Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN phân tích quy định của bộ luật dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.18 KB, 25 trang )

Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….

TÊN ĐỀ TÀI : Phân tích quy định của Bộ luật dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự và cho ví dụ minh họa
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần:…………………………………………..
Mã phách:………………………………….(Để trống)

1


Hà Nội – 2022

PHIẾU LÀM PHÁCH HÌNH THỨC THI BÀI TẬP LỚN/TIỂU LUẬN

Mã phách

Họ và tên sinh viên:…………………………………..Ngày sinh:………..…….;Mã sinh viên:…………
Lớp:…………………………………………Ngành đào tạo:….………………………………………….
Tên Tiểu luận/Bài tập lớn:……………………………………………………… …………… …… ……
… …………...……………………………………………………………………………………………….

Học phần:…………………………………………………………………………………………………..
Giảng viên phụ trách: …………………………………………………………………………………….
Sinh viên kí tên

Phiếu này bằng 1/2 tờ giấy A4 để rời và đặt sau bìa 1 – trên trang đầu tiên của tiểu
luận; hoặc giữa giấy bóng kính (nếu có) với bìa 1



2


3


MỤC LỤC

4


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, khi lực lượng lao động



càng phát triển và sự phân công lao động mang tính chun nghiệp, chun mơn
hố, lao động có kỹ thuật, khoa học và cơng nghệ ngày càng được coi trọng
trong kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ thì của cải xã hội ngày càng được tạo ra
nhiều hơn, phong phú hơn và hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm ngày càng được
coi trọng hơn. Khi nền sản xuất phát triển thì quan hệ tài sản trong xã hội cũng
phát triển theo về quy mô cũng như giá trị tài sản và giao dịch dân sự giúp các
chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác trong đời
sống hàng ngày của mình đồng thời giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý
để các chủ thể ập các quan hệ về tài sản và nhân thân. Do đó, việc làm rõ những
vấn đề liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự ln là nội dung then chốt,
góp phần đảm bảo hiệu quả thực thi của luật, quyền và lợi ích hợp pháp của các

bên có liên quan. Tuy nhiên vẫn cịn rất nhiều giao dịch bị vơ hiệu do các chủ
thể chưa hiểu rõ các quy định cũng như điều kiện để tạo lập một giao dịch cũng
như là các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực.” Bằng các kiến thức đã học
và tìm đọc tài liệu, em xin được chọn đề bài chủ đề số 03: “Phân tích quy định
của Bộ luật dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và cho
ví dụ minh họa” làm đề tài cho bài tập lớn mơn Luật dân sự của mình.
2. Mục đích, và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: bài viết nhằm mục đích hệ thống hóa và phân

tích những vấn đề lý luận cơ bản nhất về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự, làm sơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề có liên
quan, Đồng thời, bài viết cịn nhằm mục đích phân tích, đánh giá và
-

cho ví dụ cụ thể ở từng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu: do giới hạn của bài viết nằm trong chương
trình học nên sinh viên khơng có tham vọng chỉ ra các vất đề bất cập
cụ thể và đưa ra các kiến nghị hồn hiện có thể giải quyết được mọi
5


vấn đề trong quy định pháp luật về giao dịch dân sự theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam. Để thực hiện được các mục đích nêu trên,
bài viết sẽ tập trung làm rõ các vấn đề: Chỉ ra và phân tích các quy
định của Bộ luật dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự, đồng thời chỉ ra các ví dụ cụ thể.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật trong Bộ luật
dân sự 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Phạm vi nghiên cứu:

-

Về không gian, bài viết chỉ tập trung nghiên cứu quy định về điều kiện

-

có hiệu lực của giao dịch dân sự trong Bộ luật dân sự 2015
Về thời gian: Bài viết nghiên cứu các quy định pháp luật về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ

sung 2017
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, trong quá trình
nghiên cứu và làm bài, sinh viên có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
sau:
-

Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ những vấn đề lý luận
và quy định pháp luật hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao dịch

-

dân sự
Phương pháp tổng hợp nhằm khái quát các quy định cảu pháp luật về

điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu chủ đề bài tập lớn này sẽ làm rõ những vấn đề cư bản liên
quan đến điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, làm rõ một số vấn đề lý
luận về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như khái niệm, đặc điểm, cơ

sở ghi nhận các điều kiện có hiệu lwujc của giao dịch dân sự. Từ đó phân tích và
đưa ra các ví dụ cụ thể.
B. NỘI DUNG

6


1.

