Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.45 KB, 34 trang )

CƠ SỞ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1 Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu gạo
1.1.1 Khái lược về thương mại nông sản
a. Khái niệm và bản chất của thương mại nông sản quốc tế
Thương mại nông sản (agricultural products trade) hay thương mại các sản
phẩm nơng nghiệp là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh
doanh trong thị trường nông nghiệp, bao gồm các hoạt động mua bán nông
sản, cung ứng dịch vụ trong hoạt động mua bán nông sản, đầu tư, xúc tiến
thương mại nông sản và các hoạt động liên quan nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thương mại nông sản quốc tế (international agricultural product trade),
thường được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, là sự trao đổi nông sản (xuất – nhập
khẩu nông sản) và cung cấp dịch vụ trong hoạt động xuất nhập khẩu nông sản
qua biên giới các quốc gia.
Những nội dung ban đầu về thương mại nơng sản quốc tế đó được đề cập
trong GATT 1947. Đến AoA 1995, hoạt động thương mại này lại một lần nữa
được nhấn mạnh về tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế
thế giới. Thương mại nông sản quốc tế là một bộ phận quan trọng trong
thương mại quốc tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển.
b. Quỏ trỡnh hội nhập quốc tế của thương mại nơng sản
Trong quỏ trỡnh tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một phương thức
chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới
hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc
gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường
các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực.


Có thể khẳng định, trong bối cảnh hiện nay, khơng một quốc gia nào có thể
phát triển được nếu khơng tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.


Quỏ trỡnh hội nhập kinh tế thương mại nói chung, thương mại nơng sản quốc
tế nói riêng có thể tạm chia: giai đoạn thăm dũ hội nhập, giai đoạn khởi động
hội nhập, giai đoạn tăng cường hội nhập.
Trong giai đoạn thăm dũ hội nhập, các quốc gia có xu hướng cởi bỏ dần các
hạn chế xuất khẩu, thực hiện hồn thiện các chính sách tài chính, thuế, như mở
cửa sàn giao dịch quốc tế về tiền tệ, hàng hóa, ban hành thuế xuất nhập khẩu,
thuế doanh thu, thuế lợi nhuận… Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về
thương mại được thông thống hơn. Tuy nhiên, một số hàng hóa vẫn bị giới
hạn xuất khẩu và phải đăng ký nhóm hàng hóa xuất khẩu.
Đặc điểm của giai đoạn khởi động hội nhập là việc thơng thống hơn thủ tục
xuất khẩu và nhập khẩu như bói bỏ các giấy phép nhập khẩu, dỡ bỏ quyền
kiểm sốt, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, bước đầu ký kết và tham
gia các Hiệp định thương mại quốc tế. Một đặc điểm nữa trong giai đoạn này
đó là các chủ thể kinh tế sẽ gặp khó khăn khi đối mặt với các quy định chung
(như các quy định về chất lượng sản phẩm, số lượng và giá cả) cũng như áp
lực cạnh tranh từ các quốc gia khác.
Đối với giai đoạn tăng cường hội nhập, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do
hóa và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế có sự thay đổi rừ
rệt. Xu hướng tích cực chủ động tham gia các Hiệp định về tự do hóa thương
mại, các Khu vực mậu dịch tự do. Những lúng túng ban đầu với các quy định
chung dần được khắc phục, trao đổi thương mại quốc tế làm mờ đi ranh giới
quốc gia.
c. Vai trũ của thương mại nông sản quốc tế
Nếu như sản xuất nông nghiệp là gốc luôn tạo ra nguồn nơng sản hàng hố lớn
và ổn định với chất lượng ngày càng cao, để cung cấp cho khâu xuất khẩu, thỡ
ngược lại, hoạt động xuất khẩu phát triển lại tạo ra thế và lực mới cho sản


xuất nông nghiệp phát triển ở mức cao hơn, là cơ sở cho việc tăng nguồn đầu
tư cho sản xuất, tăng nguồn tích luỹ cho ngân sách Nhà nước và tăng trưởng

