Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tài liệu Luận văn: Sự hình thành và những hoạt động của ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.38 KB, 27 trang )



1




Luận văn
Sự hình thành và những
hoạt động của ban nghiên
cứu chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế


2
LỜI NÓI ĐẦU
Khi nền kinh tế nước ta phải đối mặt với những khó khăn to lớn:
trong khi nhiều tiềm năng chưa được phát huy thì sản xuất trì trệ, đình
đốn; đầu tư giảm mạnh; hoàng hóa khan hiếm; lạm phát ngày một gia
tăng; nhiều lao động không có việc làm hoặc thiếu việc làm; đời sống của
nhân dân không được cải thiện, thậm chí có mặt còn giảm sút; tình hình
xã hội có nhiều diễn biến phức tạp;… Nhìn một cách tổng thể khi đó nền
kinh tế thiếu động lực phát triển; một bộ phận không nhỏ người lao động
và cán bộ quản lý bộ phận không nhỏ người lao động và cán bộ quản lý
không quan tâm tới việc phát triển sản xuất, kinh doanh, do vậy năng suất
lao động vốn đã thấp lại càng giảm sút, làm cho nền kinh tế ngày càng
suy thoái.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước đã quyết định thành lập
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và giao cho Viện nhiệm vụ
tổng kết tình hình thực tế, nghiên cứu lý luận, tìm ra những định hướng
và giải pháp phá bỏ những cái lỗi thời của cơ chế quản lý cũ, xây dựng cơ


chế quản lý mới phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và xu thế
chung của thờ đại nhằm từng bước xoay chuyển tình thế, tạo ra động lực
mới cho phát triển đất nước. Việc còn có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trung cao cấp của trung ương, tỉnh và huyện nhằm trang bị
cho số cán bộ này những kiến thức mới về quản lý kinh tế và truyền đạt
những tư tưởng mới của Đảng và nhà nước về đổi mới kinh tế và quản lý
kinh tế.
Viện đã đưa ra những nghị quyết và những quyết định mang tính
đột phá mạnh mẽ vào cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp và
đã thực sự góp phần quan trọng tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Từ những năm mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, viện được chính phủ giao chủ trì xây dựng 6 dự án
luật trình Quốc Hội xem xét và ban hành, đó là: Luật công ty, luật doanh
nghiệp tư nhân; luật khuyến khích đầu tư trong nước; luật doanh nghiệp
nhà nước; luật hợp tác xã; luật phá sản doanh nghiệp. Cùng với các Luật


3
khác, những luật này góp phần vào việc hình thành và hoàn thiện môi
trường pháp lý cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế tuy chỉ thực
hiện đến năm 1990 nhưng đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đổi mới của đất nước. Hơn 10000 cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước
từ cấp trung ương đến cấp huyện, doanh nghiệp nhà nước và một số
trường đại học, viện nghiên cứu khoa học đã đước bồi dưỡngnâng cao
kiến thức tại trường quản lý kinh tế trung ương và tại Liên xô(cũ). Những
tư tưởng cốt lõi của Lênin trong chính sách kinh tế mới và những tư
tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế và quản lý kinh tế đã

được đội ngũ cán bộ thống nhất nhân thức đúng đắn, sâu sắc. Kết quả này
đã góp phần tạo ra những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới
của đất nước ta.




















4
I- Lịch sử hình thành, chức năng và nhiệm vụ của
Viện quản lý kinh tế Trung ương.
1- Lịch sử hình thành của Viện.
Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng Đảng đã tập trung sức
lãnh đạo khôi phục, cải tạo nền kinh tế và bắt đầu công cuộc xây dựng
cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ

nhất (1961 – 1965 ). Thành tựu đạt được là rất to lớn, song từ cuối
1965 chiến tranh lan rộng ra miền Bắc đã buộc chúng ta phải chuyển
hướng vừa phát triển kinh tế vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc XHCN,
chi viện cho tiền tuyến lớn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, nhưng ngay từ giữa những
năm 60 chúng ta đã nhận thấy những vướng mắc, trì trệ trong quản lý,
đã bắt đầu phê phán phương thức tổ chức quản lý hành chính – cung
cấp và đề ra nhiều phong trào như Ba xây, Ba chống, Cải tiến quản lý
HTX nông nghiệp vòng I, vòng II,… Nhà nước cũng đã mời các
chuyên gia cố vấn của CHDC Đức sang giúp đỡ, nhằm khắc phục các
vướng mắc, trì trệ trong quản lý, song do những điều kiện khách quan
và chủ quan, công cuộc cải cách kinh tế đã không đạt được tiến bộ
mong muốn và cấp thiết. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất
nước thống nhất, với khí thế phấn khởi hào hùng của cả dân tộc, cả
nước bước vào XHCN với kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 – 1980 ),
song chỉ một thời gian ngắn sau đó tình hình kinh tế lại lâm vào tình
thế khó khăn, bế tắc. Do vậy nhiệm vụ nghiên cứu quản lý kinh tế đã
được đặt ra.
Đại hội IV đã đề ra nhiệm vụ “… Tổ chức lại nền sản xuất xã hội
trong phạm vi cả nước, cải tiến phương thức quản lý kế hoạch hóa làm
chính, kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế…”, “… thực hiện một sự
chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế trong cả nước…”
Thực hiện chủ trương của Đại hội trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
và phát triển kinh tế, Trung ương Đảng và Chính phủ thấy cần thiết
phải có một cơ quan riêng không bị cuốn hút vào công việc điều hành
hàng ngày, chuyên nghiên cứu, nhận xét, đánh giá khách quan quá
trình này và kiến nghị các biện pháp khả thi, hữu hiệu nhằm quản lý


5

ngày một tốt hơn nền kinh tế. Từ yêu cầu đó, Trung ương Đảng và
chính phủ đã lần lượt thành lập một số nhóm, tổ gồm những cán bộ
biệt phái từ các Bộ, ngành, và sau này là Ban thư và Chính phủ. Nhiều
đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ đã trực tiếp phụ
trách các tổ chức nghiên cứu đó như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, phó
thủ tướng Lê Thanh Nghị, Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh…
Trước đòi hỏi ngày càng bức xúc của thực tiễn, yêu cầu cấp bách
phải nghiên cứu có luận cứ về phương thức quản lý kinh tế mới nên đã
thúc đẩy việc chuyển Ban nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế thành
Viện. Do đó, ngày 14 tháng 07 năm 1977 Bộ chính trị Ban chấp hành
Trung ương khóa 4 ra Quyết định 209 – NQ – NS/TW thành lập Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế của Trung ương Đảng và Chính Phủ và cử
đồng chí Nguyễn Văn Trâm làm viện trưởng, đồng chí Đoàn Trọng
Truyến làm phó Viện trưởng. Tiếp theo ngày 10/11/1977 Ban bí thư ra
Quyết định số 04 QĐ/TW quy định nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế
công tác của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW. Căn cứ vào Điều
53 của Hiến pháp năm 1959, điều 3 của Luật tổ chức Hội đồng Chính
Phủ và theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã ban hành Quyết nghị số 215 – NQ/QHK6 ngày 17/4/1978 phê
chuẩn việc thành lập Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, cơ
quan ngang Bộ của Hội đồng chính phủ.
2- Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Viện.
Căn cứ vào quyết nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
chính phủ đã ban hành Nghị định số 111 – CP ngày 18/5/1978 Quy
định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế TW. Theo đó, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW có các
quyền hạn và nhiệm vụ chính sau:
 Nghiên cứu hệ thống quản lý kinh tế XHCN trong cả nước,
nhằm vào nhũng vấn đề chung và quan trọng nhất là: tổ chức lại nền
sản xuất xã hội, cải tiến phương thức quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm

chính; kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế.
Dự thảo các đề án về quản lý kinh tế có nội dung tổng hợp, liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực để trình Hội đồng Chính phủ.


6
Cộng tác với các Bộ, Tổng cục và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố theo một chương trình phân công và phối hợp chung.
Phát biểu ý kiến với Hội đồng Chính phủ về những đề án quản lý
kinh tế do các Bộ, Tổng cục và địa phương trình ra Hội đồng Chính
phủ.
 Tổng kết thực tiễn quản lý kinh tế ở nước ta nghiên cứu vận
dụng các quy luật kinh tế vào công cuộc xây dựng và quản lý kinh tế
trong quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN;
nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và quản lý kinh tế của các nước
XHCN anh em và các nước khác, xây dựng khoa học về quản lý kinh
tế XHCN ở nước ta.
 Tổ chức việc bồi dưỡng cán bộ cao cấp của Nhà nước về quản
lý kinh tế; hướng dẫn các Viện, các trường bồi dưỡng cán bộ về quản
lý kinh tế của các Bộ, các tỉnh và thành phố.
 Thực hiện việc hợp tác và trao đổi kinh nghiệm về công tác
nghiên cứu quản lý kinh tế với các tổ chức hữu quan ở nước ngoài,
theo đúng đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và những quy
định của Nhà nước.
 Hướng dẫn, giúp đỡ về nội dung và phương pháp nghiên cứu
đối với các tổ chức nghiên cứu quản lý kinh tế của các Bộ, Tổng cục
và địa phương.
 Quản lý tổ chức cán bộ, biên chế, kinh phí và tài sản của Viện
theo chính sách và chế độ chung của Nhà nước.
Để thực hiện chức năng nhiệm vụ trên, cơ cấu tổ chức của Viện

theo Nghị đinh số 111 – CP gồm có:
- Ban nghiên cứu tổng hợp.
- Ban nghiên cứu quản lý công nghiệp(gồm cả xây dựng – giao
thông vận tải).
- Ban nghiên cứu quản lý nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp, ngư
nghiệp và thủy lợi).
- Ban nghiên cứu quản lý lưu thông phân phối
- Ban quản lý bồi dưỡng cán bộ cao cấp.
- Văn phòng,


7
Và hội đồng khoa học quản lý kinh tế làm chức năng tư vấn về khoa
học quản lý kinh tế cho Viện trưởng.
Đến năm 1980, nhằm tạo thuận lợi cho việc thống nhất chỉ đạo,
Ban bí thư Trung ương khóa IV đã Quyết định để Viện thôi trực thuộc
Ban bí thư chỉ còn trực thuộc Chính phủ nhung chức năng nhiệm vụ
của Viện giữa nguyên không thay đổi. Trong những năm qua lần lượt
các đồng chí sau đây đã được cử vào các chức vụ Lãnh đạo Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương.
Các đồng chí Viện trưởng:
Nguyễn văn Trân ( 1978 – 1989 ).
Đoàn Duy Thành ( 1991 – 1992 ).
Đoàn Đỗ ( quyền Viện trưởng ) từ 1989 – 1991.
Lê Đăng Doanh (từ 1993).
Các đồng chí phó Viện trưởng:
Đoàn trọng Truyến ( Từ 1978 – 1981 ).
Đoàn Đỗ ( 1981 – 1989 ).
Dương bạch Liên ( 1982 – 1986 ).
Lê Đăng Doanh ( 1991 – 1993 ).

Nguyễn Văn Bích ( từ 1989).
Nguyễn Văn Huy ( 1991 – 1994 ).
Đặng Đức Đạm ( 1995 – 1998 ).
Trần Xuân Lịch ( từ 1998 ).
Lê Xuân Bá ( từ 1998).
Các đồng chí cố vấn cấp cao:
Nguyễn Chân.
Ngô Duy Cảo.
Trần Việt Phương
Ngày 27/10/1992 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 07
– CP giao cho Ủy ban Kế hoạch nhà nước ( nay là Bộ kế hoạch và
Đầu tư) quản lý viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Đến ngày
29/11/1995, căn cứ vào Nghị định số 75 – CP ngày 1/11/1995 của
Chính Phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban


8
hành Quyết định số 17 – BKH/TCCB (ngày 29/11/1995) quy định
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý
kinh tế TW ( trong Bộ kế hoạch và Đầu tư).
Các chức năng, nhiệm vụ của Viện hiện nay được quy định là:
 Dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư, phối hợp
với các đơn vị trong bộ, các ngành, các địa phương xây dựng các đề
án chính sách kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hóa, các dự
án luật, pháp lệnh và văn bản dưới luật thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế
do Nhà nước giao, trên cơ sở tổng kết thực tiễn kinh tế và quản lý kinh
tế trong nước, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý kinh tế tầm
vĩ mô và vi mô.
Tổ chức nghiên cứu đề xuất và thí điểm áp dụng những cơ chế

chính sách, mô hình tổ chức quản lý kinh tế mới, đáp ứng yêu cầu của
thực tế kinh tế - xã hội.
 Nghiên cứu lý luận và phương pháp luận khoa học quản lý kinh tế,
từng bước góp phần xây dựng chương trình cải cách kinh tế và phát
triển khoa học kinh tế ở Việt Nam.
 Hợp tác nghiên cứu với các tổ chức và cơ quan trong nước và
ngoài nước trên lĩnh vực quản lý kinh tế; thực hiện công tác tư vấn về
quản lý kinh tế và bồi dưỡng, đào tạo cán bộ (kể cả trên đại học khi có
điều kiện).
 Tổ chức quan lý các hoạt động của Câu lạc bộ Giám đốc Trung
ương và thực hiện những nhiệm vụ khác theo sự phân công của Bộ
trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư.
Cơ cấu tổ chức của Viện hiện nay bao gồm các phòng ban:
 Ban nghiên cứu chính sách vĩ mô.
 Ban nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp.
 Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
 Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông
thôn.
 Ban nghiên cứu khoa học quản lý kinh tế.
 Hội đồng khoa học.
 Ban nghiên cứu khoa học quản lý.