Khái niệm và phân loại giao dịch dân sự
1.1.

Khái niệm và dấu hiệu của giao dịch dân sự
1.1.1. Khái niệm

Theo quy định tại Điều 116 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự là hợp
đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Từ quy định này ta thấy giao dịch dân sự được xác định là kết quả của việc



làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý (hành vi pháp
lý đơn phương hoặc đa phương - một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả
pháp lý. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục
đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể
tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.”
1.1.2. Dấu hiệu


Được hình thành từ hành vi của con người:” Nếu các quan hệ pháp luật dân
sự nói chung có thể hình thành từ nhiều căn cứ khác nhau thì giao dịch dân sự
chỉ có thể hình thành từ hành vi của con người. Vì vậy, nếu giao dịch dân sự
hình thành từ hành vi hợp pháp thì giao dịch đó có hiệu lực (khi đã đáp ứng đủ
các điều kiện) nhằm làm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định: Hậu quả pháp
lý mà người xác lập và tham gia giao dịch dân sự nhằm làm phát sinh có thể là
xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự với nhau, có thể chấm dứt các quyền, nghĩa
vụ dân sự đối với nhau, có thể là thay đổi quyền, nghĩa vụ1.”


Hướng tới một quan hệ dân sự với các chủ thể khác: Người xác lập giao

dịch dân sự bao giờ cũng hướng tới việc hình thành một quan hệ dân sự giữa
mình với một hoặc nhiều chủ thể khác và thông qua quan hệ dân sự đó để xác
lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể.
1 Phạm Văn Tuyết (2017) Hướng dẫn môn học luật dân sự- NXB Tư pháp [128,129]

7


Là sự thể hiện ý chí của người xác lập giao dịch: Ý chí của con người bao giờ
cũng được thể hiện thông qua hành vi, mặt khác, giao dịch dân sự bao giờ cũng
hình thành từ hành vi của con người nên giao dịch dân sự bao giờ cũng là sự thể
hiện ý chí của người xác lập giao dịch. Trong giao dịch dân sự ý chí và sự thể
hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch là vơ cùng quan trọng. Ý chí là nguyện
vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung của nó được
xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ. ” Ý chí phải
được thể hiện ra bên ngồi dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác có
thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một giao dịch

dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày
tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố là vô hiệu
hoặc sẽ vô hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà đúng với cả pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này
đều thông qua người đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện
1.2.

Phân loại giao dịch dân sự

Căn cứ vào các bên tham gia vào giao dịch có thể phân biệt giao dịch dân sự



thành hai loại là hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương.
Hợp đồng dân sự:
Hợp đồng dân sự là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều bên
nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân
sự là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày. Thông
thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của
các chủ thể trong một quan hệ cụ thể như mua bán, cho thuê... nhưng cũng tồn
tại hợp đồng có nhiều bên tham gia như tổ hợp tác, hộ gia đình.... Mỗi bên trong
hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong hợp đồng ý chí của
một bên địi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chi của các
bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng.”
8


Hành vi pháp lý đơn phương
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một

bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Không phải
hành vi pháp lý đơn phương nào cũng là giao dịch dân sự. Thông thường, hành
vi pháp lí đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất (lập
di chúc, từ chối hưởng thừa kế). “Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào một
bên của giao dịch (hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng...). Trong
nhiều trường hợp hành vi pháp lí đơn phương chi phát sinh hậu quả pháp lí khi
có những người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định do người xác lập
giao dịch đưa ra.
Giao dịch dân sự có điều kiện
Giao dịch có điều kiện là giao dịch mà hiệu lực của nó phát sinh hoặc hủy bỏ
phụ thuộc vào sự kiện nhất định. Khi sự kiện đó xảy ra thì giao dịch phát sinh
hoặc hủy bỏ.Giao dịch có thể xác lập với điều kiện phát sinh hoặc điều kiện huỷ
bỏ. Giao dịch có điều kiện phát sinh là giao dịch đã được xác lập nhưng chỉ phát
sinh hiệu lực khi có sự kiện được coi là điều kiện xảy ra. Giao dịch có điều kiện
huỷ bỏ là giao dịch được xác lập và phát sinh hiệu lực nhưng khi có sự kiện là
điều kiện xảy ra thì giao dịch bị huỷ bỏ2.”
2.