kinh tế chung của cả nước.
Đối với các nước đang phát triển, thương mại nông sản quốc tế là bộ phận cấu
thành không thể thiếu trong quỏ trỡnh hội nhập nền kinh tế quốc tế. Không
những thế nú cũn là hoạt động liên quan đến cân bằng xuất nhập khẩu quốc
gia, đến cuộc sống của nông dân và nông thơn, khả năng nâng cao đời sống
dân cư nói chung.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Vai trũ tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo
Thương mại xuất khẩu nói chung trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước
tăng trưởng, mở rộng quy mô thị trường và tạo thêm nhiều việc làm mới.
Đóng góp của thương mại nơng sản cũn thể hiện trong nền kinh tế thị trường
ở chỗ, nó tạo tiền đề cho sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn…) từ
nông nghiệp sang các khu vực khác (công nghiệp chế biến và các dịch vụ liên
quan)
Vai trũ thỳc đẩy tăng trưởng bền vững
Xu hướng chung ở các nước trong quỏ trỡnh cụng nghiệp hóa, ở giai đoạn đầu
giá trị xuất khẩu nông sản (cùng với lâm, thủy sản) chiếm tỷ trọng cao trong
kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó giảm dần cùng với sự phát triển cao của
nền kinh tế. Ở Thái Lan, năm 1970 tỷ trọng giá trị nông, lâm, thủy sản trong
tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm 76,71% giảm xuống 59,36% năm 1980;
38,11% năm 1990; 35,40% năm 1991 đến năm 1994 chỉ cũn 29,60%.
Nông nghiệp và nơng thơn có vai trũ to lớn trong sự phát triển bền vững của
môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất như phân bón hóa học, thuốc
trừ sâu bệnh… làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quỏ trỡnh canh tỏc dễ
gõy ra xúi mũn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện


tích đất rừng… Vỡ thế, trong quỏ trỡnh phỏt triển sản xuất nơng nghiệp, cần
tỡm giải pháp thích hợp để duy và tạo sự bền vững của môi trường.
Đối với thương mại quốc tế

Lợi thế cạnh tranh và hội nhập kinh tế
Nơng sản được coi là hàng hóa đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn bởi nó dễ dàng
gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vỡ thế, ở
nhiều nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, nguồn xuất khẩu có ngoại
tệ chủ yếu dựa vào các loại nông sản.
Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế
giới có xu hướng giảm xuống, trong đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên,
tương quan giữa giá hàng nông sản và hàng công nghệ ngày càng mở rộng,
làm cho nông nghiệp nông thôn thua thiệt. Ở một số nước chỉ dựa vào một vài
loại nông sản xuất khẩu chủ yếu nhưu Coca ở Ghana, đường mía ở Cuba, cà
phê ở Braxin… đó phải chịu nhiều rủi ro và bất lợi trong xuất khẩu. Vỡ vậy, gần
đây nhiều nước đó thực hiện đa dạng hóa sản xuất và xuất khẩu nhiều loại
nông sản nhằm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Xuất khẩu cũn là lực đẩy mạnh mẽ, có tính quyết định góp phần đẩy nhanh tốc
độ hội nhập của nền kinh tế.
1.1.2 Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu gạo
a. Khái quát về hoạt động sản xuất lúa gạo
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trũ đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn tại các quốc gia khu vực châu Á – đặc biệt là các
nước đang phát triển như Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ.


Biểu. Phân phối sản lượng và tiêu dùng lúa gạo theo khu vực (1989-1991)
Lúa là cây trồng chính ở hầu hết các quốc gia trong Nam và khu vực Đông
Nam Á, Châu Á. Trồng lúa là cơ sở chủ yếu tạo ra việc làm và thu nhập, đặc biệt
ở khu vực nơng thơn. Lúa gạo chiếm khoảng 30% diện tích canh tác ở châu Á
(hơn 137 triệu ha), 94% lượng nước ngọt ở Nam Á và 81% ở Đông Á Thái
Bỡnh Dương được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là cho canh tác
lúa. Hơn 2,7 tỷ người dân phụ thuộc vào lúa như là nguồn lương thực chính
yếu. Trong số này có 1,1 tỷ người nghèo với thu nhập dưới một đô la một ngày.

Những người này chi từ 20-40% thu nhập của họ cho việc mua gạo.
Sản xuất lúa đó được tăng cường để đáp ứng các nhu cầu lương thực tăng lên
nhanh chóng do tăng dân số tại hầu hết các nước châu Á và một phần phần
của Châu Phi. Tuy nhiên, với sự biến động giá gạo trên thị trường thị trường,
nhận thức cho rằng các vấn đề khó khăn của an ninh lương thực đó được giải
quyết, đặc biệt là ở Châu Á và rằng khụng cú cũn cần một nghiên cứu cho lúa
đó bị xóa bỏ.
b. Khái niệm hoạt động xuất khẩu gạo và thị trường lúa gạo quốc tế
Xuất khẩu gạo (rice export) là hoạt động trao đổi lúa gạo và các sản phẩm chế
biến từ gạo giữa các quốc gia, mang tính chất hàng hóa, được xem xét trên góc