9
 Trung tâm tư vấn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản
lý.
 Tạp trí quản lý kinh tế.
 Trung tâm thông tin và tư liệu.
 Văn phòng viện.
Ngoài ra Viện còn trực tiếp quản lý hoạt động của Câu

lạc bộ Giám đốc Trung ương.
Ban lãnh đạo của Viện hiện nay:
Viện trưởng: TS Đinh Văn Ân.
Các phó Viện trưởng: TS Lê Xuân Bá.
Trần xuân Lịch.
TS Nguyễn Xuân Trình.
II- Những hoạt động của Viện quản lý kinh tế Trung
ương trong những năm qua.
Sự ra đời của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương là để đáp
ứng những đòi hỏi của sự nghiệp quản lý kinh tế ở nước ta; được thùa
hưởng những kết quả và kinh nghiệm nghiên cứu của các tổ chức tiền
thân, gắn bó và bám sát cuộc sống đầy năng động của đất nước, biết
tập hợp các lực lượng nghiên cứu trong nước và sớm tham gia vào quá
trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với chuyên gia của các tổ chức
quốc tế và nước ngoài, do đó Viện đã thực thi được nhiệm vụ Nhà
nước giao và làm được một số việc rất cơ bản.
1- Những thành tựu của Viện đã đạt được trong các năm qua.
Do bám sát thực tế, tổng kết những sáng kiến tự phát từ cơ sở, kết
hợp với tam khảo kinh nghiệm nước ngoài Viện đã mạnh dạn đề xuất
sáng kiến “đổi mơi”. Điều này không phải do trình độ lý luận cao siêu
hay một sáng tạo gì ghê gớm; chúng ta chỉ biết là không thể làm như
cái cũ, không thể chấp nhận cái cũ phải “đổi mới”. Khái niệm “đổi
mới” quản lý kinh tế đưa ra từ đó (11/1978). Mặt khác chúng ta cũng
tiếp thu được thông tin từ bên ngoài, chủ yếu từ kinh nghiệm của Liên
Xô, về thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP). Nội dung dự thảo đề
cương “thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý
kinh tế” đã thể hiện rất nhiều sự “đổi mới”. Và cũng chính Viện đã


10

chủ động kiến nghị với Chính phủ và đước Thủ tướng chấp nhận
chuẩn bị báo cáo trình ra Hội nghị lần thứ 6 của BCH TW (khóa IV),
khởi đầu cho thời ký đổi mới kinh tế ở nước ta.
Được Đảng và Chính phủ giao chủ trì nghiên cứu nhiều đề án lớn
về đổi mới quản lý trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng nhằm cụ thể
hóa chủ trương của các nghị quyết Trung ương, Nghị quyết Đại hội
Đảng ví dụ một số đề án quan trọng như: đề án của BCT khóa IV
quyết định ra Nghị quyết 26- NQ/TW (1980) về công tác phân phối
lưu thông; Quyết định 25,26-CP (1981) cụ thể hóa Nghị quyết TW 6
khóa IV (1979) về cải tiến quản lý xí nghiệp; Các đề án nhằm cụ thể
hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI như đề án về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp, cơ chế chính sách đối với khu vực ngoài quốc
doanh để Bộ chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết 10 và 16-NQ/TW
(1988), đề án về đổi mới quản lý xí nghiệp quốc doanh để Chính phủ
ban hành quyết định số 217-HĐBT, đề án về chính sách đối với kinh
tế cá thể và doanh nghiệp tư nhân trong nông lâm, ngư nghiệp để
Chính phủ ban hành Nghị định số 170-CP(1980) và 6 dự án Luật trình
Quốc hội ban hành trong thời gian nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng.
Ngoài ra còn có nhiều đề án khác mà Viện được giao chủ trì hoặc
tham gia với cơ quan khác nghiên cứu trình cấp trên.
Sớm đề xuất với TW về việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về
kinh tế. Ngay trong bản “dự thảo đề án”(11/1978) Viện đã kiến nghị
cần mở rộng kinh tế đối ngoại và coi kinh tế đối ngoại là bộ phận của
đường lối kinh tế, là một nhân tố tạo cơ cấu kinh tế mới của nước ta,
một cách tốt nhất để sớm phát huy lao động, tài nguyên đất, rừng,
biển, thực hiện công nghiệp hóa. Tính toán kỹ dám dùng biện pháp cởi
mở, mạnh bạo, tìm nhiều cách thu hút đầu tư từ ngoài phát triển nhiều
hình thức hợp doanh và hợp tác, nhiều kiểu trao đổi kinh tế với nước
ngoài. Xuất khẩu lao động tại chỗ bằng con đường gia công cho nước
ngoài. Cho phép các nước ngaòi đặt các đại lý trên đất nước ta để bán

sản phẩm công nghiệp, thiết bị, phụ tùng, vật tư cần thiết cho nền sản
xuất nước ta. Chung vốn với nước ngoài để đầu tư xây dựng một số
công trình công nghiệp thích hợp trên đất nước ta để cùng nhau chia


11
sản phẩm, lợ nhuận… Việc hợp tác kinh tế khoa học – kỹ thuật của ta
trước hết hướng vào khối SEV, vào các nước láng giềng, với các nước
đang phát triển và các nước tư bản. Vừa tranh thủ hợp tác giữa chính
phủ với chính phủ, vừa hợp tác giữa các đoàn thể, các tổ chức kinh tế
xã hội, của nhân dân bằng nhiều con đường, phương thức khác nhau.
Đã đạt được kết quả nhất định trong công tác bồi dưỡng kiến thức
quản lý cho đội ngũ cán bộ trung cao cấp và cán bộ cơ sở trong cả
nước. Thực chất của việc bồi dưỡng này không phải là nâng cao trình
độ quản lý cho cán bộ mà làm xoay chuyển tư duy của họ, trang bị
một số quan điểm mới về quản lý kinh tế, một cách nhìn mới về hiện
trạng kinh tế nước ta.
Trong các kiến nghị về đổi mới kinh tế và quản lý kinh tế Viện
luôn bám sát đường lối của Đảng và coi trọng, đề cao các quy luật
kinh tế khách quan, đặc biệt là quy luật giá trị. Tư tưởng nghiên cứu
của Viện là coi trọng và chú ý đúng mức đến việc tìm tòi, sử dụng quy
luật giá trị gắn với hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Giá cả là vấn
đề quan tâm đầu tiên trong các kiến nghị, do hệ thống giá của ta có
nhiều điểm không sát với thực tiễn, phải cải cách nó một cách cơ bản
để tiến tới hệ thống một giá biến động theo quan hệ cung-cầu. Trước
mắt phải điều chỉnh và cải tiến chính sách giá cho phù hợp theo hướng
làm cho giá cả sát với giá trị để thúc đẩy sản xuất và tăng năng suất;
đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, xuất khẩu; bớt bù lỗ, bớt gánh
nặng cho ngân sách. Hỗ trợ cho lưu thông tiền tệ, giảm bội chi tiền
mặt và lạm phát. Một vấn đề khó của nhiều nước trên thế giới cũng