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự được xác lập thoả mãn các điều kiện pháp luật quy định

nhằm tuân theo các quy định của pháp luật về giao dịch, đồng thời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể không bị xâm phạm.
Điều 117 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự theo 2 khoản:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
2 Trường đại học Luật Hà Nội- Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1 NXB Công an nhân dân [trg139]


9


c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Dựa vào căn cứ pháp lý ở trên, có thể hiểu các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 gồm:
2.1.

Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.

Chủ thể của giao dịch là những người tham gia giao dịch là cá nhân, pháp
nhân
*Cá nhân:
Cá nhân tham gia giao dịch dân sự phải là người đã thành niên, người không
bị mất năng lực hành vi dân sự, không phải là người có khó khăn trong việc
nhận thức, làm chủ hành vi, không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi thì
có quyền xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ do
mình xác lập. “Những giao dịch dân sự do những người này xác lập có hiệu lực
pháp luật. Những cá nhân chưa thành niên, cá nhân bị mất năng lực hành vi dân
sự, cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc cá nhân bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo u cầu của người đại
diện của người đó, Tịa án tun bố giao dịch đó vơ hiệu nếu theo quy định của
pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc
đồng ý (khoản 1 Điều 125 BLDS 2015). “
Tuy nhiên có những trường hợp cá biệt ngay tại khoản 2 của Điều 125 thì

giao dịch do những người nói trên vẫn được xác lập trong một số trường hợp cụ
thể, được hiểu là: Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi
không được phép xác lập giao dịch dân sự. Mọi giao dịch dân sự của những
người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện 3. Việc xác
định nhu cầu cần thiết của cá nhân dưới 6 tuổi và người mất năng lực hành vi
3 Trường đại học Luật Hà Nội- Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1 NXB Công an nhân dân [trg140 - 141]

10


dân sự tham gia vào các giao dịch đó là cần thiết. Những nhu cầu phù hợp với
nhận thức của những cá nhân này là vui chơi, rèn luyện sức khỏe, thỏa mãn nhu
cầu sinh hoạt tinh thần trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, biểu diễn; nhu cầu về
thực phẩm, nước giải khát… thì những giao dịch này vẫn có hiệu lực và người
đại diện cho họ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những
giao dịch đó. Quy định này là hồn tồn phù hợp với thực tiễn cuộc sống. giao
dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã
xác lập, thực hiện giao dịch với họ. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của những
đối tượng nói trên và là một quy định mang tính cải cách tư duy và quan điểm
lập pháp ở Việt Nam4.
Ngoài ra, người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi có năng lực hành vi dân sự



chưa đầy đủ, khi xác lập thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất

động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Ví dụ: lập di chúc phải được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành
vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.”
Ví dụ về giao dịch dân sự có chủ thể làcá nhân:
Chị A (31 tuổi) bị tâm thần sau một vụ tai nạn xe hơi, đã được xác nhận mất
năng lực hành vi vào tháng 8-2010. Bà B là hàng xóm của chị A khi biết được
điều này đã lợi dụng và dụ dỗ chị A ký vào hợp đồng bán lại căn nhà 4 tầng 8m
4 Trường Quân (2021), Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, bài viết đăng trên trang thông tin điện tử Đảng
cộng sản Việt Nam, 2021
Nguồn: />
11


mặt đường mà chị A sở hữu với giá rất rẻ. Biết được sự việc, chồng và gia đình
chị A đến nói chuyện với bà B nhưng bà B khơng hủy hợp đồng mà cịn cãi là đã
ký rồi thì sẽ bắt buộc phải thực hiện theo. Trong trường hợp này, hợp đồng xác
lập bởi bà B và chị A là vơ hiệu mặc dù có chữ ký của chủ sở hữu là chị A nhưng
vì chị A mất năng lực hành vi dân sự cho nên quyền sở hữu căn nhà đó vẫn
thuộc về chị A.
*Pháp nhân:
Pháp nhân chỉ được tham gia vào các giao dịch dân sự phù hợp với quyền và
nghĩa vụ của pháp nhân đó5.
Chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông quá người đại diện của họ
(đại diện theo pháp luật, theo ủy quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại
diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân. Người đại diện xác
lập giao dịch dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân trong phạm vi

nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ hoặc pháp luật quy định.
Ví dụ về giao dịch dân sự có chủ thể là pháp nhân:
Ơng A và ơng B lần lượt là giám đốc và phó giám đốc của cơng ty TNHH
X. Trong điều lệ của cơng ty có ghi rõ rằng, đối với những hợp đồng có giá trị
dưới 5 tỷ vnđ thì ông B sẽ thay mặt công ty để ký còn đối với các hợp đồng có
giá trị từ đủ 5 tỷ vnđ trở lên thì ơng A sẽ là người ký. Trong một vụ làm ăn với
giá trị hợp đồng là 4 tỷ 950 triệu vnđ, ông B đã là người ký kết hợp đồng này,
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình là ký hợp đồng dưới 5 tỷ đồng nên
hợp đồng này đã có hiệu lực.
2.2.

Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức
xã hội.

Theo điều kiện này thì để giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực, các bên



khơng được thỏa thuận để thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm hoặc trái
với những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội,
5 Phạm Văn Tuyết (2017) Hướng dẫn môn học luật dân sự- NXB Tư pháp [130]

12


được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Điều cấm của pháp luật là những quy
định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung. Chỉ những tài sản được phép
giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều cấm, đúng
chuẩn mực đạo đức thì mới được phép thực hiện. Những giao dịch nhằm trốn

tránh pháp luật hoặc trái đạo đức thì sẽ khơng làm phát sinh hiệu lực.
Mục đích của giao dịch dân sự là yếu tố thuộc về bản chất chứ khơng phụ
thuộc vào mục đích tham gia giao dịch của các chủ thể. Điều đó có nghĩa là,
mục đích của giao dịch dân sự - yếu tố thuộc về bản chất của và mục đích của
chủ thể xác lập giao dịch - mong muốn của chủ thể khi xác lập giao dịch là hai
yếu tố khác biệt nhau. Ví dụ, hợp đồng mua bản là hợp đồng được xác lập nhằm
hướng tới mục đích chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên bản sang cho bên mua,
và đó chính là bản chất của hợp đồng mua tài sản và là yếu tố bất biến. Song,
các bên giao kết hợp đồng mua bán tài sản có thể khơng muốn được sở hữu tài
sản hoặc được chuyển quyền sở hữu tài sản mà vì một mong muốn nào đó như
tẩu tán tài sản. Đây chính là động cơ khiển cho các chủ thể tham gia giao kết vào
một hợp đồng nhất định. Tuy nhiên, BLDS chỉ hướng tới việc ghi nhận điều kiện
về mục đích xác lập giao dịch chứ không điều chỉnh động cơ xác lập giao dịch
Dựa vào mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích và nội dung giao dịch có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch ln nhằm đạt được
mục đích nhất định. Muốn đạt được những mục đích đó thì họ phải cam kết,
thỏa thuận về nội dung và những thỏa thuận cam kết đó của họ là để đạt được
mục đích.”
Ví dụ: A là quân nhân tiếp nhận việc canh giữ kho vũ khí quân dụng đã lén
lút lấy trộm súng và đạn dược tuồn ra ngoài bán lại cho B. Mục đích của A là
bán số đồ này cho B để lấy tiền gửi về cho gia đình cịn B thì muốn có số vũ khí
này để bán ra chợ đen kiếm tiền đồng thời giữ lại bên mình để phịng vệ. Tuy
13


nhiên giao dịch này là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật cả về nội dung
và hình thức, cụ thể là vi phạm tội tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy
định tại Điều 304 BLHS 2015.

2.3.

Người tham gia giao dịch hồn tồn tự nguyện.

Về lý luận, lợi ích được coi là tiền để, là động lực khiến cho các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật nói chung, quan hệ dân sự nói riêng. Bất cứ chủ
thể nào khi tham gia xác lập giao dịch dân sự đều tim kiếm cho mình những lợi
ích có thể là về vật chất hoặc về tinh thần. Để đạt được lợi ích mong muốn, chủ
thể phải có đủ điều kiện để bày tỏ ý chí của mình ra bên ngồi. Mọi sự ngăn căn
chủ thể bày tỏ ý chí và mọi sự tác động khiến cho chủ thể phải lựa chọn xác lập
giao dịch dân sự không phù hợp với mong muốn của mình đều có thể khiến cho
chủ thể bị mất đi hoặc khơng đạt được lợi ích mong muốn. Khi đó, giao dịch dân
sự khơng cịn được coi là một hoạt động hữu hiệu để chủ thể tìm kiếm và thoả
mãn các nhu cầu của mình mà lại trở thành rào cản cho việc đạt được lợi ích.
Chính vì vậy, sự tự nguyện về mặt ý chí phải được coi là một trong những điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự phải được thiết lập trên cơ sở tự do, tự nguyện của các bên



chủ thể. Vì vậy, giao dịch dân sự nếu khơng có tính tự nguyện của người tham
gia giao dịch đó thì sẽ khơng có hiệu lực. Bản chất của giao dịch dân sự là sự
thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố là
tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khơng có tự do ý chí thì khơng phải là tự nguyện,
nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc khơng thống nhất cũng khơng thể
có tự nguyện.
Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự nguyện
của các bên trong quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được
quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS 2015. Giao dịch dân sự bị coi là thiếu tính tự
nguyện của người tham gia nếu giao dịch đó được xác lập là bị đe dọa, bị lừa