độ của quốc gia sản xuất và chế biến sản phẩm (lúa gạo). Nói cách khác, xuất
khẩu gạo là hoạt động thương mại nhằm cung cấp sản phẩm lúa gạo và các
sản phẩm chế biến từ lúa gạo của một quốc gia (sản xuất và chế biến lúa gạo)
cho các quốc gia khác (tiêu dùng sản phẩm lúa gạo).
Như vậy, hoạt động xuất khẩu gạo là một bộ phận không tách rời của thương
mại nông sản quốc tế. Cùng với hoạt động nhập khẩu, nó tạo ra thị trường
quốc tế về giao dịch thương mại đối với sản phẩm lúa gạo. Với đặc điểm tiêu
thụ tại chỗ, lúa gạo không phải là một thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong các
giao dịch thương mại quốc tế. Song đối với các quốc gia đang phát triển, trong
đó đa phần là các nước có nền kinh tế nơng nghiệp như các nước ở khu vực
chấu Á (Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Pakistan…) và châu Phi (Nigeria,
Madagasca…), thương mại xuất khẩu gạo góp phần quan trọng thu về ngoại tệ
tạo lực đẩy cho sản xuất trong nước.
c. Vị trớ và vai trũ của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế các nước đang phát
triển và Việt Nam
Xuất khẩu gạo được xem là hoạt động tạo ra lợi thế ban đầu cho các nước
nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu
công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ.

Đó là, so với các mặt hàng cơng nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da
hay cơ khí, điện tử lắp rỏp…thỡ trong cựng một lượng kim ngạch xuất khẩu
thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của sản phẩm lúa
gạo, rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ rũng của gạo xuất khẩu sẽ cao hơn
nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ của Việt Nam
(phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15
đến 20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo
đó tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho Việt Nam, chỉ số này đối
với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%.


Không những thế, ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo của các nước đang
phát triển và Việt Nam là ngành sử dụng nhiều lao động vào quỏ trỡnh sản
xuất - kinh doanh. Đây là một đặc điểm quan trọng hiện nay của ngành này, vỡ
các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, với tỷ lệ tăng dân số cao và
đặc trưng dân số trẻ, mỗi năm phải giải quyết thêm việc làm cho hàng triệu
người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha lúa ở đồng
bằng sông Hồng mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Hoạt động xuất khẩu
gạo phát triển sẽ thúc đẩy ngành sản xuất và chế biến lúa gạo trong nước, từ
đó giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho nhiều lao động, mà phần lớn là
lượng lớn lao động phổ thông tại các nước đang phát triển và Việt Nam.
Ngoài ra cũn cần phải kể đến các lợi thế về điều kiện tự nhiên, về khả năng
kinh nghiệm tạo nên những lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, từ đó
góp phần đáng kể phát triển kinh tế các quốc gia nông nghiệp. Với truyền
thống hàng nghỡn năm trồng lúa nước, Việt Nam được xem như một trong
những nền kinh tế lúa nước tiêu biểu. Điều kiện tự nhiên thuận lợi (khí hậu
nóng ẩm, đồng bằng châu thổ màu mỡ…) cùng với lao động nông nghiệp (nông
dân) nhiều kinh nghiệm là những yếu tố làm giảm chi phí đầu vào, góp phần
làm giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của gạo xuất khẩu.

Như vậy, có thể thấy hoạt động xuất khẩu gạo giữ vị trớ và vai trũ quan trọng
trong nền kinh tế các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Thứ
nhất, hoạt động xuất khẩu gạo sẽ thúc đẩy ngành sản xuất lúa gạo trong nước
phát triển, giải quyết ngay vấn đề việc làm cho người lao động tại các nước
đang phát triển và Việt Nam. Thứ hai, hoạt động xuất khẩu gạo góp phần
khơng nhỏ trong việc góp phần cải thiện cán cân thương mại, tích lũy nguồn
ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho việc nhập khẩu máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước. Có thể nói, xuất khẩu gạo
đó trực tiếp tiếp sức cho sản xuất trong nước tăng trưởng, mở rộng quy mô
sản xuất. Thứ ba, hoạt động xuất khẩu gạo được coi là một trong những hoạt


động xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh của Việt Nam và các quốc gia
có truyền thống sản xuất lúa gạo, là định hướng đúng đắn tạo ra sức cạnh
tranh cho hàng hóa Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tốc độ hội nhập của nền
kinh tế.
1.1.3 Các các yếu tố tác động đến xu hướng sản xuất và xuất khẩu gạo của các
nước đang phát triển và Việt Nam
a. Những thay đổi về thời tiết và chính sách phát triển
Chính phủ các nền kinh tế đang phát triển cũng như các cơ quan phát triển
quốc tế đều có ưu tiên rất rừ ràng đối với việc tăng sản xuất ngũ cốc (trong đó
có gạo) ở châu Á. Sự đồng thuận này càng gia tăng về cách thực hiện khi các
bộ phận công nghệ cách mạng xanh áp dụng thành công. Ở Việt Nam, ngay từ
giai đoạn đầu của quỏ trỡnh Đổi mởi, Đảng và Chính phủ đó xỏc định sản xuất
lúa gạo là hoạt động trọng tâm của ngành nông nghiệp, không chỉ bởi vỡ đây
là ngành sản xuất truyền thống, chiếm ưu thế cả về diện tích và sản lượng, mà
cũn do lỳa gạo được coi là loại lương thực quan trọng nhất của Việt Nam. Đảm
bảo sản xuất lúa gạo là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Khí hậu thế giới vài thập kỷ trở lại đây có nhiều biến động lớn. Cùng với hiện
tượng nóng lên của Trái đất, băng tan ở hai cực làm một phần khơng nhỏ diện