như của nước ta là xử lý vấn đề lạm phát. Ngay từ năm 1978 Viện đã
nêu là phải đánh giá đúng tình hình lạm phát và có biện pháp chống
lạm phát. Tuy nhiên do chưa hiểu thấu đáo nên chúng ta chưa tìm ra
đước các biện pháp hữu hiệu để chống và đẩy lùi lạm phát. Chúng ta
cũng thấy những vấn đề bức xúc trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, cần
phải có sự đổi mới, nếu không sẽ cản trở sự phát triển sản xuất và ổn
định đời sống. Đồng thời Viện cũng thấy phải sớm đổi mới công tác
kế hoạch hóa cả về nội dung và phương pháp, gắn kế hoạch với thị
trường, sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ trong công tác kế hoạch


12
hóa. Quyết đinh 25 – CP là kết quả dầu tiên của việc đưa kiến nghị đổi
mới kế hoạch hóa vào cuộc sống của xí nghiệp công nghiệp.
Thấy rõ những bất hợp lý, lạc hậu, vênh váo của cơ cấu kinh tế,
cùng những ảnh hưởng của nó đến quá trình phát triển của đất nước;
Viện đã kiến nghị phải sắp xếp lại kinh tế, tập trung sức cho một số
chương trình trọng điểm, rà soát, sắp xếp lại các cơ sở kinh tế quốc
doanh dựa trên hiệu quả của sản xuất kinh doanh, nhưng việc làm này
chưa đạt.
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất
nước, Viện cho rằng đã đến thời điểm cần phải luật pháp hóa các chủ
trương, chính sáhc của Đảng và Nhà nước từng bước thành hệ thống
luật pháp tạo môi trường cho các thành phần kinh tế hoạt động và phát
triển. Viện đã kiến nghị với Nhà nước và được giao chủ trì nghiên cứu
soạn thảo để trình Quốc hội thông qua 6 luật đối với các tổ chức kinh
tế.
2- Những hạn chế, chưa làm được, chưa nghĩ tới đầy đủ.
Ngày nay sau hơn 10 năm đổi mới với tư duy được đổi mới, khi cơ
chế đã từng bước chuyển đổi theo hướng thị trường, khi cơ cấu kinh tế

đã có những chuyển biến bước đầu, việc xem xét lại các việc làm vừa
qua để thấy rõ mặt ưu điểm và khuyết điểm đã có nhiều căn cứ vả lý
luận và thực tiễn. Chúng ta là người sống trong sự biến đổi của thời
đại, nên suy nghĩ, việc làm cũng không thể tách biệt khỏi thời đại. Tuy
đó không phải là lý do để biện minh cho những việc chưa làm được,
hay suy nghĩ chưa đầy đủ nhưng chúng ta có thể nhìn lại mình một
cách khách quan để xác định hướng đi cho tương lai.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng số một của Viện khi thành
lập là: “nghiên cứu hệ thống quản lý kinh tế XHCN trong cả nước”,
trong hơn 20 năm hoạt động Viện đã có nhiều cố gắng trong nghiên
cứu lý luận và thực tiễn để đóng góp với Đảng và Nhà nước trong sự
nghiệp đổi mới quản lý kinh tế đất nước, song đến nay việc hình dung
một cách có hệ thống, rõ rệt “hệ thống quản lý kinh tế XHCN” hay nói
cách khác là hình thành một chiến lược quản lý lâu dài cho đất nước
như thế nào cả về mặt lý luận và thực tiễn hiện vẫn đang là vấn đề còn


13
bỏ ngỏ. Đây là nhiệm vụ nặng nề, rất khó khăn đòi hỏi đội ngũ cán bộ
nghiên cứu khoa học của các Viện lớn và cả nước trong đó có cán bộ
của Viện phải có nhiều nỗ lực vượt bậc trong nghiên cứu, lấy nghiên
cứu trong nước là chính kết hợp nghiên cứu nước ngoài. Và phải
nghiên cứu các mô hình khác nhau, các học thuyết khác nhau… và có
thời gian cần thiết mới có đóng góp xứng đáng. Từ khi Viện vào Bộ
Kế hoạch và Đầu tư thì nhiệm vụ này không được đặt ra rõ ràng. Tuy
nhiên đây là việc lớn cần tiếp tục tập trung sức nghiên cứu mà Viện
không nên thoái thác.
Trong quản lý kinh tế, nhất là quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị
trường, các công cụ quản lý vĩ mô luôn đóng vai trò quan trọng mang
tính công phạt lớn, song việc đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận và thực

tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta để vận dụng, đặc biệt là vai trò,
vị trí của các công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
ở nước ta là những công cụ gì, kế hoạch có là công cụ quan trọng số
một hay không? Có phải là yếu tố tất yếu của cơ chế có ý nghĩa là “Có
sự quản lý của Nhà nước”, bằng luật pháp, kế hoạch, hay chính sách?
Sử dụng như thế nào đối với từng công cụ vẫn đang là những câu hỏi
chưa có lời giải đầy đủ.
Viện đã có một số đóng góp trong quá trình đổi mới quản lý doanh
nghiệp Nhà nước từ nhiều năm nay, song đến nay vấn đề cải cách
doanh nghiệp nhà nước là vấn đề gai gốc và có nhiều tranh cãi, vướng
mắc cần phải được nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn để có những lời
giải có hiệu quả hơn.
Hiện tại và tương lai dài hơn đối với nền kinh tế nước ta, nông
nghiệp, nông thôn vẫn đóng giữ vị thế quan trọng và chủ yếu cả về giá
trị sản lượng trong thu nhập quốc nội và dân cư, lao động. Nhưng sau
hơn 10 năm đổi mới nhiều vấn đề của nông nghiệp, nông thôn vẫn
đang đặt ra, mô hình tổ chức sản xuất là gì? Hay nông trại,… Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn bằng cách gì? Bắt đầu từ
đâu? Để đưa nông nghiệp nông thôn sang thời kỳ mới, thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa… chung lại lĩnh vực quan trọng này cũng


