Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TRIẾT học và VAI TRÒ của TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.25 KB, 8 trang )

1. Mở đầu
Thuật ngữ “Triết học” xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào
khoảng từ thế kỷ VIII - VI trước Công nguyên tại một số nền văn minh cổ đại như
Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, trung Đông v.v, nhưng triết học kinh điển chỉ phát
triển ở Hy Lạp cổ đại. Người Trung Quốc coi triết học khơng phải là sự miêu tả mà
là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của
con người. Người Ấn Độ thì coi triết học là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con
người đến với lẽ phải, sự giải thốt. Cịn người phương Tây thì hiểu triết học với
nghĩa là u mến sự thơng thái. Như vậy,chúng ta có thee hiểu triết học là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội và triết học được hiểu một cách khái quát
là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trị của
con người trong thế giới ấy. Và cho đến ngày nay, triết học vẫn được coi là bộ môn
khoa học của mọi khoa học, là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Những vấn đề có kết
nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết
học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất,
những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ
thống dưới dạng lý luận.
Cách tốt nhất để hiểu rõ về triết học chính là tìm hiểu về những vấn đề cơ
bản của nó, những vấn đề liên quan đến nó và vai trị của triết học đối với đời sống
con người. Trong tiểu luận này, bằng sự hiểu biết của mình và từ những nguồn tư
liệu đã cơng bố tơi cố gắng tìm hiểu về những vấn đề cơ bản của triết học và phác
họa phần nào vai trị của nó đối với đời sống con người.
2. Nội dung:
Trước tiên, vấn đề cơ bản của triết học là gì?. Theo nhiều nhà nghiên cứu
triết học, Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa
tâm và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ
quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được
chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, mặt khác nó
1




cũng là là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết
của họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”,
theo ơng: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm
xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học
có hai mặt:
Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái
nào quyết định cái nào?
Để trả lời cho câu hỏi này, người ta đã đưa ra hai lý luận hoàn toàn trái
ngược nhau:
Một số ý kiến về triết học cho rằng yếu tố vật chất xuất hiện trước và ý thức
xuất hiện sau cho nên đã hình thành một khái niệm riêng về chủ nghĩa duy vật. Tuy
nhiên, những ý kiến khác lại cho rằng yếu tố ý thức xuất hiện trước và vật chất ra
đời sau. Vì vậy mà đã hình thành nên những khái niệm về chủ nghĩa duy tâm.
Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Ở câu hỏi này, dựa vào sự khác biệt ý kiến ở mặt thứ nhất mà các nhà triết
học cũng chia thành hai tư tưởng lý giải như sau:
Những người thiên về chủ nghĩa duy vật thì cho rằng con người có thể nhận
thức được về thế giới xung quanh và sự nhận thức này phản ánh lại một cách khách
quan về thế giới vào trong suy nghĩ của con người.
Những người thiên về chủ nghĩa duy tâm cũng cho rằng con người có thể
nhận thức về thế giới. Tuy nhiên, sự nhận thức này là khả năng tự nhận thức của
con người và nó có giới hạn.
Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái
triết học. Đối với Chủ nghĩa duy tâm chính là trường phái triết học xuất phát từ
quan điểm bản chất của thế giới chính là ý thức. Ý thức là tính thứ nhất cịn vật
chất là tính thứ hai, ý thức sẽ quyết định vật chất. Chúng có nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc xã hội, sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa một mặt, một đặc tính

nào đó ở trong q trình nhận thức. Đồng thời nó cũng gắn liền với lợi ích của giai
cấp, tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân lao động. Và theo các nhà nghiên cứu, Chủ
2