tích trồng trọt bị ngập mặn, mất khả năng sản xuất lúa gạo, những thảm họa
tự nhiên như lũ lụt, hạn hán, lốc xoỏy… cũn làm giảm sút sản xuất lúa gạo đe
dọa dẫn đến nạn đói ở nhiều nơi như Trung Quốc, Ấn Độ. Việt Nam cũng là một
trong những quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề từ những thay đổi
thời tiết này. Hiện tượng đất trồng lúa các tỉnh đồng bằng ven biển miền Bắc
(Thỏi Bỡnh, Thanh Húa…) đang bị xâm mặn hay như hiện tượng các cơn bóo
đổ bộ vào Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam có xu hướng gia tăng số lượng và
cường độ đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu
gạo của Việt Nam. Thêm vào đó, cung lương thực, trong đó có lúa gạo giảm sút
vào năm 2008 khiến cho giá gạo tăng vọt, đẩy các nước xuất khẩu gạo lớn trên


thế giới, trong đó có Việt Nam phải điều chỉnh chính sách nhằm hạn chế xuất
khẩu do lo lắng về an ninh lương thực quốc gia.
b. Thay đổi công nghệ trong sản xuất lúa gạo
Cách mạng xanh trong sản xuất lúa gạo là những bước ngoặt trong việc phát
triển các giống lúa hiện đại cú thõn lựn trung bỡnh. Bờn cạnh đó, hai yếu tố
quyết định khác của cơng nghệ cách mạng xanh là phân bón và thủy lợi. Cùng
với sự đóng góp của các giống lúa mới, cũng như hai yếu tố phân bón và thủy
lợi, năng suất lúa đó tăng lên gấp nhiều lần trong suốt giai đoạn từ 1960-1990
một cách vững chắc.
Cải tiến về giống
Các giống lúa truyền thống cho sản phẩm gồm 80% thân ra và 20% bông lúa,
trong khi tỷ lệ bông lúa trên thân ra của các loại lúa hiện nay là 50/50. Các
giống lúa hiện đại có thân ngắn hơn và cứng hơn, đáp ứng nhu cầu sản lượng
cao hơn với cùng lượng phân bón mà khơng bị rạp vào thời điểm thu hoạch.
Hơn nữa, các giống mới trưởng thành chỉ từ 90-120 ngày, thậm chí có giống
lúa từ lúc gieo cấy đến khi thu hoạch chỉ trong vũng 60 ngày, ngắn hơn nhiều
so với các giống lúa truyền thống là 150 ngày. Các giống lúa trước đây dễ dàng
bị tổn thương trước sâu rầy và dịch bệnh đó nhanh chúng được thay thế bằng

các giống kháng sâu bệnh. Cho đến nay, rất nhiều giống lúa mới với nguồn gen
phong phú được bảo vệ và phát triển đó đang được nghiên cứu và triển khai ở
hầu khắp các quốc gia sản xuất lúa gạo.
Trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể là lúa gạo, hạn hán và tác động của các
điều kiện khí hậu vẫn là nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi trong sản lượng
mùa vụ từ năm này sang năm khác. Việc tạo ra các giống mới cho các môi
trường khác nhau, nhằm đối phó với các cơn hạn hán thường xuyên hay các
điều kiện thổ nhưỡng bất lợi là thành tố quan trọng tiếp tục tạo đà tăng năng
suất sản xuất gạo của thế giới trong tương lai.
Cải tiến về phân bón


Trong sản xuất lúa gạo, phân hóa học ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong
việc nâng cao sản lượng nơng nghiệp, đặc biệt ở châu Á. Theo tính tốn, mức
tiêu thụ phân hóa học ở châu Á về cơ bản tăng gấp đôi sau mỗi thập kỷ. Sự
tăng trưởng nhanh một cách kỳ lạ trong việc tiêu thụ phân bón, hơn 7%/năm
trong nhiều thập kỷ, là do những thay đổi trong canh tác và việc nông dân hiểu
được lợi ích của phân bón khi sử dụng giống lúa mới.
Các phát minh trong hóa học và ứng dụng kỹ thuật cơ khí liên quan đến việc
sản xuất phân hóa học, cũng như những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực cơng
nghệ sinh học đó đẩy nhanh quỏ trỡnh tiờu thụ phân hóa học và quỏ trỡnh
chuyển đổi các loại phân hóa học truyền thống sang các loại phân hữu cơ an
tồn cho người nơng dân và mơi trường đất.
Tiến bộ công nghệ trong thủy lợi và quản lý nguồn nước
Các tiến bộ cơng nghệ trong thủy lợi có thể được chia thành: (i) những tiến bộ
liên quan đến việc phát triển các hệ thống thủy lợi nước mặt hay kênh mương,
chủ yếu thông qua đầu tư công cộng và (ii) những tiến bộ liên quan đến khai
thác nước ngầm chủ yếu qua đầu tư tư nhân. Các tiến bộ trong cơng nghệ và
việc giảm chi phí đó dẫn đến việc tiếp tục mở rộng nhanh chóng các cơng nghệ
thủy lợi như giếng đóng, thủy lợi vũi phun và nhỏ giọt…