14


dối, bị nhầm lẫn, giả tạo. Chủ thể tham gia giao dịch tự mình lựa chọn đối tượng
của giao dịch, lựa chọn giá cả, thời gian, địa điểm và các sự lựa chọn khác trong
việc xác lập giao dịch dân sự. Mọi áp đặt ý chí với chủ thể đều là ngun nhân
dẫn đến giao dịch dân sự vơ hiệu”
Ví dụ: Ông A lập di chúc để chia tài sản của mình cho các con, tuy nhiên
trước khi lập ơng có hỏi qua ý kiến của cả gia đình và người con cả có ý kiến
rằng vì mình là con cả, đã chịu nhiều cực khổ hơn những người khác nên u
cầu ơng A chia cho mình nhiều hơn phần của những người khác và có đe dọa
rằng nếu khơng chia theo thì sẽ tự sát. Ơng A vì lo sợ người con làm càn nên đã
lập di chúc theo lời của người con cả. Bản di chúc này sẽ khơng có hiệu lực vì
đã vi phạm tính tự nguyện của chủ thể, ông A trong trường hợp này đã bị người
con cả áp đặt ý chí.
2.4.

Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật.

Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao
dịch. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân
sự, nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó
xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra6.
Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó: bằng



lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể. chỉ trong một số trường hợp đặc biệt
thì pháp luật mới có u cầu về hình thức, buộc các chủ thể phải thực hiện như:
yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin

phép. (khoản 2 Điều 117 và khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015)
Về hình thức bằng lời nói: Đây là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện
nay mặc dù độ xác thực của hình thức này là thấp nhất. Giao dịch bằng lời nói
thường được sử dụng đối với các loại giao dịch được thực hiện ngay và chấm
dứt ngay sau đó như mua bán trao tay hoặc giữa các chủ thể thân tín với nhau.
tuy nhiên cũng có các giao dịch bằng hình thức lời nói phải đảm bảo tn thủ
theo các quy định của pháp luật thì mới có hiệu lực, ví dụ như di chúc miệng.
6 Trường đại học Luật Hà Nội- Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, NXB Công an nhân dân [trg144]

15


Về hình thức văn bản gồm có văn bản thường và văn bản có cơng chứng,
chứng thực của ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền.”
Văn bản thường: văn bản thường được áp dụng trong các trường hợp các
bên tham gia giao dịch dân sự thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao
dịch phải thể hiện bằng văn bản. Nội dung giao dịch phải có chữ ký của
hai bên chủ thể. Đây là chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào giao
dịch dân sự rõ ràng hơn so với hình thức bằng lời nói
Văn bản có cơng chứng, chứng thực: được áp dụng trong các trường hợp
luật định giao dịch dân sự bắt buộc phải được lập thành văn bản hoặc các
bên có thỏa thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép
khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó như mua
bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất.
Với hình thức giao dịch bằng hành vi: giao dịch dân sự có thể được xác lập
thơng qua các hành vi nhất định theo quy ước từ trước như mua bánh ở máy bán
hàng tự động, gọi điện ở boot điện thoại cơng cộng... đây là hình thức giản tiện
nhất vì khơng cần có sự xuất hiện đầy đủ của hai bên chủ thể. hình thức này
đang ngày càng phổ biến chủ yếu là ở các nước có nền cơng nghiệp tự động hóa
hiện đại.

Ví dụ về hình thức của giao dịch dân sự: A góp vốn vào cơng ty của B
bằng cách chuyển giao quyền sử dụng đất của mình cho B. Tuy nhiên hợp đồng
này chỉ có chữ ký của hai bên chứ khơng có cơng chứng, chứng thực và chưa có
đăng ký vào sổ địa chính tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013: “Hợp
đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng
thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”
nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này vi phạm điều kiện về hình
thức, khơng được cơng chứng, chứng thực thì vơ hiệu (trừ trường hợp đã thực
hiện 2/3 nghĩa vụ và được áp dụng quy định tại Điều 129 của BLDS 2015).
16


Tuy nhiên quy định về hình thức của giao dịch dân sự không rõ ràng, là cơ
hội cho những chủ thể khơng trung thực lạm dụng, vì vậy khoản 2 Điều 117 là
một quy định không cứng nhắc và không coi là điều kiện bắt buộc để giao dịch
dân sự có hiệu lực.
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất
trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng
thể mối quan hệ biện chứng này.

