thích
+
Giao
tiếp
mục
tiêu
+
Tiếp cận
phân phối
tổng hợp
Thị
trườngmục
tiêu khách
hàng trọng
điểm
→
1.2.1. Phối thức sản phẩm hỗn hợp.
Một phối thức sản phẩm hàng hóa được hiểu là một tổ hợp hữu cơ 3 lớp thuộc tính hàng
hóa của một sản phẩm Marketing.
Hình 2.1.Cấu trúc thuộc tính của phối thức sản phẩm hàng hóa.
Như vậy một phối thức sản phẩm được cấu tạo từ 3 mức sản phẩm gia tăng. Điều đó
khẳng định triết thương mại hiện đại đã được Ch.Revlon nêu từ lâu. Trong công xưởng người
ta làm ra các mỹ phẩm, trong cưả hàng người ta bán ra các hy vọng. Bản chất của sản phẩm
cốt lõi không phải là một tập hợp các thông số hợp thành công năng sản phẩm và không aibán
công năng sản phẩm mà bán lơị ích của công năng sản phẩm tạo ra khi mua sản phẩm, khách
hàng thỏa mãn về bản chất, nhu cầu của mình. Vì thế sản phẩm cốt lõi được đặt ra ở trung tâm
của mô hình phối thức sản phẩm hàng hóa.
L
ợi ích
công năng
cốt lõi
Bao gói
Tên nhãn
Ch
ất
lượng
cảm
nhân
được
D
ịch vụ
trước bán
Phong
cách
mẫu mã
Đ
ặc tính
nổi trội
Đi
ều kiện giao
hàng và thanh
toán
L
ắp
đ
ặt
sử dụng
B
ảo
hành
D
ịch vụ trong và
sau bán
S
ản phẩm
gia tăng
S
ản phẩm
hiện hữu
S
ản phẩm cốt
lõi
Mức sản phẩm hiện hữu bao gồm:Mức chất lượng, đặc tính nổi trội, phong cách mẫu
mã, bao gói và các dịch vụ trước bán. Cuối cùng để kích thích làm gia tăng quyết định mua
của khách hàng, người hoạch định định hướng hoặc quản trị, MKT mặt hàng có thể đưa thêm
những dịch vụ lợi ích bổ sung để hình thành mức sản phẩm đưa thêm những dịch vụ lợi ích bổ
sung để hình thành mức sản phẩm gia tăng (Agemented Product).
Theo Levi.H - Một chuyên gia nổi tiếng vềquản trị MKT Mỹ đã nói : “Sự cạnh tranh
hiện đại không phải là giữa những gì sản xuất được tại công xưởng của họ mà chính là những
gì họ thêm vào đầu ra của các công xưởng bao gói, dịch vụ, quảng cáo, tư vấn khách hàng, thu
xếp gửi hàng… hoạt độngkho và các thứ khác mà khách hàng đánh giá được.
1.2.2. Mức giá khả thích là một trong những thông số tiếp theo để tạo lập mặt hàng
thương mại là giá bán tương thích vơi lợi ích do phối thức đó mang lại khii mua (trả giá) và
khả năng thị trường của tập khách hàng trọng điểm với giá bán. Điều này không chỉ liên quan
đến giá trị thương mại của mặt hàng mà còn có quan hệ đến giá tiêu dùng của phương thuế
sản phẩm đó. (ở đây giá tiêu dùng được hiểu là chi phí bằng tiền và năng lượng để sử dụng
trong suốt tuổi thọ của sản phẩm.Điều này đặc biệt quan trọng đối với mặt hàng điện máy,
điện tử và các mặt hàng vật tư thiết bị - Giá thành tiêu dùng chiếm 80% đến nhiều lần giá TM
của sảp phẩm.
1.2.3. Giao tiếp mục tiêu:
Sự khác biệt và thiếu hoàn thiện của sản phẩm với mặt hàng thương mại là ở chỗ nhãn
hiệu của nó, mặt khác một mặt hàng thương mại đều được định hình cho một mục tiêu thị
trường và tập khách hang trọng điểm. Nghĩa là nó phải bao gồm một phối thuế giao tiếp chào
hàng thương mại xác định phù hợp với chiến lược chấp nhận của tập khách hàng từ nhận biết-
kích thích thị hiếu. Đánh giá cân nhắc thuýêt phục và chấp nhận như vậy để tạo lập một mặt
hàng thương mại một phối thuế sản phẩm, một kỹ thuật nhãn hiệu bao bì, một định vị chào
hàng thương mại trong và ngoài cơ sở DNTM - phối thức giao tiếp thương mại mục tiêu.