1.2 Nguyên tắc và nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo trong tỡnh hỡnh
kinh tế hiện nay
1.2.1 Những nguyên tắc của hoạt động xuất khẩu gạo
a. Nguyên tắc phát triển bền vững
Nguyên tắc phát triển bền vững có thể tóm lược trong yêu cầu “Xuất khẩu gạo
phải đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, góp phần tăng thu nhập nông dân
và khu vực nông thôn, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế.”


An ninh lương thực được hiểu là sự đảm bảo về tiếp cận lương thực và sản
xuất lương thực đủ về số lượng và chất lượng dinh dưỡng. An ninh lương
thực chính là vấn đề bảo đảm an ninh sinh kế. Trước nguy cơ về thiên tai, dịch
bệnh, khí hậu biến đổi, dân số tăng nhanh kéo theo nhu cầu lương thực tăng
trong khi giá cả vật tư, nhiên liệu đầu vào tăng lên, hoạt động xuất khẩu gạo
của các quốc gia phải tính tốn đến mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực
trong nước. Chiến lược an ninh lương thực quốc gia cần xây dựng quy hoạch
tổng thể về sản xuất lương thực và diện tích đất trồng lúa trên phạm vi tồn
quốc, thiết lập hệ thống thơng tin an ninh lương thực nhằm nắm chớnh xỏc
tỡnh hỡnh sản xuất, thu hoạch, sản lượng lúa để chủ động lượng lúa gạo dữ
trữ và xuất khẩu.
Thành công trong việc tăng sản xuất và xuất khẩu lúa gạo phải có tác động
tích cực đến việc giảm nghèo và đẩy lùi nạn đói. Xuất khẩu gạo, thơng qua
nhiều con đường, phải dẫn đến lợi ích cho người trồng lúa và lao động nông
nghiệp. Năng suất lúa cao hơn phải dẫn đến lợi nhuận cao hơn cho nông dân
và nhiều việc làm hơn, đặc biệt cho các lao động nghiệp và những người làm
trong các doanh nghiệp liên quan đến nông nghiệp.
Dần dần, tăng trưởng năng suất trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo tạo ra
thặng dư lương thực và giải phóng lao động và các nguồn lực khác cần thiết
để hỗ trợ sự tăng trưởng ở khu vực ngồi nơng nghiệp. Sự gia tăng trong sản

xuất và xuất khẩu làm giá gạo rẻ hơn cho người tiêu dùng, làm lợi hơn cho
người nghèo – bao gồm người nghèo thành thị, nông dân khơng có đất và các
nơng dân khơng trồng lúa. Giá gạo thấp hơn sẽ kích thích việc làm ở các khu
vực công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế, rút lao động ra khỏi nông nghiệp.
Sự chuyển dịch này trong cơ cấu lao động là cần thiết cho phát triển bền vững
theo hướng tiến bộ hơn.
b. Nguyên tắc tôn trọng quy luật thị trường


Xuất khẩu gạo là hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường nên cần bói bỏ
hệ thống pháp lệnh tác động trực tiếp cũng như các quy định bóp méo nhu cầu
và giá cả trên thị trường.
Nhà nước cú vai trũ quan trọng đối với thị trường nhưng cần phải xác định rừ
mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Nhu cầu xuất khẩu đi kèm với
bỡnh ổn giá – đảm bảo an ninh lương thực là nhu cầu tất yếu nhằm đảm bảo
cho sự phát triển nhưng bằng cách nào, bằng công cụ gỡ, nú cú làm nguy hại
đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp xuất kahaur hay không là chúng
ta phải nghiên cứu.
Vỡ vậy, cần tôn trọng quy luật của thị trường - đó là quy luật cung cầu, quy
luật hỡnh thành giỏ cả . Nhà nước không thể dùng mệnh lệnh hành chính để
can thiệp những quy luật đó. Mặc dù, đơi khi thật sự cần thiết thỡ Nhà nước
cũng nên dùng những mệnh lệnh này. Tuy nhiên, những đũn bẩy kinh tế như
miễn thuế xuất nhập khẩu nên được sử dụng và chính sách của Nhà nước phải
có từng bước đi cụ thể mang tính khoa học, khơng thể đột ngột khiến doanh
nghiệp bị động và phương hại đến kế hoạch sản xuất.
c. Nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, trong đó hoạt động xuất khẩu gạo
cũng là một hoạt động kinh tế cần tuân thủ những quy định chung khi tham
gia nền kinh tế toàn cầu như quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh, mở cửa
thị trường…