nghĩa duy tâm được chia thành hai giai đoạn khác nhau đó là chủ nghĩa duy tâm
mang tính chủ quan và khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì cho rằng những chuyện xảy ra trên thế giới
đều phụ thuộc vào nhận thức và cảm nhận của con người. Cụ thể là một nhà triết
học người Anh tên Gioócgiơ Béccli đã chỉ ra rằng vật chất trên thế giới này nó tồn
tại một cách riêng lẻ và việc đưa ra những lý giải về vật chất là gì đều khơng có lợi
ích gì bởi vì đơn giản nó chỉ là một cái tên gọi. Ông cho rằng, những vật chất tồn
tại trong cuộc sống của chúng ta là hoàn toàn do chúng ta cảm giác, ơng lấy ví dụ
điển hình như, chúng ta nhìn thấy chiếc bàn, chiếc ghế có hình dạng gì, màu sắc gì
sở dĩ là do những nhận thức về cảm giác của chúng ta mà thôi chứ thực ra chúng
không tồn tại.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng ý thức khách quan xuất hiện
trước và nó tồn tại một cách độc lập. Theo nhà triết học Platon, ông quan niệm
rằng các sự vật xung quanh chúng ta là một vịng tuần hồn, chúng sinh sống rồi
mất đi và cứ thế, khơng mang tính chân thực. mặt khác ông cho rằng tồn tại một
thế giới mang tính khơng cảm tính, nó mang tính chân thực.
Hồn tồn trái ngược với chủ nghĩa duy tâm thì chủ nghĩa duy vật lại là
trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới chính là vật chất.
Vật chất là tính thứ nhất và ý thức là tính thứ hai, vật chất có trước và quyết định ý
thức. Chúng có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn
liền với lợi ích của giai cấp cũng như các lực lượng tiến bộ ở trong lịch sử. Bên
cạnh đó thì nó cũng là quá trình đúc kết những gì khái quát nhất để phản ánh được
những thành tựu và con người đạt được trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Có
thể nói chủ nghĩa duy vật là một hình thức của sự thực hữu luận với quan niệm
rằng thứ duy nhất được coi là tồn tại chính là vật chất. Mọi sự vật đều có cấu tạo từ

vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của những tương tác vật chất.
Các nhà triết học chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy vật đã hình thành và phát triển
qua 3 hình thức đó chính là chủ nghĩa duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phác),
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm:
3


Chủ nghĩa duy vật chất phác: Đây là một loại hình thức chủ nghĩa duy vật
hình thành từ thời kỳ cổ đại tại cả ba trung tâm văn hóa lớn là Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp. Có thể nói, chủ nghĩa duy vật cổ đại là kết quả nhận thức của các nhà
Triết học duy vật thời cổ đại. Ở hình thức này, các lý luận triết học về thế giới cơ
bản cịn mang tính chất cảm tính, ngây thơ bởi những quan điểm cũng như lý giải
của nhà triết học cịn mang nặng tính trực quan.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVII - XVIII): Chủ nghĩa duy vật siêu
hình là hình thức kế thừa và phát triển lên của chủ nghĩa duy vật chất phác. Ở thời
kỳ này, chủ nghĩa duy vật được xây dựng nhằm chống lại thế giới quan duy tâm và
tôn giáo của giai cấp phong kiến.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Có thể nói, chủ nghĩa duy vật biện chứng là
hình thức ưu việt nhất: kế thừa, phát huy những tinh hoa đồng thời khắc phục
những hạn chế của các hình thức chủ nghĩa duy vật đi trước. Nó được xây dựng
dựa trên cơ sở lý giải một cách khoa học về ý thức, vật chất và mối quan hệ của vật
chất và ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng được các nhà triết học như C.Mác,
Ăngghen đặt nền móng để Lenin phát triển cũng như hồn thành nó. Đến nay, triết
học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật và phương
pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con người. Đó cũng là việc
khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát
triển của xã hội, khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần
chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh
vai trò quyết định tồn tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội. Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa học

hiện đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai
cấp cơng nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt động của đảng cộng sản trong
quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, và quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, triết học Mác - Lenin được coi là hệ thống các
nguyên lý, phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong
việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người.
4


Từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức về tất
cả các lĩnh vực, và nó được ra đời từ thực tiến, do nhu cầu của thực tiễn, có nguồn
gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Trong lịch sử phát triển của triết học đã có
những hệ thống lý luận và tư tưởng khác nhau tạo nên những trường phái triết học
khác nhau song đều xuất phát từ thực tiễn xã hội và bối cảnh xã hội cũng tạo ra
những quan điểm triết học trong lịch sử nhân loại. Vì vậy, triết học có vai trị vơ
cùng quan trọng đối với con người, nhất là trong lý luận và cũng như trong cuộc
sống của con người và vai trò của triết đó được thể hiện qua các chức năng của
triết học. Đặc biệt là hai chức năng về chức năng thế giới quan và chức năng
phương pháp luận.
Thế giới quan đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của mỗi con
người, mỗi giai cấp hay mỗi cộng đồng. Chúng giúp cho con người nhận thức được
đúng nhất bản chất của mỗi sự vật, sự việc. Và đặc biệt các hoạt động của con
người thường bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Trong thế giới quan, mặc
dù có cả các yếu tố khác như niềm tin, lý tưởng nhưng yếu tố tri thức đóng vai trị quyết
định. Bởi lẽ, tri thức chính là nền tảng, cơ sở của sự xác lập niềm tin và lý tưởng. Niềm
tin của con người cần phải dựa trên cơ sở tri thức. Nếu niềm tin không được xây dựng
trên cơ sở tri thức thì niềm tin đó sẽ biến thành niềm tin mù quáng. Tương tự, lý tưởng
cũng phải dựa trên cơ sở tri thức. Nếu lý tưởng không dựa vào tri thức thì lý tưởng đó sẽ
biến thành sự cuồng tín. Tuy nhiên, tự bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan. Tri
thức chỉ gia nhập thế quan, trở thành một bộ phận của thế quan chừng nào nó chuyển

thành niềm tin và cao hơn, chuyển thành lý tưởng sống của con người, mà vì lý tưởng
sống đó, người ta sẵn sàng hy sinh bản thân mình. Bởi lẽ, chỉ khi nào tri thức chuyển
thành niềm tin, lý tưởng thì tri thức đó mới trở nên bền vững, trở thành cơ sở cho mọi
hoạt động của con người. Và trình độ phát triển của thế giới quan là một tiêu chuẩn quan
trọng để đánh giá về mức độ phát triển, trưởng thành của một cá nhân cũng như một cộng
đồng nhất định. Còn triết học, với nét đặc thù của mình là một loại hình lý luận, triết học
cho phép diễn tả thế giới quan của con người dưới dạng một hệ thống các phạm trù trừu
tượng, khái quát. Qua đó, triết học đã tạo nên một hệ thống lý luận bao gồm những quan
điểm chung nhất về thế giới như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ
giữa con người với thế giới xung quanh. Như vậy, có thể khẳng định Triết học, với tư
5


cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, khi ra đời đã đem lại cho thế giới quan một sự
thay đổi sâu sắc. Với những đặc điểm đặc thù của mình, triết học đã làm cho sự phát triển
của thế giới quan chuyển từ trình độ tự phát, thiếu căn cứ thực tiễn, phi khoa học, nặng về
cảm tính, lên trình độ tự giác, có cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học, giàu tính trí tuệ, lý
tính. Điều đó tạo cơ sở để con người có thể xây dựng, một thái độ sống đúng đắn, tích
cực, biểu hiện ở việc giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh trong cuộc sống của mình.
Việc tìm hiểu, học tập triết học là một tiền đề quan trọng để nâng cao hiểu biết, trình độ
và năng lực tư duy lý luận để từ đó con người xây dựng được một thế giới quan, nhân
sinh quan đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của thế giới và của thời đại.
Đối với chức năng phương pháp luận, được hiểu là một hệ thống những quan
điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Vai trò, chức
năng phương pháp luận của một học thuyết triết học đối với đời sống con người càng to
lớn khi học thuyết đó phản ánh đúng đắn, khoa học trạng thái tồn tại của thế giới khách
quan. Việc tìm hiểu, học tập triết học khơng chỉ góp phần xây dựng một thế giới quan
đúng đắn mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành một phương pháp luận
chung thật sự đúng đắn, có thể đem lại kết quả tích cực trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn của mỗi con người.