1.2.4. Tiếp cận phương pháp tương hợp:
Một phối thứcsản phẩm với mức giá khả thi không thể tự thân nó bán được vấn đề còn là
ở chỗ sự phối hợp đó phải được chuẩn bị sẵn sàng, đúng lúc trong chỗ trong tuyến công nghệ
hình thành từ phân phối nơi bán hàng đặt một loại hình cửu hàng, một sứcbán tổng hợp quá
trình. Điều này đồng nghĩa một mặt hàng thương mại phải đảm bảo tính kịp thời và độ chín tới
ở các nơi bán của cơ sở doanh nghiệp thương mại xác định.
1.3. Khái niệm và cấu trúc sản phẩm hỗn hợp
Quản trị MKT mặt hàng ở các côngty thương mại có sự khác biệt điển hình so với các
công ty sản xuất đó là sự hội tụ và phức tạp của rất nhiều nhóm, loại và tên hàng khác nhau để
tạo thành mặt hàng hỗn hợp (asortiment - mix).
ở đây mặt hàng hỗn hợp hay còn gọi là gamme mặt hàng, phổ mặt hàng thương mại
được hiểu là tập hợp có lựa chọn và phối mục tiêu các nhóm, loại, mặt hàng và được ghi vào
tổng danh mục hàng hóa mà một công ty, một cơ sở DNTM chào hàng và chuẩn bị bán cho
khách hàng trọng điểm trên một khu vực thị trường mục tiêu xácđịnh.
Cấu trúc mặt hàng hỗn hợp của một công ty thương mại được xác định bởi 4 thông số
sau:
- Chiều rộng phổ mặt thường biểu thị trong lượng các nhóm mặt hàng khác nhau mà
công ty kinh doanh để thỏa mãn các nhu cầu khác nhau. Trong trường hợp ở các cửu hàng
chuyên doanh một nhóm hàng xác định chiều rộng phổ mặt hàng có thể xác định bằng tổng số
loại, kiểu mặt hàng thỏa mãn nhu cầu khác nhau trong nhóm hàng.
- Chiều sâu phổ mặt hàng được phân định bằng tổng số loại và phương án mặt hàng
cùng thỏa mãn một nhu cầu như nhau nhưng khác nhau về pha chộn phương thức sản phẩm và
mức giá.
- Chiều dài phổ mặt hàng được xác định tổng số mặt hàng trên tổng số doanh mục mặt
hạng kinh doanh của công ty hoặc cơ sở doanh nghiệp TM
- Độ bền tương hợp của phổ mặt hàng biểu thị độ liên quan chặt chẽ về mức tương
quan, tỷ lệ liên kết giữa các nhóm mặt hàng khác nhau hoặc trong tiêu dùng. cuối cùng hoặc
trong những yêu cầu của sản xuất hoặc trong các kênh phân phối và một vài góc độ xem xét
khác. Các nhóm mặt hàng có độ bền tương hợp càng kém nếu chúng thực hiện chức năng càng
khác nhau với khách hàng.
2. Phân loại các mặt hàng thương mại.
2.1. Phân loại các mặt hàng thương mại:
Nguyên tắc cấu tạo phân loại: Để cho mỗi tên hàng đều được xác định một cách thống
nhất, đều được sắp xếp một vị trí xác định, mang một mã số xác định và được quy định như
sau:
Cấu trúc mã số bao gồm 3 bậc:
Ngành và lớp hàng
Nhóm và phân nhóm
Loại kiểu
Tên
Hình 2.2 Quy tắc mã hóa một mặt hàng trong thương mại.
Bậc 1. Ngành và lớp hàng - Mã 3 số đầu
Bậc 2. nhóm và phân nhóm mặt hàng - Mã 2số sau
Bậc 3. loại và tên mặt hàng - Mã 1số và một vài số cuối.
Ngành hàng
Nhóm hàng
Phân nhóm
Lo
ại hàng
Tên hàng
Trứng các loại
207
Trứng gia cầm
7
Trứng gà công
nghiệp
3
Tươi lạnh khô
13
Chất lượng
A B C
207 78 031
Quần áo may
sẵn
405
áo sơ mi, áo
dệt chui, áo vet
3
Nam
4
áo sơ mi sợi
19
Các biết thế chào
hàng, kiểu màu
05 34 1931
Hình 2.3. Ví dụ cấu trúc phân loại và mã hóa mặt hàng
Ngoài mã số để phân lọai hàng hóa đối với hàng hóa công ty KDTM còn có hệ thống
mã số và mã vạch để xác định mặt hàng cụ thể phân biệt với hàng hóa khác. Mã số hàng hóa
là con số duy nhất đặc trưng cho một loại hàng hóa. Bản thân mã số là mộtdãy số đại diện cho
hàng hóa nó không liên quan đến đặc điểm của hàng hóa, nó không phải là phân loại hay chất
lượng của hàng hóak tên mã số cũng không ghi giá cả của hàng hóa.