Bất kỳ quốc gia nào khi tham gia vào “sân chơi chung” đều phải có những điều
chỉnh trong chính sách phát triển kinh tế trong nước. Hoạt động điều chỉnh
chính sách phát triển, mà cụ thể đối với xuất khẩu gạo, cũng tập trung vào một
số vấn đề cơ bản như: (i) chính sách ưu đói đầu tư trong hoạt động xuất khẩu
gạo cần được điều chỉnh tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và
nguyên tắc minh bạch; việc miễn, giảm thuế suất thuế xuất khẩu gạo, thuế thu
nhập doanh nghiệp xuất khẩu phải công khai và đảm bảo không tạo ra sự khác


biệt cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; (ii) chính sách trợ cấp
xuất khẩu, cụ thể là xuất khẩu gạo phải điều chỉnh theo hướng bói bỏ ngay các
trợ cấp trực tiếp bị cấm như trợ giá, hỗ trợ tài chính, thu nhập… cũng như hạn
chế xây dựng rào cản gián tiếp đối với xuất khẩu gạo. Không những thế, hoạt
động xuất khẩu gạo cũn mang tớnh đặc thù là hàng hóa lương thực, theo quy
định cần xây dựng hệ thống quy chuẩn VSATTP nhằm đảm bảo chất lượng gạo
xuất khẩu đáp ứng yêu cầu thế giới cũng như từng thị trường cụ thể.
1.2.2 Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu gạo trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
a. Quy mô xuất khẩu gạo
Xác định quy mô xuất khẩu một mặt hàng bao gồm việc xác định sản lượng
cũng như doanh thu của mặt hàng đó. Về mặt logic, sản phẩm có sức cạnh
tranh cao, dễ bán trên thị trường thỡ sẽ có doanh thu cao. Ngược lại, sức cạnh
tranh của sản phẩm thấp thỡ doanh thu thu được từ hoạt động thương mại
cũng nhỏ hơn. Việc xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu nói chung phụ thuộc vào
quy mơ, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sư biến động trên thị trường quốc tế.
Khi nhu cầu thị trường tăng lên, doanh thu xuất khẩu cao và tốc độ xuất khẩu
cũng tăng trưởng đều đặn với cùng xu hướng phản ánh khả năng thỏa món
nhu cầu và thị hiếu thị trường cũng như sức cạnh tranh của hàng hóa so với
các đối thủ khác.
Đối với hoạt động xuất khẩu gạo, xác định quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất

khẩu cũn cú yếu tố đặc thù, khi mà các quốc gia xuất khẩu hầu hết là các nước
có nền kinh tế nơng nghiệp và lúa gạo cú vai trũ như nguồn lương thực chính.
Như vậy quy mô xuất khẩu lúa gạo phải bám sát kế hoạch và kết quả sản xuất
lương thực, nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực. Ngoài ra, bên cạnh
các yếu tố tác động cơ bản của một mặt hàng tiêu dùng thông thường như
chất lượng, giá cả, năng lực tổ chức mạng lưới phân phối và tiêu thụ…, quy mô
xuất khẩu gạo cũn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như nhu cầu tiêu thụ nội


địa, chính sách vĩ mơ của chính phủ trong việc bỡnh ổn giá, lợi nhuận của nơng
dân…
b. Chi phí sản xuất và giá gạo xuất khẩu
Chi phí để tạo ra một hàng hóa là chi phí tính trên một đơn vị sản phẩm có xem
xét tương quan với chất lượng sản phẩm đó. Chi phí sản xuất hàng hóa, đặc
biệt là nông sản dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia, khu vực. Các nước ở
khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Việt Nam… có lợi thế so sánh trong hoạt
động sản xuất lúa gạo, nhờ tích lũy kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, cũng như
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho các giống lúa cao sản phát triển, được coi là
vựa lúa của cả thế giới. Tuy nhiên, hiện nay cạnh tranh nhằm giảm chi phí sản
xuất gạo xuất khẩu không chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi và kinh
nghiệm trong sản xuất, mà phải dựa trên hiệu quả của tất cả các khâu: sản
xuất, thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bói, cầu cảng… Bên cạnh đó, chi phí
sản xuất chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng
hóa xuất khẩu, vỡ lỳa gạo xuất khẩu muốn cạnh tranh với các đối thủ khỏc cũn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh, marketing, quản trị
xuất khẩu, khả năng dự báo và đối phó với những thay đổi bất thường của thị
trường quốc tế…
Giá cả của bất kỳ loại hàng hóa xuất khẩu nào cũng phục thuộc vào các yếu tố
như: chi phí, nhu cầu, mức độ cạnh tranh, các quy định về luật và thuế xuất –
nhập khẩu, khả năng thống trị thị trường của mặt hàng… Thông thường, cùng