14
đang đặt ra khá nhiều vấn đề về quản lý đòi hỏi sự nghiên cứu công
phu, nghiêm túc cả về lý luận và thực tiễn.
Trong lĩnh vực phân phối lưu thông tài chính – ngân hàng – giá …
chưa được tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản ở tầm chỉ đạo chung
của nhà nước cũng như bản thân Viện chưa tập trung lực lượng để
nghiên cứu, đồng thời năng lực nghiên cứu về lĩnh vực này còn hạn

chế nhiều.
Ngay từ ngày bắt đầu khi mới thành lập Viện đã sớm nhận thức về
vai trò, vị trí của việc phát triển kinh tế đối ngoại, về mở cửa nền kinh
tế. Song việc nghiên cứu nó không được tiếp tục thường xuyên. Cho
dù Bộ thương mại và các Viện kinh tế khác có nghiên cứu, nhưng
dưới góc độ nghiên cứu cơ chế tổng thể quản lý nền kinh tế, Viện cần
phải đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu lĩnh vực quan trọng này – một
trong các lĩnh vực cốt tử của chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Trong thời đại mở cửa, hội nhập, cơ chế quản lý nào là thích hợp cần
hội nhập? mà không mất tính tự chủ?
Chưa chú ý nghiên cứu bộ máy Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội.
Việc nghiên cứu này Nhà nước không giao cho Viện nghiên cứu.
Nhưng với tư cách là một cơ quan nghiên cứu tham mưu tư vấn, nếu
không chú ý đúng mức tới việc nghiên cứu bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế sẽ là một lỗ hổng cho dù trong những kiến nghị đầu tiên về
đổi mới quản lý kinh tế, công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chiếm vị
trí mấu chốt trong các mấu chốt.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý đã thu được kết quả
nhất định, góp phần xây dựng và tạo lập cho đội ngũ cán bộ cách nhìn
nhận, tư duy mới hơn trước về hiện trạng kinh tế của nước ta, chưa
trạng bị cho đội ngũ này về đào tạo, bồi dưỡng quản lý cho đội ngũ
cán bộ trung, cao cấp, mới chỉ dựa vào Liên Xô là chính; sau này có
mở ra các tổ chức quốc tế và một số nước song lại thu hẹp phạm vi,
đối tượng chủ yếu bồi dưỡng kiến thức cho các nhà doanh nghiệp.
Việc giải thể trường quản lý kinh tế Trung ương (1990) đã tạo ra
một khoảng trống, nếu không nói là hẫng hụt, trong việc tiếp tục đào
tạo, bồi dưỡng có hệ thống về kiến thức quản lý kinh tế cho đội ngũ


15

cán bộ trung, cao cấp của nước ta. Về việc này trước khi vào Bộ kế
hoạch và Đầu tư Viện có một số lần đưa ra đề án kiến nghị với Chính
phủ tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng song không được chấp nhận, đến
nay vẫn còn là khoảng trống trong lĩnh vực này.
3- Những bài học kinh nghiệm.
 Sau những năm hoạt động, Viện đã có những việc đã làm được và
chưa làm được. Nhưng từ đó có thể rút ra những bài học, những kết
luận về sự thành công và chưa thành công.
Nghiên cứu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế là quá trình liên tục
hoàn thiện nhất là trong điều kiện đang trong quá trình chuyển đổi,
cần bám sát thực tiễn để tổng kết kinh nghiệm, thăm dò phản ứng kết
quả để hoàn thiện nội dung, phương pháp và tính sát thực của kiến
nghị. Do vậy có thể rút ra là không thể ngồi trong phòng kín để hoạch
định các chính sách, chủ trương mà muốn nghiên cứu có kết quả phải
gắn với thực tế, từ thực tiễn tổng kết, nâng cao nhưng phải có tư duy
và kiến thức khoa học, phá vỡ một khâu trong vòng luẩn quẩn tư duy
cũ, nếu không thì không thoát khỏi chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chỉ là
minh họa chủ trương của lãnh đạo. Do đó cần có sự hiểu biết thêm
sâu, rộng, ở một trình độ cao, đúc kết thành lý luận làm cơ sở cho
hoạch định chính sách.
Là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, nhận nhiệm vụ trực tiếp của
Chính phủ. Những nhiệm vụ đó chủ yếu đòi hỏi chúng ta giải quyết
các vấn đề hiện tại, xử lý các vấn đề cấp bách. Chúng ta hoàn thành
tương đối có hiệu quả các nhiệm vụ được giao đó. Tuy nhiên, việc này
cũng chỉ giải quyết được các vấn đề trước mắt, chưa đi sâu vào các
vấn đề lương. Ta bằng lòng với cụm từ “phân phối theo lao động” và
tìm mọi cách để thực hiện nguyên tắc này. Còn “phân phối” trong
công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp thế nào, cũng phải nghiên cứu
thu nhập của người lao động, của mọi tầng lớp dân cư, không bó hẹp
trong phạm vi cán bộ công nhân viên chức ăn lương, nghiên cứu lao

động và việc làm, nghiên cứu vấn đề phân phối và phân phối lại thu
nhập quốc dân.


16
 Phải tổ chức nghiên cứu kết hợp tính cơ bản với hiện thực trước
mắt và lâu dài. Chương trình dài hạn với kế hoạch hàng năm thành
một hệ thống nhất.
Trong thời đại ngày nay, nước ta và thế giới, kinh tế nước ta và
kinh tế thế giới có mối quan hệ qua lại rất chặt chẽ, chịu sự tác động
lẫn nhau trong xu thế hội nhập và cạnh tranh. Trong những năm đầu
hoạt động, công tác nghiên cứu chưa thể hiện đúng tầm tới mối quan
hệ này nhất là ảnh hưởng, tác động kinh tế thế giới đối với kinh tế
nước ta và quan hệ kinh tế nước ta với các nước trong khu vực và thế
giới. Trong một thời gian dài hầu như chưa quan tâm đến nghiên cứu
kinh nghiệm của thế giới TBCN, của các nước thế giới thứ ba và nhất
là kinh nghiệm của các nước trong khu vực và ảnh hưởng của nó đối
với nước ta.
 Trong công tác nghiên cứu phải mang tính tổng hợp, có hệ thống
và phải tổng kết từ thực tiễn và thu hút đông đảo các lực lượng nghiên
cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý giỏi từ trung ương đến địa
phương. Đồng thời phải biết sử dụng tổng hợp các yếu tố xã hội –
kinh tế - cùng với môi trường cũng như các trang thiết bị thông tin,…
không nên bó hẹp trong phạm vi một nước, một chiều, mà phải mở
rộng tầm nhìn ra tứ phía chung quanh, không thần thánh hóa cũng
không coi thường bất kỳ kinh nghiệm của các nước nào, không rập
khuôn máy móc kinh nghiệm của họ.
 Trong nghiên cứu cần có sự độc lập, sáng tạo không phụ thuộc,
theo ý kiến cá nhân của một người lãnh đạo nào đó mà phải tôn trọng
khách quan và khoa học. Trong kinh tế - xã hội mỗi hiện tượng đều

diễn ra theo một quy luật khách quan nhất định, không phụ thuộc vào
ý muống chủ quan của mỗi người lãnh đạo, do vậy trách nhiệm của
cán bộ nghiên cứu là phải tìm hiểu nắm bắt quy luật khách quan và
tìm cách sử dụng nó theo hướng có lợi con người và xã hội.
 Là cơ quan nghiên cứu khoa học và tham mưu trong việc hoạch
định chủ trương chính sách về kinh tế và quản lý kinh tế ngoài việc
phải tổ chức nghiên cứu khoa học tạo luận cứ vững chắc cho các kiến


