Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

LUẬN văn THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO dục CHÍNH TRỊ tư TƯỞNG TRONG QUÂN đội HIỆN NAY và dự báo TÌNH HÌNH LIÊN QUAN TRỰC TIẾP đến yêu cầu NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục CHÍNH TRỊ tư TUỞNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.89 KB, 53 trang )

LUẬN VĂN
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ -TƯ
TƯỞNG TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY VÀ DỰ BÁO TÌNH
HÌNH LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN YÊU CẦU NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TUỞNG
2.1. Thực trạng chất lượng giáo dục chính trị - tư
tưởng trong quân đội ta hiện nay
2.1.1. Chất lượng các lĩnh vực hoạt động cơ bản của
GDCTTT hiện nay
Về huấn luyện chính trị.
Thời gian qua hoạt động huấn luyện chính trị đã được các
cấp ủy đảng, người chỉ huy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo một
cách chặt chẽ, nghiêm túc, thường xuyên và có hiệu quả.
Chúng ta một mặt kiên quyết tập trung vào những nội dung
cơ bản, cốt lõi nhất, mặt khác từng bước mở rộng, bổ sung
những nội dung mới; đồng thời nỗ lực tìm tịi các quy trình,
phương pháp giáo dục phù hợp để nâng cao chất lượng, hiệu
quả của huấn luyện chính trị.
Cần thấy rằng, những năm qua trên lĩnh vực đấu tranh
chính trị tư tưởng ở nước ta đã xuất hiện những luồng tư
tưởng thù địch, phủ nhận các giá trị của CNM-LN, TTHCM
hòng “hạ bệ" Đảng ta từ nền tảng hệ tư tưởng của Đảng. Một
số cán bộ, đảng viên do không ý thức được ý đồ thâm độc


của kẻ thù, nhiễm phải luồng tư tưởng độc hại đó, đã ít nhiều
phụ họa với chúng. Trước tình hình đó, cơng tác giáo dục
trong qn đội đã tích cực, chủ động tăng cường giáo dục
CNM-LN, TTHCM, tập trung làm sáng tỏ những quan điểm
đổi mới của Đảng phù hợp với các dối tượng ở các cấp độ
nội dung khác nhau. Từ chiến sĩ đến tướng lĩnh, từ công


nhân viên, quân nhân chuyên nghiệp đến sĩ quan, tại các đơn
vị và trong các học viện, nhà trường đều có chương trình học
tập về CNM-LN, TTHCM ở những mức độ khác nhau. Vì vậy
CNM-LN, TTHCM được củng cố và tăng cường vững chắc
trong quân đội, giữ vai trò thống trị tuyệt đối trong đời sống
tinh thần của CB, CS ta.
Huấn luyện chính trị, nhất là ở các nhà trường, học viện
quân sự, được mở rộng và bổ sung nhiều nội dung mới về
khoa học xã hội và nhân văn, như các bộ môn: lịch sử dân
tộc Việt Nam, lịch sử văn hóa Việt Nam, đạo đức học, tâm lý
học, pháp luật, tôn giáo, dân tộc, mỹ học, văn học, nghệ
thuật... Đồng thời, chúng ta đã kịp thời sử dụng những kết
quả nghiên cứu của các đề tài khoa học cấp bộ, cấp Nhà
nước đưa vào nội dung huấn luyện chính trị, làm cho nội
dung có hàm lượng khoa học ngày càng cao và thường
xuyên cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn mới. Quá
trình giáo dục chúng ta đã coi trọng giáo dục những vấn đề
cơ bản nhất trong đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật


của Nhà nước, trong đó lấy giáo dục nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, nhiệm vụ của từng đơn vị là một nội dung lớn trong
huấn luyện chính trị. Huấn luyện chính trị được tổ chức thống
nhất, có kế hoạch hợp lý, quản lý chặt chẽ, được gắn kết với
các cuộc vận động chính trị lớn của Đảng, với phong trào thi
đua quyết thắng, phong trào hành động cách mạng của từng
đơn vị.
Nhân những ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, của
Đảng và quân đội, chúng ta đã triển khai nhiều đợt giáo dục
sâu rộng trong toàn quân về những truyền thống dân tộc,

truyền thống cách mạng, truyền thống quân đội. Mặt khác,
chúng ta đã nỗ lực tìm tịi các quy trình, phương pháp giáo
dục phù hợp trong đó việc sử dụng phương pháp giáo dục
tổng hợp, đa dạng hóa các hoạt động giáo dục là một giải
pháp hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng. hiệu quả giáo
dục lý luận chính trị trong quân đội. Chúng ta cũng đã thực
sự đổi mới một bước quan trọng việc xây dựng nội dung,
chương trình giáo dục theo hướng vừa coi trọng kiến thức cơ
bản, vừa nâng cao trình độ vận dụng lý luận vào thực tiễn
nhằm giải quyết tư tưởng, hướng dẫn hành động, nâng cao
năng lực xử lý những tình huống, những vấn đề nảy sinh
trong cuộc sống của mỗi CB, CS đúng với quan điểm, đường
lối cua Đảng, pháp luật của Nhà nước.