3.

Thực trạng pháp luật và một số giải pháp hồn thiện quy định về điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
3.1.

Thực trạng pháp luật hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự




BLDS 2015 đã ra đời và có hiệu lực thi hành được một khoảng thời gian đủ

dài để ta có thể thấy và đánh giá được các ưu, nhược điểm của nó, đặc biệt trong
bài viết này, là các ưu, nhược điểm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự. BLDS 2015 đã có những quy định cụ thể, chi tiết và được coi là khá phù hợp
với thực tiễn áp dụng, tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn đọng một số điểm chưa
thực sự phù hợp:
Thứ nhất, điều kiện về năng lực chủ thể. Quy định liên quan đến điều kiện
về năng lực chủ thể đưuọc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 chưa thực sự rõ
ràng nên có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất, chủ thể
của giao dịch dân sự phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập, Cách hiểu thứ hai, chủ thể trực tiếp tham gia vào
quá trình đàm phán, thoả thuận và xác lập giao dịch dân sự phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, cá nhân là người đủ 18 tuổi nhưng lại
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức và làm chủ
hành vi, nhưng không bị toả án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, thi về
17


nguyên tắc cá nhân này vẫn được xác định là người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Song thực tế, khi cả nhân này xác lập, thực hiện gia dịch dân sự, hay cụ
thể là hợp đồng thì sẽ khơng đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và của người thân thích. Đây là một vấn đề không xảy ra nhiều trên thực tế
nhưng nếu xảy ra sẽ khó có thể giải quyết một cách triệt để khi về mặt pháp lý
cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, còn về thực tế lại có thể khơng có
bất cứ khả năng nhân thức nào
Thứ hai, điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể. BLDS 2015 vẫn chưa có

quy định nhằm định nghĩa về tự nguyện, đồng thời cũng chưa có quy định nhằm
xác định cụ thể những trưởng hợp nào việc giao dịch dân sự bị coi là vi phạm sự
tự ngun7. Chính vì thế, việc xác định các điều kiện để được coi là tư nguyện
và các trường hợp bị coi là vi phạm sự tự nguyện khi xác lập giao dịch dân sự
vẫn chỉ tồn tại trong khoa học pháp lý. Hiện nay vẫn đang tồn tại những quan
điểm mâu thuẫn nhau liên quan đến việc xác định các trường hợp bị coi là vì
phạm sự tư nguyện trong giao dịch dân sự.”
Thứ ba, về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Mặc dù BLDS 2015 đã có quy định
nhằm khai quát điều cấm của luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu các
quy định có liên quan cho thấy, chỉ có điều cấm của luật mới bảo đảm sự rõ ràng
khi áp dụng bởi vì điều cấm ln được luật quy định, nên chỉ cần xem xét quy
định đối với trường hợp cụ thể để áp dụng. Song việc xác định mục đích và nội
dung của giao dịch dấn sự trái đạo đức xã hội là việc không đơn giản và thậm
chí là khó khăn, dễ dẫn đến sự tuỳ tiện trong áp dụng. Hiện tại, BLDS và các
luật có liên quan không chỉ ra cụ thể các trường hợp bị coi là trái đạo đức xã hội
nên để xác định điều này cần phải căn cứ vào việc xác minh ở địa phương nơi
diễn ra việc xác lập giao dịch dân sự. Điều này là hết sức khó khăn và dễ xảy ra

7 Trịnh Thị Hòa (2017), Giao dịch dân sự ô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, luận văn thạc
sỹ luật học Trường Đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn Minh Tuấn hướng dẫn, 2017

18


các mâu thuẫn trong việc xác định, bởi quan niệm về đạo đức ở mỗi địa phương
khác nhau lại có thể khác nhau.