17
nghị, đề xuất, còn cần có sự chỉ đạo, lãnh đạo cao cấp của đất nước,
thì các sản phẩm tạo ra mới có ý nghĩa đóng góp thiết thực và kịp thời.
4- Những hoạt động cần làm của Viện trong thời gian tới.
Đất nước đã chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đặt ra yêu cầu cao hơn hẳn về chất đối với công cuộc đổi
mới; bên cạnh những thuận lợi và thời cơ có nhiều khó khăn và thách
thức. Công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm tới sẽ khó khăn và
phức tạp hơn; bởi vì động lực phát triển của quá trình tự do hóa không
còn nhiều như trước; để đảm bảo sự tăng trưởng nhanh và bền vững,
cần phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. khai thác
thật tốt các tiềm năng và lợi thế của đất nước trong quan hệ và hội
nhập quốc tế. Đổi mới kinh tế đi sâu đòi hỏi các cơ chế, chính sách
không chỉ xử lý những vấn đề cấp bách trước mắt mang tính chất tháo
gỡ, mà còn có tính chất tương đối cơ bản lâu dài; các giải pháp đổi
mới cần phải được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, có cân nhắc sự tác
động nhiều mặt; các bước cải cách cần phải được điều phối một cách
chủ động theo một chương trình tổng thể. Trong điều kiện mới, Viện
là một bộ phận hợp thành của Bộ kế hoạch và Đầu tư, Viện cần tập
trung mọi lỗ lực nghiên cứu để ghóp phần hoàn thành nhiệm vụ của
Bộ. Theo nghị định số 75/CP ngày 1/11/1995 đã xác định “Bộ kế

hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ có chức năng tham mưu
tổng hợp về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước; về cơ chế chính sách quản lý kinh tê; quản lý
nhà nước về lĩnh vực đầu tư trong và ngoài nước; giúp Chính phủ phối
hợp, điều hành thực hiện các mục tiêu và cân đối chủ yếu của nền kinh
tế quốc dân”. Để tạo luận cứ khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao
chất lượng của các dự thảo kế hoạch, đề án chính sách, văn bản pháp
quy cũng như của công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch của
Bộ, cần tăng cường công tác nghiên cứu của các Vụ, Viện trong Bộ,
nhất là khai thác tốt hơn năng lực nghiên cứu của các Viện, giao cho
các Viện triển khai nghiên cứu những đề tài gắn trực tiếp với nhiệm vụ
chính trị của Bộ, sử dụng có hiệu quả nghiên cứu của các Viện làm cơ
sở cho các quyết định quản lý của Bộ. Điều đó tạo điều kiện cho Viện


18
quản lý kinh tế Trung ương phát triển, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi
Viện phải được tăng cường và vươn lên về nhiều mặt trong những
năm tới. Để thực hiện được chức năng do Bộ trưởng giao trong Quyết
định số 17 là “Nghiên cứu và tham mưu Nhà nước về cải cách kinh tế,
chính sách kinh tế, kế hoạch hóa và cơ chế quản lý kinh tế”, Viện cần
chú trọng thực hiện cả hai mặt hoạt động của mình là nghiên cứu tham
mưu và nghiên cứu cơ sở khoa học, nghiên cứu cơ bản; trong đó nội
dung chủ yếu của nghiên cứu tham mưu là xây dựng các dự thảo văn
bản, dự án pháp quy theo yêu cầu của các cơ quan lãnh đạo Đảng và
Nhà nước; còn nghiên cứu cơ sở khoa học chủ yếu là để tạo luận cứ về
lý luận, khoa học chủ yếu là để tạo luận cứ về lý luận, khoa học cho
nhiệm vụ tham mưu, đồng thời nâng cao tầm hiểu biết của cán bộ
trong Viện. Viện cố gắng phấn đấu để vươn lên vị trí đầu đàn trong
lĩnh vực nghiên cứu chính sách kinh tế, từ đó thu hút trí tuệ của đông

đảo các nhà khoa học, cán bộ kinh tế, các nhà quản lý để phối hợp
tham gia xây dựng các chính sách kinh tế mới tham mưu cho Đảng và
Chính phủ. Trong khi bám sát yêu cầu nhiệm vụ tham mưu được giao,
bám sát phục vụ và góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Bộ.
Về mặt nội dung, yêu cầu cơ bản đặt ra đối với hoạt động của Viện
trong những năm trước mắt là nghiên cứu đề xuất các cơ chế chính
sách kinh tế, các khía cạnh chính trị trong kinh tế, phương pháp kế
hoạch hóa và cơ cấu kinh tế trong các vấn đề xã hội góp phần cụ thể
hóa và thực hiện đường lỗi tiến tục sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đại hội VIII của Đảng thông qua.
Để thực hiện các yêu cầu trên đây, định hướng về nội dung hoạt
động lớn của Viện được tập trung nghiên cứu:
Một là, nghiên cứu xây dựng chương trình tổng thể về cải cách
kinh tế trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới và nghiên cứu cơ sở khoa
học và thực tiễn của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai là, nghiên cứu về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.


19
Ba là, nghiên cứu vận dụng tổng hợp các công cụ quản lý vĩ mô
chủ yếu của Nhà nước trong cơ chế thị trường, trước hết là pháp luật
kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế.
Bốn là, nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học
quản lý trên cơ sở khảo sát thực tiễn và phân tích tình hình kinh tế - xã
hội; tổng kết các điển hình tiên tiến, các kinh nghiệm thành công và
không thành công trong quá trình đổi mới; nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế về cải cách và tăng trưởng kinh tế.