Những hoạt động phong phú trên đã đem lại kết quả to lớn
và sâu sắc củng cố, bồi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước,
niềm tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, nâng cao bản
lĩnh chính trị, phát huy bản chất truyền thống tốt đẹp của anh
"Bộ đội Cụ Hồ". Đồng thời, kết quả đó cịn góp phần tạo nên
bầu khơng khí tốt đẹp, lành mạnh trong xã hội, đẩy lùi các
khuynh hướng tư tưởng thù địch, những nhận thức mơ hồ,
lệch lạc muốn phủ định quá khứ, phủ định thành quả cách
mạng, xác lập được thế trận chính trị tư tưởng khá vững
chắc, từng bước tạo lập thế chủ động tiến công trên mặt trận
đấu tranh tư tưởng - lý luận. Kết quả đó góp phần xây dựng
quân đội ta vừa thiện chiến về quân sự, vừa tinh nhuệ về
chính trị, đủ sức vơ hiệu hóa những âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch hịng “phi hệ tư tưởng hóa", "phi chính từ
hóa" qn đội; vừa có sức đề kháng tốt trước sự xâm nhập

lây lan của những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội,
đồng thời vừa nâng cao năng lực của CB, CS vận động,
thuyết phục quần chúng nhân dân quán triệt đường lối chủ
trương chính sách của Đảng. Qua kiểm tra, huấn luyện chính
từ năm 1998, số đơn vị được kiểm tra 100% đạt khá trở lên:
số chiến sĩ được kiểm tra có từ 65 - 75% đạt khá [6, 11].
Tuy nhiên, hoạt động huấn luyện chính trị trong quân đội
những năm qua cịn có mặt chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi của
thực tiễn đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực tiễn của sự


nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội và yêu cầu
của cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng hiện nay, dẫn tới những
băn khoăn, ngập ngừng trong nhận thức tư tưởng của bộ đội.
Trong các nội dung giáo dục thì hiệu quả của việc giáo dục
đạo đức, pháp luật, lối sống, nếp sống còn nhiều hạn chế,
chưa đủ sức để góp phần chấm dứt một số hiện tượng vi
phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước; chưa tạo nên
sức mạnh của dư luận tập thể đấu tranh phê phán thực sự có
hiệu quả những biểu hiện của lối sống ích kỷ, cá nhân chủ
nghĩa, thực dụng, cơ hội, thiếu tình đồng chí, đồng đội. Hiệu
quả trực tiếp và sức thuyết phục trong đấu tranh phê phán
những quan điểm, khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc,
trong đấu tranh chống những thói hư tật xấu, thị hiếu thấp
hèn, văn hóa xấu độc cịn thấp.
Đội ngũ giáo viên kiêm chức ở các đơn vị mặc dù đã có
những bước phát triển mới, nhưng vẫn là một khâu yếu, 30 40% trình độ năng lực hạn chế [6.11]. Điểm yếu nhất của đội
ngũ giáo viên kiêm chức là hiểu chưa sâu, chưa thuần thục
nội dung từng chủ đề trong chương trình, gắn kết nội dung
trong từng chủ đề với thực tiễn sinh động trên thế giới, trong

nước, địa bàn nơi đóng quân, tình hình đơn vị chưa được
nhuần nhuyễn, chưa biết vận dụng nội dung vào thực tiễn
đơn vị để giải quyết tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị
và hướng dẫn hành động cho bộ đội. Do đó, nhìn chung các


bài giảng còn nặng về sao chép sách vở, truyền thụ khô
khan, kém hấp dẫn, không tạo được bầu không khí dân chủ,
cởi mở, phấn khởi trong học tập.
Qua điều tra ở một đơn vị cơ sở cho thấy có 66,3% ý kiến
chiến sĩ trả lời không hứng thú với các buổi học chính trị ở
đơn vị; đánh giá về phương pháp truyền đạt, số ý kiến đánh
giá tốt chỉ chiếm 18%, số ý kiến đánh giá ở mức độ trung
bình là 30%, 52% ý kiến cho rằng phương pháp truyền đạt
không đạt yêu cầu [72, l07].
Về công tác tuyên truyền cổ động
Hoạt động tuyên truyền, cổ động những năm qua đã được
triển khai toàn diện và khá phong phú, trên tất cả các loại
hình báo chí (nói, viết, hình) kể cả các tờ tin của các đơn vị
và hoạt động của hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên
trong toàn quân.
Nét nổi bật trong hoạt động của các phương tiện thông tin
đại chúng trong quân đội thời gian qua là kiên trì bảo đảm sự
định hướng chính trị của Đảng, tập trung có trọng điểm vào
những thời điểm và nhiệm vụ trọng tâm để tạo nên những
"vệt" tuyên truyền sâu rộng, hướng dẫn dư luận, định hướng
tư tưởng cho bộ đội, thông tin đa dạng, phong phú, nhiều
chiều, nhạy bén, kịp thời, bám sát thực tiễn cách mạng và
thực tiễn qn đội. Đồng thời nỗ lực tìm tịi đa dạng hóa các
hoạt động, tạo được sự phong phú, hấp dẫn của thông tin và