Hiện nay trong thương mại tên hàng toàn thế giới chủ yếu áp dụng hai hệ thống mã số
hàng hóa sau.
- Hệ thống UPC (Univesal Prodcut Code) được sử dụng từ 190 và hiện nay sử dụng ở
Mỹ và Canađa.
- Hệ thống EAN (European article Number) được sử dụng 1974 ở Châu Âu và được
áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới.
Hệ thống EAN gồm hai loại :EAN -13 và EAN -8
Loại EAN 13 gồm 13 con số cấu tạo như sau.
+ 3 con số đầu (kể từ bên trái) là mã số quốc gia
+ 4 số tiếp theo là mã doanh nghiệp
+ 5 số sau nữa là mã mặt hàng.
+ Số cuối là số kiểm tra.
Mã số của sản phẩm Hazeline là 888 713 8 00244 5
888 7138 00244 5
Mã Quốc gia Mã Doanh nghiệp Mã mặt hàng Số kiểm tra
Có trường hợp mã quốc gia chỉ hai chữ số thì mã doanh nghiệp phải là năm chữ số để
tổng 13
Mã số EAN gồm 8 con số cấu tạo như sau:
+ Ba số đầu là mã số quốc gia
+ Bốn số sau là mã mặt hàng
+ Số cuối là số kiểm tra
EAN -8 chỉ sử dụng trên những sản phẩm có kích thước nhỏ không đủ chỗ ghi mã
EAN 13
Nhà sản xuất phải đảm bảo mỗi hàng hóa của mình chỉ có một mã số riêng, không
được có bất kỳ sự nhầm lẫn nào.Mã mặt hàng do nhà sản xuất quy định cho hàng hóa của
mình.
Mã vạch là một nhóm các vạch và khoảng trông song song đặt sen kẽ dùng để thể
hiện mã số dưới dạng máy quét (Sanner) có thể đọc được. Mã vạch thể hiện mã số EAN gọi là
mã vạch EAN mỗi con số được thể hiện bằng hai mã vạch và hai khoảng trống theo 3 phương
án khác nhau, mỗi vạch hoặc mỗi khoảng trong độ rộng từ 1 đến 4 môdun. Như vậy mã vạch
EAN thuộc loại mã đa chiều mỗi môdun có tính chất là 0,33mm mã vạch EAN có cấu tạo như
sau:
Kể từ bên trái, khu vực để trống không ghi ký hiệu nào cả, ký hiệu bắt đầu, ký hiệu dáy
số bên trái, ký hiệu phản ánh, ký hiệu dãy số bên phải, số kiể tra, ký hiệu kết thúc sau đó là
khoảng trống bên phải.
Toàn bộ khu vực mã vạch EAN -13 tiêu chuẩn có chiều dài 37,29m m cao 25,93mm.
Mã vạch EAN -8 có cấu tạo tương tự nhưng chiều dài tiêu chuẩn là 26,73mm và cao
21,31mm.
2.2. Mã số catalogue của mặt hàng thương mại
Phần loại và mã hóa thống nhất trên mặc dù có nhiều ưu việt, nhưng trong hoạt động
tiếp thị việc sử dụng có nhiều khó khăn do một số có khi rất dài 8-13 con số và trong một số
trường hợp không bao hàm được hết, vì vậy trong các công ty thương mại hoặc một hệ thống
thương mại ) của mặt hàng. Vì chúng thường được sử dụng trong các catalaguc) hàng hóa và
xếp theo thứ tự từ các nguồn cung ứng sơ cấp (sản xuất và nhập khẩu), và phổ biến áp dụng
trong quan hệ đặt hàng giữa thương mại bán buôn với thương mại sản xuất và bán lẻ cho các
dữ liệu về mặt hàng, về đặt hàng, nhập hàng… Thông thường số các catalogue được sắp xếp
như sau.
* ***** *
Số ngành lớp hàng
Số thứ tự trong phạm vi dãy số
Vị trí trong phạm vi loại hàng biểu
thị chất lượng, trang trí, biến thể.
Hình 2.4. Quy tắc số hiệu Cataloguc mặt hàng thương mại
3. Mô hình QTC (Quality-just in time-cost) trong quản trị marketing mặt hàng
sản phẩm ở công ty thương mại:
Mô hình QCT là một mô hình rất nổi tiếng được các nhà doanh nghiệp Nhật Bản áp
dụng trong thập niên 70 và 80, thời kỳ mà nền kinh tế thị trường đã xuất hiện yếu tố cạnh
trạnh căng thẳng, mức tăng trưởngvà bão hòa nhanh điều này gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc lựa chọn yếu tố then chốt của thành công (Key factor of Succes) trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Quan điểm chính của mô hình này.