Năm là, nghiên cứu cơ chế kinh tế trong các lĩnh vực xã hội như:
giáo dục, y tế, bảo hiểm ….
Căn cứ vào nhiệm vụ chủ yếu quy định trong Quyết định số 17 là
“xây dựng các đề án chính sách kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và kế
hoạch hóa, các dự án luật, pháp lệnh và văn bản dưới luật thuộc lĩnh
vực quản lý kinh tế do Nhà nước giao”, thì việc lựa chọn và xác định
đề tài nghiên cứu của Viện phải xuất phát từ yêu cầu cụ thể từng thời
gian và tùy thuộc vào các nhiệm vụ do Bộ giao. Nhưng mặt khác, để
có đủ thời gian vật chất thực hiện các đề tài nghiên cứu một cách có
chất lượng, cần phải dự kiến trước những hướng nghiên cứu chủ yếu,
và trong nhiều trường hợp cần xác định những đề tài tương đối dài hạn
có tính chất cơ bản và chuẩn bị đề tài ngắn hạn, đón trướ các nhiệm vụ
cấp bách, tham gia đóng góp vào các nhiệm vụ trước mắt.
III- Sự hình thành và những hoạt động của ban nghiên cứu chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế.
1- Sự hình thành ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay, một nền kinh tế
muốn phát triển không thể khép kín trong buôn bán nội địa mà phải
mở rộng quan hệ ra bên ngoài, tức là mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại. Việc nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế
trong nước với mở rộng quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế trong
nước với mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài là yếu tố làm nên
thành công của chiến lược phát triển kinh tế. Thấy rõ được tầm quan
trọng của vấn đề này Đảng và Nhà nước đã thực hiệnc hính sách mở
cửa, phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại, từng bước đưa nước ta vào


20
dây truyền hợp tác và phân công lao động quốc tế, đồng thời khẳng
định chính sách đối ngoại của nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện

nay, thế giới và khu vực có tốc độ phát triển rất cao và vượt xa chúng
ta. Cho nên, để có thể bắt kịp cho hoặc không để khoảng cách giữa
chúng ta và họ thêm xa, chúng ta phải liên tục đổi mới và điều chỉnh
chính sách kinh tế nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng cho
phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã được thành
lập năm 2003 với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu bao gồm:
 Nghiên cứu chính sách thương mại.
 Nghiên cứu cơ chế, chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế.
 Nghiên cứu tác động của chính sách thương mại và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
 Nghiên cứu những vấn đề khác về chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế.
Danh sách cán bộ của ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế:
Trưởng ban: TS. Võ Trí Thành.
Phó trưởng ban: TS. Phạm Lan Hương.
Phó trưởng ban: ThS. Đinh Hiền Minh.
TS. Lê Xuân Sang.
ThS. Trịnh Quang Long.
ThS. Nguyễn Tú Anh.
ThS. Trần Bình Minh.
2- Những hoạt động của ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế.
Công tác hoạt động năm 2004.
 Thực hiện nhiệm vụ theo chức năng và được giao.
 Hoàn thành Đề án trình Thủ tướng Chính phủ về “Phát triển
và hoàn thiện thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở Việt Nam”(đã
được Thủ tướng CP phê duyệt).
 Tham gia ý kiến về tổng kết 20 năm đổi mới trên một số lĩnh

vực kinh tế, trong đó có hội nhập quốc tế; tham gia xây dựng Báo


21
cáo thường niên “VN: Tăng trưởng và giảm nghèo” của ban chỉ
đạo quốc gia thực hiện CPRGS.
 Đóng góp nhiều ý kiến thiết thực cho các đối sách của Nhà
nước như các vấn đề chuẩn bị Hội nghị ASEM 5, Hội nghị cấp cao
ở Viêng Chăn, phản ứng đối với nguyên tắc 2+X, các biện pháp
hạn chế giá cả gia tăng…
 Phân tích tình hình và triển vọng kinh tế Việt Nam trong
năm; hoàn thành Báo cáo kinh tế Việt Nam tháng 12 năm 2004.
 Tiến hành khảo cứu đánh giá tác động của việc gia nhập
WTO về mặt thể chế kinh tế.
 Thực hiện nhiều hoạt động hợp tác quốc tế cả ở trong và
ngoài nước thông qua các hoạt động như: tham gia các mạng
nghiên cứu khu vực, tham gia các hội thảo/ hội nghị/ dự án nghiên
cứu khoa học quốc tế, phối hợp tổ chức hội thảo khoa học, tiếp đón
các đoàn khách quốc tế tới Viện, trao đổi thông tin…
 Thực hiện các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ và phối hợp
họat động vớic các Dự án trong và ngoài nước.
Đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp Bộ.
 Tiếp tục triển khai thực hiện Đề tài cấp Nhà nước “Chiến
lược huy động và sử dụng vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta”
 Hoàn thành bảo vệ đề tài cấp Bộ năm 2002 về “phân tích
định lượng về tác động của quá trình gia nhập WTO tới sản xuất
nông nghiệp Việt Nam: sử dụng mô hình cân bằng tôngt thể”
(tháng 12/2004).
Phối hợp với các Dự án trong và ngoài nước.

 Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học và trong khuôn
khổ các dự án với các tổ chức quốc tế và với nước ngoai (các dự án
nằm trong Viện: DANIDA, SIDA, UNDP, GTZ; các tổ chức khác
World Bank, ADB, EADN, ISEAS, TDRI, ILO, ESCAP,
PAFTAD, JETRO, IDE/JETRO, IDRC, Chương trình cao học Hà
Lan của Đại học KTQD Hà Nội…).


22
 Tổ chức nhiều hội nghị/ hội thảo khoa học (Diễn đàn quốc tế
về “tăng cường quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản. Nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam”; Hội thảo “Ma trận
hạch toán xã hội Việt Nam năm 2000 và ứng dụng”; Hội thảo về
“Chính sách tiển tệ ở Việt Nam trong quá trình đổi mới”; Seminar
“giới thiệu mô hình CGE của TDRI và khả năng áp dụng cho Việt
Nam”)
 Tham dự, báo cáo nghiên cứu khoa học và đóng góp ý kiến
tại nhiều hội thảo trong nước và quốc tế.
 Tham gia giảng bài cho đoàn nước ngoài (Bắc triều Tiên) Về
kinh nghiệm cải cách kinh tế ở Việt Nam; tổ chức huấn luyện – đào
tạo theo chương trình dự án DANIDA; tham gia giảng các bài về
chính trị thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế tại một số lớp học
cho sinh viên (trong nước và quốc tế), cán bộ nhà nước….
 Một số ấn phẩm và bài nghiên cứu khoa học trong năm 2004.
 Sách: Kinh tế Việt Nam năm 2003, NXB Chính trị quốc gia,
Hà nội (Việt và Anh).
 Sách: Kinh tế Việt Nam năm 2004, NXB Tài chính, Hà Nội.
 Sách: Thị trường tài chính Việt Nam: thực trạng,vấn đề và
giải pháp chính sách, NXB Tài chính, Hà Nội.
 Sách: ma trận hạch toán xã hội mới của Việt Nam năm 2000,

NXB KH – KT, Hà Nội.
 “The ASEAM Economic community: Perpective from
ASEAN’s Transitional Economies”
Công tác hoạt động năm 2005.
 Thực hiện nhiệm vụ theo chức năng và được giao.
 Tham gia ý kiến Tổng kết 20 năm đổi mới; xây dựng Báo
cáo chuẩn bị cho kế hoạch – đầu tư và đóng góp hoàn chỉnh báo
cáo của Ban kinh tế Trung ương về “Định hướng giải pháp tăng
cường khả năng thích ứng của nền kinh tế Việt Nam sau khi gia
nhập WTO”.
 Đóng góp vào các đề án, báo cáo, dự thảo văn bản luật và
dưới luật về cơ chế chính sách và thể chế của Việt Nam trong hội