các hình thức biểu hiện phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu,
thị hiếu lành mạnh của người tiếp nhận.
Các nội dung tuyên truyền đã cố gắng gắn chặt nhiệm vụ
chung của toàn Đảng, toàn dân với nhiệm vụ của quân đội,
gắn chặt những giá trị truyền thống với giá trị hiện đại của
cách mạng nước ta, coi trọng biểu dương và khẳng định
những nhân tố mới, từ đó đã góp phần bồi dưỡng lòng tự hào
và niềm tin cho bộ đội đối với cả quá khứ và cuộc sống hôm
nay.
Chúng ta cũng đã tăng cường tuyên truyền giáo dục chính
diện, kịp thời định hướng tư tưởng trước những sự kiện phức
tạp, trước những chính sách, chủ trương mới của Đảng, Nhà
nước hoặc khi cách mạng có bước chuyển giai đoạn. Mặt
khác, tổ chức đấu tranh phê phán dưới nhiều hình thức nhằm
uốn nắn những nhận thức mơ hồ, lệch lạc, sai lầm, khuynh
hướng phủ định truyền thống, phủ định những nhân tố mới
hiện nay; kiên quyết phản bác những quan điểm tư tưởng cơ
hội, xét lại dưới mọi màu sắc, chống lại các thủ đoạn phá
hoại chính trị tư tưởng trong chiến lược “DBHB" của các thế
lực thù địch đối với nước ta, quân đội ta.
Việc tham gia phát hiện, tun truyền các mơ hình tốt,
những kinh nghiệm hay, tơn vinh những người có cơng với
cách mạng, biểu dương người tốt, việc tốt đã tác động tích
cực đến tư tưởng, tình cám, ý chí quyết tâm phấn đấu vươn


lên và khơi dậy, phát huy truyền thống tương thân tương ái,
uống nước nhớ nguồn của mỗi CB, CS. Thực tế những năm

qua cho thấy, công tác tuyên truyền giáo dục bằng điển hình,
tiên tiến, thơng qua gương người tốt, việc tốt là một phương
thức tuyên truyền có hiệu quả thiết thực. Bởi vì như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nói chung thì các dân tộc phương
Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống
cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền [51,
263].
Hoạt động tuyên truyền nội bộ (kể cả tun truyền miệng và
thơng báo nội bộ) trong tồn qn đã đi vào nề nếp. Nội dung
tuyên truyền được chỉ đạo cụ thể, kịp thời, đáp ứng được nhu
cầu bộ đội, khơng để xảy ra sai sót về quan điểm tư tưởng.
Công tác tuyên truyền miệng đã từng bước thực hiện có nền
nếp ở các đơn vị cơ sở. Hoạt động báo cáo viên đã trở thành
một kênh thông tin tuyên truyền giáo dục quan trọng không
thể thiếu được trong sinh hoạt chính trị tư tưởng của bộ đội,
chuyển tải một khối lượng lớn thông tin bao quát các lĩnh vực
đời sống xã hội, góp phần tích cực bồi dưỡng cho bộ đội về
quan điểm tư tưởng, đường lối, chính sách, tăng cường sự
thống nhất tư tưởng trong Đảng, trong quân nhân và tập thể
quân nhân.
Hoạt động xuất bản , in và phát hành sách trong quân đội
luôn giữ đúng mục đích tơn chỉ, chặt chẽ về định hướng


chính trị, thường xuyên bám sát mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng
quân đội, tập trung phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị, huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy. Số lượng các
ấn phẩm ổn định ở mức độ cao, thể loại đa dạng, đề tài và
nội dung phong phú chất lượng nội dung và hình thức từng
bước được nâng lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị

và của tồn qn, góp phần quan trọng vào việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm, lối sống trong sạch lành mạnh cho CB, CS.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cổ động trong quân đội
thời gian qua còn những hạn chế và thiếu sót. Có lúc, có sự
việc và đối với một số đối tượng, công tác tuyên truyền giáo
dục chất lượng thấp. Tính chiến đấu trong đấu tranh chống
các quan điểm sai trái, thù địch chưa trở thành ý thức thường
trực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
khơng ít cán bộ lãnh đạo; trong q trình đấu tranh ở một
chừng mực nào đó cịn biểu hiện lúng túng, bị động, thiếu
chiều sâu, không nhanh nhạy, sắc bén, hiệu quả chưa cao.
Hình thức và phương pháp tuyên truyền cổ động tuy có nhiều
tiến bộ, nhưng nhìn chung cịn chậm đổi mới, trong nhiều
trường hợp cịn khô cứng, gượng ép, chưa đủ sức hấp dẫn
tạo ấn tượng mạnh, thiếu tính thuyết phục cao, chưa thơi
thúc bộ đội hành động một cách tự giác, tích cực, sáng tạo.
Sự phối hợp giữa các binh chủng và lực lượng tiến hành


tuyên truyền giáo dục đôi khi chưa thống nhất, thiếu chặt chẽ,
khoa học.
Cũng cần chỉ ra rằng, việc tuyên truyền vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước đã được Điều lệ Đảng xác định là nhiệm vụ của đảng
viên, nhưng trên thực tế đội ngũ đảng viên ở cơ sở thực hiện
nhiệm vụ này cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, trong thực tế đã
không phát huy được tác dụng của cơ chế lan truyền tâm lý.
Tình trạng tác động của hoạt động tuyên truyền như những
làn sóng âm thanh được phát ra một lần rồi yếu dần vì thiếu
những trạm tiếp sóng cần thiết, thông tin không được thâm