- Cần có quan điểm mới, thực dụng và hỗn hợp về chất lượng MKT sản phẩm.
Đó là không nên đồng nhất tư duy, chất lượng kỹ nghệ và chất lượng thương mại với tư
cách là đại diện của người tiêu dùng. Về bản chất chất lượng MKT sản phẩm là hệ chỉ tiêu
đánh giá mức tương thích và thương mại các yếu tố cơ bản và hỗn hợp của nhu cầu và tiêu
dùng sản phẩm quan con đường thị trường.
Về mặt công nghệ, chất lượng thương mại của sản phẩm chủ yếu được đánh giá bằng độ
tin cậy và tổng hợp công năng của sản phẩm. Tương quan chất lượng mẫu mã, giá cả phù hợp,
tính khả ứng của sản phẩm với môi trường tiêu dùng cá biệt, hệ dư sản phẩm và tính hợp thơì
của sản phẩm, như vậy tương ứng khái niệm Product - mix xuất hiện khái niệm Quanlity- mix.
Trong điều kiện cơ chế thị trường chuẩn mực và đồng bộ cường độ cạnh tranh lớn đòi
hỏi lựa chọn của khách hàng có tính văn hóa tiêu thụ cao tính kịp thời của sản phẩm trên thị
trường (Just in time) mang tính quyết định đến sự thành bại, khó khăn dễ dàng đạt được mục
tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Just in time được hiểu là độ chín đầy đủ “độ chuẩn bị sẵn sàng”, “sự có mặt đúng lúc của
sản phẩm” được chào hàng khi thị trường có khách hàng, cường độ mua hàng cao nhất Điều
này đặc biệt quan trọng với những mặt hàng có đặc trưng moden, thị hiếu cao và chu kỳ sống
ngẵn chu kỳ sống biến dạng lớn.
- Trong kinh doanh hiện đại điều cốt tử của bất kỳ doanh nghiệp thương mại nào cũng
là vấn đề mục tiêu tài chính và phương diện đạt mục tiêu thông qua sự thỏa mãn nhu cầu mà
biểu hiện chủ yếu của nó là sự chấp nhận mua sau chọn lựa của khách hàng và đối với
họatđộng kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại đó là giá phí (Cost).
Là một trong những mục tiêu hoặc tập hợp lợi thế cạnh tranh trực tiếp (lợi thế giá) hoặc
gián tiếp (nếu hạ giá mà vẫn ngang bằng với giá thị trường doanh nghiệp có cơ sở tăng trưởng
thế lực cạnh tranh hoặc cải thiện điều kiện mua bán tiêu thụ sản phẩm,tăng quỹ xúc tiến bán
sản phẩm.
Giá phí DNTM bằng giá mua cộng giá phí phân phối vận động cộng giá phí hỗ trợ MKT
và có liên quan đến các phạm trù chi phí cần biên thương mại, ảnh hưởng tới tuần hoàn vốn
phân phối hàng hóa vốn tương ứng, cực đại hóa theo dân số và khối lượng bán
III. Nội dung và quy trình các quyết định MKT mặt hàng kinh doanh ở công ty
Thương mại.
1. Nghiên cứu và phân tích MKT ở công ty Thương mại.
Nội dung các bước này bao gồm.
Nghiên cứu Marketing mục tiêu bao gồm các nghiên cứu phân đoạn, xác lập cặp
sản phẩm-nhóm khách hàng trọng điểm, nghiên cứu MKT sản phẩm và định vị mặt hàng trên
thị trường mục tiêu. Từ đó lựa chọn một pha chộn các kiểu chiến lược định vị, chiến lược chât
lượng, giá và những định hướng đáp ứng thị trường của công ty.
Phân tích tình thế tài chính và kinh doanh gồm phân tích O/T và phân tích Ư/S,
phân tích tài chính đầu tư của công ty và đánh giá năng lực quan hệ với bạn hàng, mạng lưới
sức bán, cơ sở vật chất, kỹ thuật và vị thế của công ty trên thị trường mục tiêu (dẫn đạo, thách
đố, theo đuổi, tiềm phục).
Phân tích và lượng định các căn cứ thiết lập mặt hàng kinh doanh của công ty
Thương mại bao gồm:
- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và thế vị trên thị trường của mỗi loại mà cơ sở
DNTM trực thuộc. Phân tích nhu cầu thị trường, năng lực của công ty của từng nhóm người
tiêu dùng trọng điểm từng khu vực phục vụ, từng cơ sở kinh doanh.
- Căn cứ phân tích người sản xuất và cung ứng hàng hóa trong và ngoài khu vực thị
trường mục tiêu. Trình độ MKT quan hệ của công ty.