23
nhập kinh tế quốc tế phục vụ kế hoạch năm 2006, kế hoạch 5 năm
2006 – 2010.
 Đóng góp ý kiến cho các hiệp định AEAN với một số nước (
Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga) và việc chuẩn bị Hội nghị
APEC 2006 tại Việt Nam.
 Đóng góp ý kiến vào các đề án, báo cáo, dự thảo văn bản
luật và dưới luật liên quan đến ODA và chiến lược hỗ trợ của các
tổ chức quốc tế; tham gia xây dựng/ soạn thảo Báo cáo thường niên
“Việt Nam: tăng trưởng và giảm nghèo 2004 – 2005” của ban chỉ
đạo quốc gia thực hiện CPRGS và Báo cáo của chính phủ do Bộ
Kế hoạch và Đầu tư chủ trì về “Việt Nam thực hiện MDGs”; tham
gia nghiên cứu “Lồng ghép vấn đề việc làm vào kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm 2006 -2010” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
 Hoàn thành đề án nghiên cứu “Chính sách tiền tệ ở Việt
Nam”.

 Biên soạn và ấn hành Báo cáo Kinh tế Việt Nam năm 2004.
 Đề xuất cơ chế nhằm phát triển thị trường vốn. Tiến hành
khảo cứu đánh giá tác động của việc gia nhập WTO về mặt thể chế
kinh tế ( theo dự án).
 Thực hiện nhiều hoạt động hợp tác quốc tế cả ở trong và
ngoài nước thông qua các hoạt động như: tham gia các mạng
nghiên cứu khu vực, tham gia các hội thảo/ hội nghị/ dự án nghiên
cứu khoa học quốc tế, phối hợp tổ chức hội thảo khoa học, tiếp đón
các đoàn khách quốc tế tới Viện, trao đổi thông tin ….
 Thực hiện các đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ và tham gia
hoạt động khoa học với các tổ chức trong và ngoài nước.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ.
 Tiếp tục triển khai thực hiện Đề tài cấp Nhà nước “chiến
lược huy động và sử dụng vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta”(đề tài sẽ hoàn thành trong quý I/2006).
 Hoàn thành đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 “các hạn chế
đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam và các
giải pháp chính sách ” (do TS. Lê Xuân Sang làm chủ nhiệm).


24
 Hoàn thành đề tài khoa học cấp Bộ năm 2002 về “phân tích
định lượng về tác động của quá trình gia nhập WTO tới sản xuất
nông nghiệp Việt Nam: Sử dụng mô hình cân bằng tổng thể ”(do
TS. Phạm Lan Hương làm chủ nhiệm).
 Thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 – 2005 “Xây
dựng các chỉ tiêu dẫn báo kinh tế phục vụ phân tích chu kỳ kinh tế
và dự báo ngắn hạn – kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng
cho Việt Nam ” ( do ThS. Đinh Hiền Minh làm chủ nhiệm ). Đề tài
sẽ hoàn thành trong quý I/2006.

 Thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ năm 2005 “Rủi ro trong
quá trình tự do hóa thị trường tài chính và trình tự cải cách: Kinh
nghiệm quốc tế và các bài học cho Việt Nam ”(do ThS. Trịnh
Quang Long làm chủ nhiệm). Đề tài sẽ hoàn thành trong quý
I/2006.
Tham gia hoạt động khoa học với các tổ chức trong và ngoài nước.
 Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học trong khuôn
khổ các dự án với các tổ chức quốc tế và với nước ngoài (Các dự
án nằm trong Viện: DANIDA, SIDA, UNDP, GTZ; các tổ chức
khác World Bank, ADB, EADN, ISEAS, TDRI, ILO, ESCAP,
PAFTAD, JETRO, IDE/JETRO, IDRC, Chương trình cao học Hà
Lan của Đại học KTQD Hà Nội ….).
 Tham gia, phối hợp thực hiện các dự án/ đề tài nghiên cứu
khoa học về tự do hóa thương mại dịch vụ (UBQG về HTKTQT
chủ trì), các công cụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Học viện Tài
Chính chủ trì ), tác động của biến động giá cả thế giới đối với Việt
Nam (Viện nghiên cứu thị trường giá cả chủ trì…)
 Tổ chức hai hội thảo khoa học (hội thảo về “Chính sách tiền
tệ ở Việt Nam trong quá trình đổi mới”; hội thảo về “Đánh giá tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam: sử dụng mô hình
cân bằng tổng thể.”).
 Tham dự, báo cáo nghiên cứu khoa học và đong góp ý kiến
tại nhiều Hội thảo trong nước và quốc tế.


25
 Tham gia giảng bài cho đoàn nước ngoài (Bắc Triều Tiên)
về kinh nghiệm cải cáh kinh tế ở Việt Nam; tham gia giảng bài về
kinh tế vĩ mô, thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam tại một số lợp học cho doanh nghiệp, cán bộ quản lý nhà

nước, sinh viên (trong nước và quốc tế)… hướng dẫn làm luận văn/
luận án cho sinh viên đại học, cao học và nghiên cứu sinh.
Đánh giá chung về ban chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
 Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tương
đối chủ động trong công tác để có thể đóng góp thiết thực cho việc
hoạch định chính sách, nhất là về hội nhập, thể chế và ổn định kinh
tế vĩ mô.
 Ban đã tạo điều kiện để mọi người cùng có cơ hội đóng góp
chính sách và tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học. Kiến
thức và năng lực nghiên cứu của mọi người trong Ban được cải
thiện khác rõ, tuy vẫn cần tiếp tục trau dồi.
 Ban đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, có đóng góp thiết
thực nhất định cho Viện; Tuy nhiên còn chậm trễ trong thực hiện
một số đề tài, phần do nhân lực còn hạn chế và phần do bản thân
cán bộ chủ nhiệm đề tài còn khó phân bổ thời gian một cách hợp lý
(nhiều việc dồn vào cùng một thời điểm)
 Một số ấn phẩm khoa học trong năm 2005.
 Sách Kinh tế Việt Nam 2004, NXBKH – KT, Hà Nội, 2005
(Việt và Anh).
 Chương trong sách: “the ASEAN Economic community:
Perspective from ASEAM’s Transitional Economies”, in Denis
Hew, Roadmap to an ASEAN Economic community, ISEAS,
Singapore, 2005.
 Sach Domestic Enterprise development and the role of Local
Government, Joint Research Program serie 134, IDE – Jetro,
Tokyo, March 2005.
 Bài tạp chí: “Vietnam’s Trade Liberalization and
International Economic Integration: Evolution, Problems and
Challenges”, ASEAN Economic Bulletin Vol 22 No 1 April 2005.

×