nhập sâu rộng và không được lan tỏa trực tiếp bởi chính
quần chúng. Trong khi đó, những lực lượng thù địch và
những người hành "nghề" mê tín dị đoan lại chú ý lợi dụng
triệt để cơ chế lan truyền tâm lý để tiến hành hoạt động phản
tuyên truyền, gieo rắc tâm lý bi quan, tư tưởng thất bại chủ
nghĩa và tâm lý tin cậy vào các lực lượng thần bí siêu nhiên
trong một số CB, CS.
Về cơng tác văn hóa văn nghệ.
Trong lúc ngồi xã hội tác động của những luồng tư tưởng
lệch lạc, có nơi, có lúc rơi vào khuynh hướng thương mại hóa
hoặc coi hoạt động văn hóa - văn nghệ chỉ như là phương
tiện, cơng cụ sinh hoạt giải trí, hạ thấp, coi nhẹ chức năng cơ
bản của nó là giáo dục con người, hướng vào con người,


giúp họ vươn tới những giá trị cao đẹp của cuộc sống, thì
trong quân đội với định hướng đúng, sự chỉ đạo chặt chẽ, sát
sao phù hợp, nên công tác vàn hóa - văn nghệ đã có những
bước phát triển đáng kể trên tất cả các mặt. Cơng tác văn
hóa - văn nghệ trong quân đội đã vượt qua nhiều khó khăn,
đáp ứng khá tốt các nhu cầu văn hóa tinh thần phong phú và
ngày càng cao của CB, CS, khẳng định vai trị khơng thể
thiếu được của nó trong xây dựng tư tưởng, tình cảm tốt đẹp,
phát triển tồn diện nhân cách "Anh bộ đội Cụ Hồ" trong thời
kỳ mới.
Cuộc vận động xây dựng mơi trường văn hóa trong toàn
quân ngày càng phát triển với chất lượng tương đối tốt và đã
đi vào đời sống bộ đội như một nhu cầu, một động lực không
thể thiếu trong xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại. Cuộc vận động đó đã và đang tạo

nên nhiều chuyển biến tích cực, có chiều sâu trong đời sống
tinh thần - văn hóa của CB, CS và đó chính là cơ sở để các
nhân tố chính trị, tư tưởng lành mạnh bắt rễ sâu hơn, vững
chắc hơn trong đời sống quân đội ta.
Các hệ thống mạng lưới thiết chế văn hóa trong tồn qn
được củng cố, tổ chức lại và đang đi vào hoạt động có hiệu
quả. Trong các hệ thống đó, có những hệ thống được xác
định là thành tố chính thức của hệ thống thiết chế văn hóa do
Nhà nước quản lý: Các đồn nghệ thuật, bảo tàng. các nhà


văn hóa, các cơ sở in, đã thực sự là lực lượng nòng cốt,
chiếm lĩnh những đỉnh cao khống chế về văn hóa trong quân
đội. Các hệ thống mang đặc điểm riêng của quân đội cũng
được củng cố và đổi mới về chức năng, nhiệm vụ để phát
huy tác đụng của nó trong giáo dục bộ đội như phịng Hồ Chí
Minh, đội điện ảnh, câu lạc bộ, phịng đọc sách, nhà truyền
thống trong toàn quân.
Một điểm nổi bật nữa của hoạt động văn hóa - văn nghệ
thời gian qua là toàn quân đã tổ chức tốt các phong trào, các
hội thi, hội diễn, liên hoan phim, triển lãm, các cuộc vận động
sáng tác văn học, nghệ thuật... Các hoạt động đó được triển
khai liên tục, đều khắp, có chiều sâu, chất lượng chun mơn
tốt có tính tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao. Hàng nghìn tác
phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng về đề tài bảo vệ Tổ
quốc, chiến tranh cách mạng và người chiến sĩ, hàng nghìn
buổi biểu diễn và hoạt động nghệ thuật với sự tham gia của
hàng vạn diễn viên (chuyên nghiệp và quần chúng, trong đó
có hàng nghìn diễn viên là sinh viên các trường đại học) và
hàng triệu lượt người xem kể cả bộ đội và nhân dân ở mọi

miền đất nước là biểu hiện sinh động của các hoạt động
phong phú trên. Sự phối hợp chặt chẽ mọi hoạt động văn hóa
- văn nghệ trong quân đội với nhân dân ở địa bàn đóng quân,
đặc biệt với lực lượng thanh niên, sinh viên, học sinh, với các
hoạt động của Nhà nước và các tổ chức xã hội, nghề nghiệp