- Căn cứ vào loại đặc điểm nhu cầu về các loại hàng khác nhau.
- Ngoài ra khi xây dựng mặt hàng kinh doanh căn cứ vào những yếu tố ảnh hưởng khác
nhau:
Tình hình phân bố mạng lưới thương mại của công ty và thị trường. Quy mô kích thước
các phòng bán hàng. Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật hiện tại và khả năng phát triển hoàn
thiện trong tương lai của nó
Nghiên cứu
MKT mục tiêu
c
ủa công ty
Phân tích tính
chất và kinh
doanh c
ủa công
Phân tích và
lượng định căn
c
ứ tính chất
Lựa chọn hình thức
tính ch
ất kinh doanh
Quyết định khung và
đ
ịnh h
ư
ớng chiến l
ư
ợc
Quyết định chọn nhóm và
game m
ặt hàng thuộc
Quyết định ứng xử theo
chu k
ỳ sông t
ương thích
Phân tích E/C thị phần,
danh s
ố và lợi nhuận
Thiết lập cấu trúc phổ
mặt hàng và phân phối,
quy ho
ạch cho c
ơ s
ở gian
Quyết định chọn và
hoàn thi
ện ph
ương thu
ế
Lựu chọn Mar-mix và
m
ục tiêu
đ
ịnh vị mặt
Thiết lập cấu trúc phổ
m
ặt hàng của công ty
Hình 3.1. Sơ đồ quy trình quyết định MKT mặt hàng thương mại.
2. Chọn hình thức tiều chuân kinh doanh và pha chộn kiểu chiến lược bao phủ
thị trường tiêu thụ của công ty.
Với các kết quả và phát hiện của bước đầu nghiên cứu MKT trên, công ty Thương mại
cần xác định rõ:
- Những thời cơ sản phẩm cho phép xâm nhập, khai thác và tăng trưởng thị trường
mục tiêu và thi phần công ty.
- Chọn lựa thương mại và phấn đấu sứ bán, công suất bán tăng nỗ lực (bán buôn, bán
lẻ, đại lý đặc quyền).
- Chọn hình thức tiêu chuẩn kinh doanh cho phù hợp với loại hình cơ sở DNTM trực
thuộc (hỗn hợp liên hợp liên doanh, chuyên doanh, tổng hợp ).
- Mỗi công ty Thương mại theo vị thế của mình đều thực thi một chiến lược bao phủ
thị trường mục tiêu hàng hóa. Vấn đề đặt ra là định hình tỉ lệ, tầm cỡ, địa điểm và loại mặt
hàng để xác lập mô hình pha chộn phù hợp.
3. Chọn MKT - mix và mục tiêu định vị, tăng trưởng mặt hàng.
Các công ty Thương mại do đặc thù riêng của mình đều vận dụng một hệ thống
Marketing - mix trên mặt hàng khác nhau với cùng một tập khách hàng trọng điểm và những
phối thuộc chọn lựa game mặt hàng với tập khách khác nhau.Từ các thông số Mar - mix, tiến
hành những lượng định mục tiêu qua phân tích định vị mặt hàng căn cứ vào phương pháp
(BCG) hay (GE) trên cơ sở các thông tin tình báo MKT về định vị sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh và có quyết định lựa chọn các chiến lược tăng trưởng và phát triển của công ty ở
những nét nổi trội về thuộc tính sản phẩm về giá chất lượng và các dịch vụ gia tăng kèm theo.
4. Quyết định khung và hướng phát triển của phổ mặt hàng thương mại.
4.1. Việc quyết định khung của phổ mặt hàng thương maị là tính chức vụ của nhà
hoạch định kế hoạch MKT và giám đốc MKT của công ty. Trên cơ sở những phân tích MKT
chức năng trên công ty có thể hình thành cho mình một khung các kích thước cơ bản của phổ
mặt hàng; sốngành hàng, số lượng nhóm và phân nhóm, định hướng trong điểu gỉai, giá trị và
chất lượng. Loại hàng trong nhóm (phổ thông, trung bình, cao).Trên cơ sở đó có kết luận về
tầm mức chọn lựa, cấu trúc phổ mặt hàng đơn giản hay phức tạp, phân tán hay toàn bộ, rộng
hay hẹp cho phù hợp với tình thế và kiểu chiến lược bao phủ và tăng trưởng đã lựa chọn.
Phân tích và lựa chọn độ bền trong hộp cho phép xác định mối quan hệ giữa các nhóm,
mặt hàng đối với một đoạn thị trường đích, một tập khách hàng trọng điểm với một tập loại
nhu cầu thị trường củâ công ty, từ đó có những kết luận vè tỷ lệ phối hợp pha chộn, Mặt
khác tạo cơ sở cho công ty quyết định vào phân đoạn con (Subsegment) nào trên toàn giải cấp
độ nhu cầu và quyết định chiều sâu mặt hàng thương mại.