một mặt hàng với cùng chất lượng, kiểu dáng bao bỡ… người tiêu dùng sẽ
chọn lựa dựa trên tiêu chuẩn về giá. Giá hàng hóa của hóng càng rẻ càng có
lượng tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, giá cao cũng có tác dụng kích thích người mua,
vỡ nú hàm ý giỏ trị của hàng hóa cao hơn. Giá cả của nông sản đặc biệt phụ
thuộc vào công đoạn chế biến. Càng gia tăng công đoạn chế biến với kỹ thuật
hiện đại, giá trị nông sản càng cao dẫn đến giá bán cũng sẽ gia tăng.
c. Cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu


Chủng loại gạo trên thế giới rất đa dạng, với nhiều kiểu, tên gọi và chất lượng
khác nhau. Hơn thế, gạo là một trong các loại nông sản truyền thống mà mỗi
vùng miền với đặc điểm khí hậu, đất đai, nguồn nước, chế độ canh tác và giống
lâu đời đó tạo nên rất nhiều loại gạo đặc sản của từng địa phương. Tuy nhiên,
nói chung gạo xuất khẩu được phân loại theo chất lượng, gồm: gạo 5% tấm,
gạo 15% tấm và gạo 25% tấm.
Việc xác định loại gạo xuất khẩu chính phải dựa trên lợi thế so sánh của mỗi
quốc gia (lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về kinh nghiệm…) cũng như
yêu cầu của các thị trường tiềm năng.
d. Thị trường và thương hiệu gạo xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
Việc xác định chỉ tiêu cho từng thị trường xuất khẩu nằm trong định hướng
xuất khẩu gạo của các quốc gia dưới áp lực cạnh tranh toàn cầu. Định hướng
thị trường xuất khẩu không những giúp các quốc gia xác định lợi thế so sánh
và yêu cầu từ thị trường từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa mà cũn
hỗ trợ cỏc nhà quản lý xỏc định và dự báo được quy mô và loại gạo xuất khẩu
làm cơ sở để đề xuất kế hoạch sản xuất cho kỳ tiếp theo. Do đó, định hướng thị
trường xuất khẩu có tính quyết định tính khả thi của chiến lược.
Xác định chỉ tiêu thị trường xuất khẩu bao gồm: dự báo nhu cầu gạo trên thị
trường quốc tế (các thị trường truyền thống và các thị trường tiềm năng), xác
định các yêu cầu về đảm bảo an toàn vệ sinh, các quy định kiểm tra, các yêu

cầu về thời gian số lượng.
1.3 Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và bài học kinh nghiệm xuất khẩu
gạo của một số quốc gia
1.3.1 Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động xuất khẩu gạo
a. Một số tác động gián tiếp của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động xuất
khẩu gạo thơng qua những tác động đến tồn bộ nền kinh tế Việt Nam
Tồn cầu hố, khu vực hoá là những xu thế khách quan đang diễn ra trên thế
giới trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, công
nghệ thông tin và cách mạng sinh học. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế


dựa trên tri thức (Knowledge-based Economy). Chính yêu cầu này đó tạo ra sự
liờn kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa cỏc quốc gia và khu vực. Xu
hướng tồn cầu hố đang phát triển và được điều tiết bởi các tổ chức thương
mại thế giới như WTO-ra đời từ năm 1995 đến nay đó cú hơn 150 nước tham
gia và 25 nước đang đàm phán để gia nhập. Theo báo cáo năm 2003 của WTO,
thương mại hàng hố tồn cầu năm 2002 đạt 13.109 tỷ USD, 146 thành viên
WTO chiếm 85% trong tổng số này; tổng thu từ thương mại dịch vụ toàn cầu
đạt 3060 tỷ USD, WTO chiếm 90%. Trong WTO, 2/3 thành viên là các nước
đang và kộm phỏt triển song vai trũ và tiếng núi quyết định vẫn nghiêng về các
nước phát triển.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến
trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Những thành tựu đạt được trong
hai năm qua cho thấy, việc Việt Nam tham gia vào WTO là phù hợp với thực tế
khách quan và xu thế hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ và sâu sắc trên thế giới hiện nay. Trên tinh thần chủ động hội nhập,
cùng với việc tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Thỏa thuận
ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,... thực hiện các thỏa thuận song
phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác Kinh