nhân những ngày kỷ niệm lớn đã góp phần củng cố, xây
dựng và phát triển quan hệ máu thịt đoàn kết quân dân trong
giai đoạn mới.
Công tác phát hành phim, băng hình, chiếu bóng ln giữ
vững định hướng chính trị tư tưởng, nỗ lực khắc phục khó
khăn, đổi mới phương thức hoạt động, chủ động sáng tạo
trên nguồn phim, lên kế hoạch chương trình hợp lý, đã bảo
đảm bình quân mỗi điểm chiếu được xem 12 tối phim nhựa
trong một năm. Tăng cường đưa phim ảnh phục vụ vùng sâu,
vùng xa góp phần nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần cho
bó đội và nhân dân, đưa ánh sáng văn hóa và tiếng nói của
Đảng đến với đơng đảo cơng chúng.
Như vậy, có thể khái qt cơng tác văn hóa - văn nghệ
trong quân đội thời gian qua đã đi đúng hướng, bám sát
đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, bám sát yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của quân đội, góp phần giáo dục tinh thần
yêu nước - yêu CNXH, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế
độ, tích cực xây dựng con người mới trong lực lượng vũ
trang nhân dân.
Tuy nhiên, cơng tác văn hóa - văn nghệ trong qn đội
cũng cịn những thiếu sót và yếu kém. Cuộc vận động xây
dựng mơi trường văn hóa ở khơng ít đơn vị cịn lúng túng
trong việc lồng ghép với các cuộc vận động, các phong trào

khác; nhận thức về xây dựng mơi trường văn hóa ở một số


đơn vị chưa thật đầy đủ, mới chỉ dừng lại ở chỗ xây dựng
doanh trại xanh sạch đẹp và chống văn hóa xấu độc. Khuynh
hướng chạy theo chủ nghĩa hình thức, phơ trương, sính bề
nổi trong hoạt động văn hóa - văn nghệ chưa được khắc
phục triệt để. Vận hành các thiết chế văn hóa ở nhiều đơn vị
cơ sở cịn yếu, hình thức hoạt động chưa phong phú, đa
dạng. Sự phối hợp chỉ đạo và thực hiện các hoạt động văn
hóa - văn nghệ của các cơ quan chức năng nhiều lúc còn
thiếu đồng bộ, chồng chéo, kém hiệu quả.
2.1.2. Thực trạng nhận thức, tư tưởng chính trị và hành
vi chính trị thực tiễn của CB, CS
+ Thế giới quan - niềm tin của CB, CS.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác
GDCTTT trong quân đội là hình thành ở CB, CS thế giới quan
khoa học - niềm tin cộng sản. Đó là một cấu thành tâm lý
phức hợp, trong đó sự lĩnh hội tri thức chính trị - xã hội và xây
dựng niềm tin cộng sản là hai thành tố hết sức quan trọng. Vì
vậy, đánh giá thực trạng thế giới quan - mềm tin của CB, CS
cần phải hướng vào những yếu tố trên.
Sự lĩnh hội tri thức về chính trị - xã hội : Đội ngũ CB, CS
quân đội tuy ở những mức độ nơng sâu khác nhau, nhưng
đều có những hiểu biết cơ bản về CNM-LN, TTHCM, cương
lĩnh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tình hình
chính trị - xã hội trong nước và quốc tế.


Cố nhiên, việc tiếp nhận thông tin mới, tri thức mới chỉ là

bước khởi đầu quan trọng, điều có ý nghĩa quyết định đối với
việc hoàn thiện thế giới quan của mỗi người là quá trình xử
lý, biến đổi, cấu tạo lại thơng tin, tri thức đó thành hệ thống
quan điểm của cá nhân thơng qua kỹ năng phân tích, luận
giải của bản thân người đó.
Do đó một thực tế trong đội ngũ sĩ quan trẻ và hạ sĩ quan
chiến sĩ là: mặc dù họ có khả năng nhận thức nhanh, ghi nhớ
tốt, nhưng do những hạn chế nhất định về tư duy lý luận, biểu
hiện ở khả năng khái qt hóa, trừu tượng hóa để tìm ra bản
chất của những sự kiện chưa cao; hơn nữa do vốn sống cịn
ít, kinh nghiệm hoạt động, đấu tranh chính trị - xã hội cịn hạn
chế, họ chưa đủ trình độ phân tích, luận giải các vấn đề một
cách sâu sắc có tính phê phán cao. Mặt khác họ lại chịu sự
chi phối mạnh của yếu tố cảm xúc tâm trạng của cá nhân
trong q trình tiếp nhận và xử lý thơng tin nên hiểu các sự
hiện chính trị xã hội thường giản đơn, sơ lược, một chiều.
Tình hình đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến bản lĩnh chính trị,
niềm tin cộng sản của khơng ít sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan, chiến
sĩ.
Trải qua quá trình học tập, bồi dưỡng, rèn luyện, đại đa số
CB, CS đã quán triệt sâu sắc hơn tư duy mới của Đảng về
quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc, về nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, về chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình


mới; nhận thức về âm mưu, thủ đoạn "ĐBHB" của các thế lực
thù địch sâu sắc hơn, tinh thẩn cảnh giác cách mạng được
nâng cao hơn.
Tuy nhiên "nhận thức về nhiệm vụ quốc phịng, về sự gắn
bó giữa hai nhiệm vụ chiến lược và các quan điểm chỉ đạo

nhiệm vụ quốc phịng - an ninh trong tình hình mới, trong một
số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ trì một số cơ quan
chưa thật sâu sắc. Cịn nhiều biểu hiện thiếu cảnh giác trước
âm mưu thủ đoạn phi vũ trang của kẻ thù. Còn một số hiện
tượng mơ hồ, lộ liễu làm lộ bí mật quốc gia, bí mật quốc
phòng” [83].
Việc xây dựng niềm tin cộng sản của CB, CS: tuyệt đại bộ
phận bộ đội ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
CNM-LN, TTHCM, mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và
CNXH, nhất trí cao với đường lối, quan điểm của Đảng, kiên
quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là
đối với các quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,
phủ định con đường XHCN, phủ định vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với cách mạng và quân đội; tin tưởng sâu sắc vào
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh dưới sự lãnh đạo của Đảng; có ý thức trách nhiệm cao,
có tinh thần khắc phục khó khăn để hồn thành mọi nhiệm
vụ, kể cả ở những nơi khó khăn, gian khổ, phức tạp.