Để có quyết định chọn lựa hàng hóa (ở khâu này chưa có thể có quyêt định chi tiết nên
tầm mức của công đoạn này chỉ mới là chọn “khung”) cần nắm vững một số khái niệm cơ bản
về cấu trúc đáp ứng của phổ mặt hàng.
- Phổ mặt hàng đơn giản được hình thành từ những loại mặt hàng không có đòi hỏi đặc
biệt về phối thức sản phẩm, tác nghiệp công nghệ MKT và hậu cần kinh doanh, không có
những dao động thời vụ và việc tiêu thụ tương đối thường xuyên, liên tục hàng ngày. Mặt
khác đó là những loại hàng có cấu trúc chiều sâu rất ít.
- Phổ mặt hàng phức tạp biểu thị một tập hợp các loại tên hàng đòi hỏi đặc biệt
với phối thuế sản phẩm và kích thước chiều rộng, chiều sâu, mặt hàng, về quy cách, kiểu
dáng, vật liệu chế tạo, màu sắc, phong cách kèm theo đó là tính chất và sự đa dạng cua các
thông tin mặt hàng, thị trường.
- Phổ mặt hàng bổ sung (Software của phổ mặt hàng) bao hàm hai khía cạnh thứ nhất
là có liên quan đến điển hình hóa mặt hàng kinh doanh và biểu thị những phần của trắc điện
mặt hàng kinh doanh, mặt khác khái niệm này được sử dụng có liên quan tới tính lấp đầy để
đồng bộ hóa mặt hàng cơ sở doanh nghiệp.
- Phổ mặt hàng hỗn hợp biểu thị tập hợp các mặt hàng thực phẩm và phi thực phẩm
bao gồm nhiều loại hàng hóa thỏa mãn các nhu cầu khác nhau, nhưng chiều sâu mặt hàng bị
giới hạn chủ yếu về các loại mà khách hàng đòi hỏi thường xuyên nhất. Thông thường là các
loại nhu cầu nhật dụng và có giá trị chất lượng bình thường, phổ thông.
- Phổ mặt hàng liên hợp thường phát sinh do phối hợp mặt hàng có tính liên đốc trong
chuyên doanh các cơ sở doanh nghiệp thương mại bán lẻ, hoặc theo tiêu thức liên quan trong
thị trường để phôí hợp mặt hàng trong các gian thương mại ở cửa hàng tổng hợp.
- Tính đồng bộ của phổ mặt hàng phát sinh trong trường hợp có tổ hợp đầy đủ của mặt
hàng được cung ứng và có năng lực thỏa mãn tòan bộ giải cấp độ của một nhu cầu xác định.
Như vậy tính đồng bộ của phổ mặt hàng được cấu thành của phổ mặt hàng cơ bản. Khái niệm
này đặc biệt quan trọng với mặt hàng có đặc trưng kỹ thuật.
- Phổ mặt hàng rộng có liên quan đến khái niệm chiều rộng, phổ mặt hàng. Chiều rộng
phổ (số tên nhóm, loại mặt hàng) thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của cùng một hợp nhóm
càng lớn thì phổ mặt hàng càng rộng và các quyết định phổ mặt hàng, công nghệ Marketing
bán hàng càng tinh vi.
- Phổ mặt hàng hẹp đối lập với phổ mặt hàng rộng. Thông thường nói tới mặt hàng của
một phân nhóm với một số lượng đầy đủ của các loại, tên nhãn hiệu mặt hàng. Phổ mặt hàng
hẹp được sử dụng với tiền đề và khả năng có thể bổ sung bởi một chiều sâu mặt hàng đầy đủ
và đáng kể. Chỉ có một chiều sâu đầy đủ và phong phú mới khắc phục được những dao động
có tính thời vụ và tần xuất mua hàng.
- Phổ mặt hàng cơ bản (Hard warc phổ mặt hàng) đặc biệt sử dụng trong công nghệ
MKT bán khi thiết lập điển hình hóa mặt hàng để phản ánh bộ phận thường xuyên, ổn định
của tắc liệu hàng hóa.
Những đơn vị của phổ mặt hàng này thường xuyên được cung ứng và chuẩn bị sẵn sàng
để bán trên các gian tuyến và nơi bán hàng. Phổ mặt hàng cơ bản có quan hệ với phổ mặt
hàng bổ sung, thay thế để tạo ra tổng mặt hàng kinh doanh ở cơ sở DNTM thích ứng với loại
hình tổ chức kinh doanh kiểu cơ sở doanh nghiệp, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng và
chuyển hóa lẫn nhau. ở mỗi thời kỳ xác định phổ mặt hàng có tính ổn định cao, trải qua thời
gian một số mặt hàng bổ sung sẽ trở thành những thành tố của phổ cơ bản và một sô mặt hàng
của phổ cơ bản đã không còn phù hợp sẽ loại trừ.