Có thể khẳng định, triết học đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của đời sống nhân loại. Việc tìm hiểu, vận dụng triết học là một điều kiện
không thể thiếu của việc nâng cao hiểu biết và năng lực tư duy lý luận, là điều kiện quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dân tộc. Ph.Ăngghen đã từng
khẳng định: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận”. Từ lý luận và thực tiễn chứng minh, trong lịch sử nhân loại

hệ thống triết học duy vật biện chứng đã phân tích sâu sắc đến các điều kiện tự
nhiên, xã hội và con người và bởi vậy, căn cứ vào bối cảnh tự nhiên, xã hội và con
người hôm nay để từng bước xác định thái độ, xác định cách nhìn về cuộc sống và
về cách thức sinh sống của mỗi con người trong những điều kiện và hoàn cảnh
mới. Đặc biệt, Trong bối cảnh tồn cầu hóa, những biến động về kinh tế xã hội và
tự nhiên đã khiến con người quan tâm và giúp con người nhìn nhận những gì đang
diễn ra trong mọi lĩnh vực của thế giới đương đại, cả đời sống xã hội một cách
khách quan hơn, toàn diện và cụ thể hơn, tránh được sự chủ quan, phiến diện, cứng
6


nhắc, giáo điều và đồng thời cũng tránh được cả sự thiếu nhất quán, theo xu hướng
cực đoan một chiều. Lúc này, triết học giúp con người có được cái nhìn tổng qt,
có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng và về những biến động trên thế giới, về xã
hội, về bản thân con người và như vậy triết học đã giúp con người có sự định
hướng đúng đắn trong hành động và củng cố sự quyết tâm hành động để hoàn
thành mục tiêu đã đề ra với kết quả cao nhất.
Nhìn chung có thể thấy triết học đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong lý luận
cũng như trong thực tiễn của đời sống con người, không phân biệt phương Đông
và phương Tây. Triết học đều được đề cao trong lý luận và hình thành những hệ
thống tư tưởng về thế giới, về xã hội và về con người. Mặc dù có sự khác nhau
giữa thế giới phương Đơng và phương Tây trong nhận thức song nhìn chung thì
đều thấy được triết học có vai trị to lớn trong lý luận cũng như trong thực tiến.

Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, khi mà những biến động về kinh tế, xã hội
và cả tự nhiên đang diễn ra mạnh mẽ thì triết học đã giúp con người có được sự
định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố sự quyết tâm hành động, giúp
con người có cái nhìn tổng qt, có cách lý giải đúng đắn về chiều hướng của
những biến động trên thế giới, về xã hội và cả bản thân con người. Triết học trong
bối cảnh tồn cầu hóa như vậy đã khơng mất đi mà nó cịn tồn tại như là một lý
luận căn bản cho sự phát triển của nhân loại. Còn đối với Việt Nam, triết học duy
vật biện chứng đã và đang đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự đổi mới đất
nước. Triết học khơng chỉ có vai trò trong lý luận nghiên cứu ở các nhà trường mà
đã ăn sâu vào thực tiễn, trong công cuộc đổi mới kinh tế xã hội và văn hóa của Việt
Nam, giúp con người định hướng, có cái nhìn tổng qt và lý giải đúng đắn và từ
đó xác định những bước đi và sự phát triển của mình.
3. Kết luận:
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành
các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương
pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương
pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong
nhận thức và cải tạo thế giới.
7


Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học đóng vai trị quan
trọng trong đời sống con người, trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự
thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ.

8




×