Tuy nhiên. "Trong tình hình chuyển biến phức tạp, bối cảnh
và môi trường xã hội thay đổi, một bộ phận cán bộ đảng viên
ở mức độ khác nhan có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu,
tinh thần trách nhiệm, kém cảnh giác với âm mưu thủ đoạn
của địch, thiếu tích cực rèn luyện vươn lên; một số ít có biểu
hiện thực dụng, tham nhũng, tự do vô kỷ luật, ham muốn
quyền lực cá nhân, phai nhạt lý tưởng một bộ phận đảng viên
khơng phát huy được vai trị tiền phong gương mẫu, mặc dù
được bồi dưỡng và năng cao thêm nhưng đang còn khoảng

cách khá xa so với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
quân đội trong giai đoạn mới, [5, l0]. "Đặc biệt còn để xảy ra
nhiều vụ việc nghiêm trọng, vi phạm bản chất truyền thống
quân đội, làm tổn hại đến hình ảnh, phẩm chất cao đẹp của
"Bộ đội Cụ Hồ", gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng trực
tiếp đến nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu
của quân đội ta. Nguyên nhân là do công tác quản lý bộ đội
của chỉ huy cịn lơi lỏng, cơng tác giáo dục thiếu tập trung,
dấu điếm báo cáo không trung thực, xử lý không nghiêm và
chưa thông báo kịp thời cho CB, CS để rút ra bài học" [11].
Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 1998, số cán bộ,
đảng viên vi phạm kỷ luật nghiêm trọng giảm chậm và có mặt
tăng: giảm sút ý chí tăng 0,9%, bn bán vũ khí tăng 0,21%,
tham nhũng tăng l,6%; đặc biệt là cấp ủy viên vi phạm kỷ luật
chiếm tỷ lệ cao (30% so với tổng số đảng viên vi phạm kỷ
luật), tỷ lệ cán bộ cao cấp vi phạm kỷ luật có chiều hướng


tăng [7, 10-11]. Thậm chí, một giám đốc cơng ty trong quân
đội khi làm ăn với đối tác Nhật Bản đã tự phong cho họ cấp
hàm đại tá, trung tá "danh dự" QĐNDVN, may quân phục,
mũ, cầu vai, in danh thiếp cho họ, v.v... để họ đi giao dịch với
mọi người, đã có những trường hợp người của các doanh
nghiệp qn đội được cử đi cơng tác nước ngồi q hạn
không trở về, hoặc chạy sang nước thứ ba một cách bất hợp
pháp, hoặc cá biệt một số khác đã tham gia vào các đảng
phái chính trị ở nước ngồi [l04, 84].
+ Về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Mặc dù phải thường xuyên đối mặt với những tác động của
mặt trái của cơ chế thị trường, sự thẩm lậu của những độc tố

tư tưởng - văn hóa tư sản những thủ đoạn mua chuộc, lơi
kéo, kích động của các thế lực thù địch, nhưng tuyệt đại đa
số CB, CS đã giữ gìn và phát huy tốt bản chất, truyền thống,
phẩm chất đạo đức "Bộ đội Cụ Hồ", vững vàng trước mọi thử
thách, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, có thái
độ kiên quyết trong đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu
và những tiêu cực trong xã hội, được Đảng Nhà nước và
nhân dân tin yêu. Đảng ủy Quân sự Trung ương khẳng định:
"Trước những diễn biến phức tạp của tình hình và tác động
của tiêu cực xã hội, tuyệt đại bộ phận cán bộ đảng viên vẫn
kiên định chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Mình,
mục tiêu lý tưởng XHCN, nhất trí cao với đường lối quan


điểm của Đảng, có thái độ rõ ràng trong đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái thù địch, kiên quyết khắc phục khó
khăn, chấp hành thắng lợi mọi nhiệm vui [5, 4].
Tuy nhiên, khi bước vào cơ chế thị trường, mở cửa giao
lưu quốc tế, trước sự cám dỗ của tiền tài vật chất, trước
những địn tiến cơng phá hoại tinh vi xảo quyệt của các thế
lực thù địch, một số CB, CS lơi lỏng trong tu dưỡng rèn luyện
đã để cho lối sống thực dụng thâm nhập mức độ nhiều ít
khác nhau ở từng đối tượng cụ thể trong quân đội, đáng lưu ý
là: "một số cán bộ giảm sút ý chí niềm tin vào CNXH và sự
lãnh đạo của Đảng; có hiện tượng cơ hội thực dụng thối hóa
biến chất về đạo đức, lối sống, mơ hồ, mê tín dị doanh [60.
2]. Sự phát triển của lối sống đó đe đoạ gây một tác dụng phá
hoại ghê gớm đối với bản chất, truyền thống cách mạng, đối
với chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng trong quân đội ta,
dọn đường cho chính trị, tư tưởng, tổ chức tư sản vào chiếm