4.2. Để có thế xác lập được một pha chộn tối ưu phổ mặt hàng của công ty thương mại
cần thiêt phải nắm vững một số phân loại bổ sung có liên quan trực tiếp tới quản trị MKT mặt
hàng kinh doanh.
4.2.1. Những sản phẩm có thể phân loại thành hai nhóm tùy theo tính bên và tần số mua
hàng.
- Những hàng hóa không bền là những hàng hóa hình thành tiêu thụ trong một hay vài
lần sử dụng như bia, xà phòng, muối. Những hàng này được tiêu thụ nhanh và mua thường
xuyên nên chiến lược thích hợp là làm sao để chúng có sẵn ở nhiều nơi, quảng cáo thật nhiều
để quyến rũ sự thể dùng xây dựng ưu thế.
- Những hàng bền lâu là những hàng hóa hữu hình thường được sử dụng nhiều lần và
lâu dài: Tủ lạnh, máy giặt, những thứ hàng này cần một công nghệ bán qua sự phục vụ trực
tiếp của nhân viên bán hàng đòi hỏi nhiều sự đảm bảo của người bán và mực độ cải biên cao
hơn.
4.2.2. Căn cứ những thói quen mua sắm của người tiêu dùng và cung cách mua sắm của
khách hàng có liên hệ mật thiết với chiến lược tiếp thị, có thể phân loại hàng tiêu dùng thành
mặt hàng tiện dụng, mặt hàng như thuốc lá, xà bông nhật báo.
Mặt hàng tiêu dùng có thể chia nhỏ thành hàng thiết yếu, hàng tùy hướng và hàng cần
kíp. Hàng thiết yếu là loại khách tìm mua trên một cơ sở DNTM đều đặn. Hàng tùy hứng
thường được mua khi không có chủ ý, hoặc tìm kiếm loại hàng này thường có bán ở khắp nơi
vì khách hàng ít tìm chúng.
Hàng cần kíp thường chỉ được mua lúcnhu cầu trở nên cấp bách :áo mưa,ô trong mùa
mưa bão…
Mặt hàng mua sắm là loại hàng mà khách hàng trong quá trình lựa chọn và mua có sự so
sánh về mặt đặc tính trên những cơ sở như độ phù hợp chất lượng, giá, kiểu dáng như đồ nội
thất, quần áo, xe máy…
Hàng mua sắm có thể chia thành hàng thuần nhất hay không thuần nhất. Người mua xem
hàng thuần nhất là tương tự nhau về chất lượng nhưng khác nhau về giá.
Mặt hàng chuyên dụng là loại hàng có đặc tính độc đáo ,đặc điểm nhãn hiệu dành cho
một nhóm khách hàng mua nào đó sẵn sàng bỏ công tìm mua
Mặt hàng ngậm bị ứng đọng là loại khác hàng không biết đến hay có biết nhưng thường
không nghĩ tới việc mua.
4.2.3. Mặt hàng kỹ nghệ: là những tên hàng do cá nhân hay tổ chức mua về để sản xuất,
gia công thêm hoặc sử dụng trong việc điều hành một doanh nghiệp.
Mặt hàng kỹ nghệ được chia làm 3 nhóm: Các nguyên liệu phụ liệu, các đầu tư trang bị
cơ bản, vật tư và dịch vụ cung ứng.
- Các nguyên liệu và cấu kiện là những thức chuyển hóa vào sản phẩm của nhà sản
xuất bao gồm nguyên liệu thô, nguyên liệu chế biến và các cấu kiện.
- Hàng đầu tư cơ bản là những thứ chuyển hóa một phần của sản phẩm hàng hóa (nhà
xưởng và trang thiết bị).
- Những tiếp liệu và dịch vụ là những món hàng không đi vào thành phẩm chút nào,
bốn chiều thông số của phổ mặt hàng cung cấp những công cụ để hoạch định chiến lược mặt
hàng của một công ty thương mại. Công ty có thể bổ sung những mặt hàng mới để mở rộng
phổ mặt hàng, những mặt hàng mới có thể lợi dụng đựơc uy tín của các nhóm mặt hàng trước
đó. Công ty cũng có thể kéo dài những mặt hàng hiện hữu để trở thành một công ty có mặt
hàng đầy đủ hơn hoặc có thể bổ sung nhiều biến thể khác nhau cho mỗi loại nhãn hiệu để làm
cấu thêm phổ cập mặt hàng hoặc có thể giữ độ bền trong hợp nhóm mặt hàng nhiều hay ít tùy
theo lựa chọn kiểu chiến lược thị trường .