Thứ tư, điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự. Hiện nay còn tồn tại sự


mâu thuẫn giữa các quy định về hình thức của giao dịch dân sự, đặc biệt và cụ
thể là hợp đồng trong BLDS và các luật chuyên ngành. Ví dụ, theo quy định tại
khoản 1 Điều 5 Luật công chứng năm 2014, thì hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất sẽ có hiệu lực tại thời điểm được công chúng, nhưng theo quy định tại Điều
503 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có hiệu
lực từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai 8. Như vậy, đã có sự
khác biệt giữa Luật công chúng với BLDS và Luật đất đai về điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng Theo quy định của Luật cơng chứng thì hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất chỉ cần được công chứng là đủ điều kiện có hiệu lực,
song BLDS và Luật đất đai lại yêu cầu phải đăng ký sau khi đã công chứng hoặc
chứng thực. Sự mâu thuẫn này tồn tại từ lâu nhưng đến thời điểm hiện nay vẫn
chưa được giải quyết Điểu này ít gây khó khăn trong q trình áp dụng nhưng
lại khiến cho các quy định của các luật triệt tiêu nhau. Rõ ràng, đối chiếu với ví
dụ ở trên thì quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật cơng chứng năm 2014 khơng có
giá trị đối với các hợp đồng chuyển quyển sử dụng đất. “
BLDS 2015 quy định về điều kiện bắt buộc về hình thức đó là ghi nhận các
trường hợp hợp đồng vi phạm quy định bắt buộc về hình thức vẫn khơng bị vơ
hiệu ở Điều 129. Theo đó, nếu ít nhất một bên đã thực hiện được hai phần ba
nghĩa vụ từ hợp đồng thì hợp đồng khơng bị vơ hiệu. Tuy nhiên, cách xác định
hai phần ba này còn chưa rõ ràng, cụ thể. Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có
một văn bản nào được ban hành mà có liên quan đến vấn đề này. Do đó, việc áp
dụng quy định này vào thực tiễn cũng khơng hề dễ dàng. Ngồi ra, tại khoản 1
Điều 129 còn xác quy định “trường hợp giao dịch được xác lập theo quy định
bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật” nhưng cho đến nay
8 Nguyễn Văn Cừ- Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học Bộ Luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng Hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nxb Công an nhân dân, Hà Nội,2017

19



cũng chưa có văn bản luật nào đưa ra quy định về hình thức văn bản của hợp
đồng, nên việc xác định văn bản đó có đúng quy định của luật hay khơng cũng là
vấn đề khó khăn, thậm chí là khơng có tính thực tiễn.
3.2.

Một số kiến nghị, hồn thiện pháp luật về điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự

Thứ nhất, đối với điều kiện về chủ thể, cho dù chủ thể trực tiếp hoặc không
trực tiếp giao kết thì cũng đều phải có đủ điều kiện về năng lực pháp luật - tức là
có quyền trực tiếp xác lập hợp đồng hoặc có quyền đại diện cho người khác
trong việc xác lập hợp đồng. Theo quy định về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân hồn tồn có thể xác định được người trực tiếp xác lập giao dịch dân sự
phải có năng lực hành vi dân sự phù hợp. Song, cách quy định “chủ thể có năng
lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập” là chủ thể của giao dịch
dân sự hay người trực tiếp xác lập giao dịch dân sự. Bởi thực tế, có thể người
trực tiếp xác lập hợp đồng cũng chính là chủ thể của hợp đồng hoặc có thể là hai
người khác nhau. Để bảo đảm sự thống nhất các cách hiểu về điều kiện này, kiến
nghị sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau: “Chủ
thể xác lập giao dịch có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch được xác lập".


Thứ hai, pháp luật hiện hành cần có những quy định cụ thể về định nghĩa thế

nào là tự nguyện và phải xác định các trường hợp bị coi là khơng có sự tự
nguyện khi xác lập giao dịch dân sự
Thứ ba, đối với điều kiện về nội dung của giao dịch dân sự không được vi
phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, như đã phân tích ở trên thì việc

xác định quy chuẩn đạo đức chung là một việc không dễ dàng, do vậy, thiết nghĩ
rằng việc luật hóa các trường hợp bị coi là vi phạm đạo đức xã hội là hoàn toàn
hợp lý. Bởi lẽ, đạo đức xã hội phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của cộng đồng xã
hội tại đại phương nơi xác lập giao dịch dân sự.
20


Thứ tư, điều kiện về hình thức của hợp đồng. chính vì có sự mâu thuẫn giữa
các đạo luật như đã phân tích ở trên nên việc các nhà làm luật quy định lại và
thống nhất các điều khaorn này là hoàn toàn cần thiết. Đồng thời, về quy định
hai phần ba nghĩa vụ hợp đồng và giao dịch được xác lập theo quy định bằng
văn bản nhưng avwn bản không đúng quy định của luật (tại khoản 1 Điều 129)
cũng là các hạt sạn cần được làm mịn. thiết nghĩ, đối với trường hợp này thì
phương pháp tối ưu nhất chính là các nhà làm luật cần giải thích rõ hoặc đưa ra
cách xác định hai phần ba nghĩa vụ từ giao dịch, đồng thời cũng cần có quy định
cụ thể liên quan đến hìn thức chuẩn của văn bản hợp đồng. Vấn đề hình thức


chuẩn cũng có thể giải quyết theo hướng sửa quy định tại khoản 1 Điều 129
thành “giao dịch dân sự được xác lập không tuân theo quy định bắt buộc bằng
văn bản”.