lĩnh, thay thế khi có điều kiện. Tình hình đó khơng chỉ làm tổn
hại đến uy tín, thanh danh, sức chiến đấu của quân đội mà
còn là môi trường thuận lợi cho CNĐQ và các thế lực thù địch
thực hiện âm mưu "DBHB" hòng làm cho quân đội ta từ bỏ
mục tiêu lý tưởng XHCN, chấp nhận con đường TBCN. Bởi lẽ
có một sự thật xưa kia cũng thế và ngày nay cũng vậy, là sự
suy thoái về đạo đức của người cán bộ, đảng viên và sự


chuyển hóa về lập trường chính trị của người đó gắn bó
khăng khít với nhau, cái này làm điều kiện cho cái kia.
+ Về định hướng giá trị nhân cách.
Bước chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN đang
làm "rung chuyển" các mặt của hình thái kinh tế - xã hội mới,
làm biến đổi sâu sắc mọi thành tố và mọi tế bào của nó, từ
lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng, từ cấp vi mơ đến vĩ mơ, do đó
nhân cách con người và định hướng giá trị xã hội cũng đang
có sự biến đổi với nhịp độ nhanh chóng và sâu sắc.
Nếu như trước đây con người chịu đựng gian khổ, ít địi
hỏi, ít biết tính tốn hiệu quả kinh tế, sống nặng về tình nghĩa,
kém năng động tháo vát trong sản xuất kinh doanh, ứng xử
hướng vào những giá trị tập thể, xã hội là chính, thích bình
qn cào bằng, trung thành tin tưởng vào Đảng và Nhà
nước; thì hiện nay họ lại đòi hỏi mức tiêu dùng ngày càng
cao, biết tính tốn hiệu quả kinh tế, chấp nhận ganh đua,
cạnh tranh, hướng vào những lợi ích cá nhân là chính, chấp
nhận sự phân hóa giàu nghèo, quan hệ giữa người với người

dựa trên quan hệ kinh tế là chính, dám chấp nhận phiêu lưu
mạo hiểm.


Như vậy, sự chuyển đổi về định hướng giá trị nhân cách,
bên cạnh mặt tích cực, có cả xu hướng biến đổi cực đoan,
đối lập với những giá trị truyền thống của dân tộc và truyền
thống cách mạng.
Mặt tích cực trong sự chuyển đổi định hướng giá trị nhân
cách là từ chỗ con người thụ động chấp hành, ỷ lại, chờ đợi
vào sự bao cấp của Nhà nước, của tập thể, kém năng động,
tháo vát trong sản xuất, ít biết tính tốn hiệu quả kinh tế, thích
bình qn cào bằng, đã chuyển sang con người năng động.
chủ động, sáng tạo hơn trong sản xuất, kinh doanh, cơng tác,
biết tính tốn hiệu quả kính tế, dám chấp nhận cạnh tranh,
ham mê và biết làm giàu một cách chính đáng, biết thường
xuyên nâng cao trình độ, năng lực để thích ứng, tồn tại và
phát triển trong cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập và yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời cũng xuất hiện những xu hướng biến đổi không
lành mạnh, trái với những giá trị bền vững, những tinh hoa
của dân tộc được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm
đấu tranh dựng nước, giữ nước và giá trị truyền thống cách
mạng mà Đảng và nhân dân ta đã dày công xây dựng, vun
đắp trong suốt 7 thập kỷ qua. Từ chỗ con người hướng vào
những giá trị tập thể, giá trị xã hội là chính, chuyển sang con
người đơn thuần hướng vào những giá trị cá nhân, gia đình;
từ chỗ con người sống nặng về tình nghĩa chuyển sang con



người trong quan hệ ứng xử chỉ coi trọng tiền tài vật chất; từ
chỗ trong nhân cách biết coi trọng cả đức và tài, lấy đức làm
gốc, chuyển sang coi nhẹ đạo đức: từ chỗ sống vì lý tưởng
cao đẹp, đến chỗ quá thực dụng, sùng bái đồng tiền, sống xa
hoa, lãng phí; từ chỗ lấy con người xã hội tập thể làm mẫu
mực, chuyển sang chỗ quá nặng về con người cá nhân thậm
chí cá nhân chủ nghĩa; từ chỗ đề cao các giá trị chính trị - xã
hội chuyển sang đơn thuần coi trọng các lợi ích kinh tế vật
chất, coi nhẹ giá trị chính trị, tinh thần, v.v...
Những biến đổi định hướng giá trị nhân cách trong xã hội
đã tác động mạnh mẽ đến CB, CS quân đội ta.
Nhìn chung hiện nay định hướng giá trị nhân cách của CB,
CS ta mang tính tích cực. Trong thang giá trị của đại đa số
CB, CS lựa chọn thì những giá trị chiếm vị trí cao là: niềm tin
vào Đảng và Nhà nước; có ý thức và hành vi sẵn sàng bảo
vệ Tổ quốc; quan tâm đến năng lực và trình độ học vấn; tích
cực sáng tạo trong học tập, lao động, cơng tác; sống có tình
nghĩa... Các giá trị: hịa bình, tự do, an ninh, cơng lý, sức
khỏe, học vấn, việc làm, niềm tin, gia đình, sống có mục đích
được CB, CS lựa chọn với tỷ lệ cao. Định hướng giá trị nghề
nghiệp của CB, CS về cơ bản là tích cực, phù hợp với sự địi
hỏi của quá trình phát triển mới của đất nước - đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH, trong đó các giá trị được lựa chọn cao là:
nghề bảo đảm yên tâm suốt đời, nghề có thể giúp ích cho


nhiều người, nghề có điều kiện để tiếp tục được học lên,
nghề có điều kiện phát triển năng lực, nghề phù hợp với sức
khỏe, trình độ, nghề được xã hội coi trọng, nghề có thu nhập
cao [19, 169-175].