5. Quyết đinh chọn nhóm và gamme mặt hàng thuộc nhóm.
5.1. Phân tích nhóm mặt hàng .
Các nhà quản trị nhóm mặt hàng kinh doanh có 2 nhu cầu thông tin quan trọng: (1) Phải
biết được doanh số và lợi nhuận của mỗi loại, tên hàng trong nhóm (2) Phải biết được nhóm
hàng của họ so sánh với của đối thủ cạnh tranh trên cùng thương mại mục tiêu?
- Mỗi tên hàng trong nhóm hàng có đóng góp khác nhau vào doanh số và lợi nhuận
trên 2 góc độ số tuyệt đối và số phần trăm (xem H .3.2).
H. 3.2: Đóng góp của tên hàng vào tổng doanh thu và lợi nhuận nhóm hàng.
- Trắc điện thị trường nhóm hàng, thông qua phân tích giản đồ định vị nhóm hàng
của Công ty với các đối thủ cạnh tranh để rút ra những kết luạn so sánh thế vị tương đối, và
qua các thông tin bổ sung để nhận biết cường độ sức ép cạnh tranh tuyệt đối với các tên hàng
thuộc nhóm. Phương pháp tiến hành có thể sử dụng giảm đồ sản phẩm trên hệ quy chiếu
vuông góc và chọn mối tên hàng 2 thuộc tính đặc trưng nổi trội mà người mua quan tâm nhất,
sau đó lần lượt định vị trên giảm đồ và tìm những khoảng tiết diện trống làm cơ sở phân tích
thời cơ. Với những mặt hàng có thông số tương đương, tiến hành phân tích hệ số cạnh tranh
để có kết luận sức ép cạnh tranh.
5.2. Quyết định chọn nhóm mặt hàng cung ứng của Công ty.
5.2.1. Chọn các nhóm mặt hàng sơ cấp: Mặc dù có nhiều điển hình kinh doanh vì tính
ngẫu nhiên của chọn sơ cấp các nhóm hàng, tuy nhiên nếu các nghiên cứu marketing mặt
hàng kinh doanh được sử dụng đều dựa trên các phân tích ban đầu về tầm cơ triển vọng, lợi
nhuận dự tính, chu chuyển tài chính cho nhóm hàng để lựa chọn; tiếp theo qua các phương
pháp tiếp cận để lượng định các mức quy cáh thị trường tiềm năng, khả hiệu lực và đựơc cung
1
2
3
4
5
10
20
30
40
50
-
% đóng góp vào t
ổng
doanh s
ố và lợi nhuận
Doanh số
L
ợi nhuận
để phân tích độ bền tương hợp giữa các nhóm nhằm sắp xếp một phổ hàng sơ cấp hợp lý và
loại bỏ nhóm hàng có độ tương hợp quá thấp.
5.2.2. Quyết định chọn nhóm hàng bổ sung.
Trước khi có quyết định thêm một nhóm hàng, cần phải cân nhắc một loạt các nhân tố:
sự ưa thích trội của người tiêudùng ; mức chuyên sâu của Công ty về nhóm hàng; hiệu năng
marketing, tính trọn bộ của nhóm hàng hiệu lực ảnh hưởng của kênh phân phối; các nhóm
hàng của đối thủ cạnh tranh; sự đa dạng hoá gamme mặt hàng; các công cụ tài chính có thể
huy động ; tính sinh lợi và tốc độ quay vòng vốn. Điều này là quan trọng cho cả các công ty
thương mại bán lẻ và bán buôn tuy một số thứ tự quan trọng có thay đổi. (xem hình H 2.7)
Hình 3 3.Những cân nhắc khi thêm một nhóm hàng ở công ty
5.3 .Quyết định chọn gamme mặt hàng của nhóm ở công ty thương mại
Một gamme măt hàng của nhóm, được hiểu là một tổ hợp chiều rộng (số loại hàng)
chiều sâu (số tên và biến thể nó) cùng những đặc tính nổi trội, những tỷ lệ pha chộn và cường
độ trong tổng phổ của một nhóm hàng xác định. Cần lưu ý một tổ hợp chiều rộng và chiều sâu
Phương tiện tài chính
Tính ch
ọn bộ nhóm
hàng
M
ức chuyên sâu của
Công ty
Hi
ệu lực ảnh h
ư
ởng
của kêh phân phối
ưa thích tr
ội tập
khách hàng
Hiệu năng marketing
Nhóm hàng tương t
ự
đối thủ cạnh tranh
Kh
ả n
ăng
đa dạng hóa
Quyết định một
nhóm hàng mới
tiềm năng
L
ợi nhuận dự tính và
Chu chuyển vốn