21


C. KẾT LUẬN

Qua những phân tích và ví dụ tình huống cụ thể ở trên đã phần nào chứng




minh được tầm quan trọng cũng như những nội dung, thể hiện được phần nào đó
bản chất của những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà BLDS 2015
đã quy định. Có thể thấy, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
là quy định có vai trị quan trọng trong việc hiện thực hoả các thoả thuận của các
bên chủ thể trên thực tiễn. Điều này là bởi sự thoả thuận của các bên chỉ được cụ
thể hoả khi các bên thực hiện các quyển và nghĩa vụ phát sinh từ thoả thuận đó.
Trong khi đó, điều kiện tiên quyết để thực hiện thoả thuận này đó chính là việc
thoả thuận đó đã có hiệu lực pháp luật hay chưa.
Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được ghi nhận ngay từ khi
pháp luật về giao dịch dân sự hiện trong lịch sử loài người. Ở Việt Nam, mỗi
thời kỳ khác nhau, khi các quy định mới được thông qua, các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng đều có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên, những sửa đổi này cũng có những điểm tiến bộ, nhưng cũng có
những sự hạn chế mà vơ tính trở thành rào cản cho việc thực thi pháp luật về
giao dịch dân sự trên thực tế. Điều này địi hỏi phải có những nghiên cứu về giao
dịch dân sự nói chung, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói riêng,
nhằm hồn thiện hơn nữa các quy định này.



Tổng kết lại, trong bài viết của mình, em đã nghiên cứu, phân tích và chỉ ra
những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến giao dịch dân sự và điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự. Trong đó, chỉ ra được khái niệm giao dịch dân sự, điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Những vấn đề lý luận trên cơ sở quy định
của pháp luật là tiền đề cho sự phân tích, nghiên cứu và đánh giá, từ đó chỉ ra
được một số bất cập còn tồn tại. Từ những phân tích, đánh giá đó, em đã mạo
muộn đưa ra những ý kiến đóng góp nhỏ bé có giá trị tham khảo cho q trình
hồn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về giao dịch dân sự nói riêng


22


Từ những điều kiện của giao dịch dân sự này sẽ giúp chúng ta xác định được
hiệu lực pháp lý của các giao dịch, giao dịch nào có hiệu lực, giao dịch nào vơ
hiệu từ đó tránh được các hậu quả pháp lý và hủy đi được những giao dịch sai
phạm, bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao dịch, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; giúp cho pháp luật cơng
bằng, xã hội bình đẳng, trong sạch, văn minh.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015
2. Luật Đất đai 2013
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 1),
Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2017 (tái bản có chỉnh sửa).
4. Phạm Văn Tuyết, Mục 6: Giao dịch dân sự [trang 129-132], Hướng dẫn
học phần luật dân sự: học phần 1, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2017
5. Nguyễn Văn Cừ- Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học Bộ Luật Dân sự năm
2015 của nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nxb Công an nhân
dân, Hà Nội,2017
6. Trịnh Thị Hịa (2017), Giao dịch dân sự ơ hiệu và hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu, luận văn thạc sỹ luật học Trường Đại học Luật
Hà Nội, TS. Nguyễn Minh Tuấn hướng dẫn, 2017
7. Trường Quân (2021), Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, bài viết
đăng trên trang thông tin điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2021
8. />9. />10. />
24



PHIẾU CHẤM ĐIỂM HÌNH THỨC THI BÀI TẬP LỚN/TIỂU LUẬN

Điểm, Chữ kí (Ghi rõ họ tên) của cán bộ
chấm thi

Điểm thống nhất của bài thi

CB chấm thi số 1

Bằng số

CB chấm thi số 2

Chữ kí
xác nhận
của cán bộ
nhận bài
thi

Bằng chữ

Trang này sinh viên đóng vào cuối tiểu luận/bài tập lớn (sau trang bìa sau)

25


×