Tuy nhiên, trong định hướng giá trị nhân cách của CB, CS
bên cạnh mặt tích cực là chủ yếu, cịn một số chiều hướng
biến đổi cần phải đặc biệt lưu tâm. Đó là:
Từ con người chịu đựng gian khổ, khó khăn, ác liệt, ít đòi
hỏi đãi ngộ vặt chất, đến con người đòi hỏi nhiều hơn về
hưởng thụ và với mức tiêu dùng vật chất vượt quá khả năng
và điều kiện cho phép. Từ con người ít tính tốn thiệt hơn
trong q trình công tác, phục vụ quân đội, đến con người
quá quan tâm đến so sánh được mất, hơn thiệt trong quá
trình phục vụ quân đội. Từ con người chủ yếu sống vì lợi ích
tập thể, hết lịng phục vụ Tổ quốc, phục vụ quân đội, đến con
người ngày càng chú ý thái quá đến lợi ích cá nhân và đời
sống gia đình. Từ con người an phận với đời sống vật chất
thiếu thốn có tính chất bình qn, thậm chí cào bằng, đến
con người khơng cam chịu nghèo khó, thiếu thốn, chấp nhận
sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội và chừng mực nào đó
ngay trong nội bộ quân đội. Từ con người chấp nhận sự phân
công vô điều kiện của tổ chức, tập thể, đến con người có xu
hướng lựa chọn, chạy chọt ở các vị trí và nơi cơng tác có thu
nhập cao, nhiều bổng lộc. Từ chỗ con người mang nặng tình


cảm đồng chí, đồng đội cùng "đồng cam cộng khổ", "chia
ngọt sẻ bùi", "sống chốt có nhau', đến con người cố kết với
nhau chủ yếu vì lợi ích cá nhân, thậm chí có tính chất
phường hội, cánh hẩu để làm ăn, sinh lợi. Từ chỗ con người
sĩ quan là hiện thân của tình đồn kết, gắn bó keo sơn cán bộ
và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới, chung sức chung lịng,
đồng tâm hiệp lực vì nhiệm vụ chung, đến con người có xu
hướng tuyệt đối hóa quyền lực cá nhân, độc đốn, chun

quyền, thích quyền uy, lạm dụng quyền lực coi thường, lấn át
tập thể trong lãnh đạo, chỉ huy [80, 69], ...
Xu hướng biến đổi nói trên tuy chưa mang tính phổ biến
trong tồn bộ nhân cách CB, CS, song đó là một thực tế đặt
ra cho cơng tác GDCTTT trong quân đội cần tăng cường giáo
dục để CB, CS lĩnh hội được các giá trị xã hội tích cực lành
mạnh, hình thành nên hệ thống giá trị của cá nhân phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới - đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Đánh giá tổng quát chất lượng GDCTTT trong quân đội.
Qua những điều phân tích trên, chúng ta có thể đánh giá
tổng quát chất lượng của GDCTTT trong thực tiễn như sau:
GDCTTT đã góp phần trực tiếp củng cố xây dựng nền tảng
chính trị vững chắc làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp
và sức mạnh chiến đấu của quân đội trong giai đoạn mới,


nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị phẩm chất đạo đức của
CB, CS, giữ vững sự ổn định chính trị tư tưởng, củng cố vững
chắc trận địa tư tửơng của Đảng trong quân đội, giữ vững
dưới lòng tin yêu của nhân dân đối với quân đội. Quân đội ta
đã hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ nặng nề được Đảng
và Nhà nước giao phó. Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của
nhiều nhân tố, của mọi hoạt động của qn đội trong đó, hoạt
động GDCTTT có vai trị to lớn và trực tiếp.
Thắng lợi của công tác GDCTTT biểu hiện trên các mặt chủ
yếu sau:
- Hầu hết CB, CS đều nhất trí cao với đường lối, quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, lòng tin dược củng

cố và phát triển; trình độ chính trị được nâng cao trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn, bản lĩnh chính trị vững
vàng hơn, ln nỗ lực khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm
vụ, kể cả ở những nơi gian khổ, phức tạp, khắc nghiệt. Qua
thực tiễn hoạt động, CB, CS quân đội thực sự là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng,
Nhà nước, nhân dân trong việc giữ vững ổn định chính trị góp
phần tích cực vào cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Toàn quân quán triệt và nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quân
sự, nhiệm vụ quốc phòng gắn với nhiệm vụ an ninh trong thời
kỳ mới, từ đó xác định đúng đắn và có chiều sâu trách nhiệm


×