tế toàn diện với Nhật Bản, tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế liên khu vực
ASEM, APEC, Việt Nam đó thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tăng trưởng kinh tế
Về nhịp độ tăng trưởng GDP, nền kinh tế của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm
2007 đó tăng trưởng cao hơn dự đốn với nhịp độ tăng trưởng GDP ở mức
7,9%. Nhịp độ tăng trưởng CLĐP trong quý III năm 2007 ước tính khoảng
8,93% và cả năm 2007 dừ kiến sẽ vào khoảng 8,3% đến 8,5%, đây là mức tăng
trưởng GDP cao nhất trong 10 năm qua. Điều đáng nói ở đây là, tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam nửa đầu năm 2007 phần lớn do tăng trưởng từ sản xuất
công nghiệp (tăng 12,4%), thương mại, dịch vụ (dịch vụ thương mại và tài


chính tăng 10,4%, khách sạn và nhà hàng tăng 12,7% do tiêu dùng và du lịch
tăng cao) và sự phát triển của khu vực tư nhân (tăng trưởng của khu vực tư
nhân là 20,5% gần gấp đôi khu vực nhà nước). Điều này cho thấy, sau khi gia
nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đó phỏt triển đúng hướng với việc dựa vào
tăng trưởng ở các ngành quan trọng là cơng nghiệp và thương mại, dịch vụ.
Do đó, cơ cấu kinh tế đó dịch chuyển theo hướng tích cực: tỷ trọng trong GDP
của nhóm ngành cơng nghiệp - xây dựng đó được nâng cao từ 41,31% lên
41,48%, của nhóm ngành dịch vụ đó nõng cao từ 38,25% lờn 38,44% và của
ngành nụng, lõm, thủy sản đó giảm từ 20,45% xuống cũn 20,08%. Thờm vào
đó, một tín hiệu đáng mừng cho thấy hiệu quả của việc cải cách chính sách
theo hướng không phân biệt đối xử (giảm dần bảo hộ cho các doanh nghiệp
nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và các loại hỡnh kinh tế khỏc)
và mở cửa thị trường theo các cam kết với WTO thể hiện ở chỗ trong 6 tháng
đầu năm 2007, đầu tư đó tăng tới 14%. Kết quả này có được là do việc cải cách
chính sách đầu tư, cải thiện mơi trường kinh doanh theo cam kết với WTO.
Nhưng điều đáng nói nhất là đóng góp phần lớn vào tăng trưởng đầu tư là do
khu vực tư nhân trong nước (chiếm tới 35%). Như vậy, chứng tỏ chính sách cải
cách của chúng ta đó phỏt huy tỏc dụng kớch thớch và tạo điều kiện khuyến

khích đầu tư tư nhân.
Tác động của hội nhập kinh tế đến các ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế sau một năm gia nhập WTO đó đạt mức cao nhất trong
vũng hơn 10 năm vừa qua. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng khai thác
lợi thế so sánh với tốc độ tăng trưởng của khu vực sử dụng nhiều lao động cao
hơn so với khu vực sử dụng ít lao động.
Ngành cơng nghiệp Việt Nam đó phỏt triển theo hướng tích cực, sản xuất công
nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp
đạt trên 574 nghỡn tỉ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650
nghỡn tỉ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều


lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ cơng cũng có tốc độ
tăng trưởng cao.
Về xuất khẩu, trong 8 tháng đầu năm 2007 xuất khẩu của Việt Nam ước đạt
31,218 tỷ USD, tăng l 9,3% so với cùng kỳ năm 2006 (cao gấp hơn 2 lần tốc độ
tăng trưởng kinh tế). Trong đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt
13,758 tỷ USD, chiếm 44,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng
25,1% so với cùng kỳ năm trước; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đạt l 7,460 tỷ USD, chiếm 55,9 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng
15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thỡ
dơợ̀ t may và da giày là những mặt hàng chịu tác động trực tiếp của cam kết
WTO: theo cam kết WTO, Hoa Kỳ đó phả i bỏ hạn ngạch nhưng duy trỡ cơ chế
giám sát, tạo nguy cơ điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may xuất
khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Do chúng ta quản lý tụ́ t công tác giám sát
xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ để tránh bị kiện bán phá giá nên các nhà
nhập khẩu Hoa Kỳ đó quay trở lại Việt Nam đặt hàng cho quý IV và cỏc thỏng
đầu năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam 8 tháng năm 2007
ước đạt 5,084 tỷ USD, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm 2006. Đối với mặt hàng
da giày, kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2007 ước đạt 2,7 tỷ USD, tăng

28,8% so với cùng kỳ năm 2006. Nhóm hàng cơng nghiệp và chế biến có tốc độ
tăng trưởng cao và giá trị xuất khẩu lớn bao gồm: hàng dệt may, giày dép,
hàng điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ…(sản phẩm nhựa tăng 49,3%;
điện tử và linh kiện máy tính tăng 24,6%; dây điện và cáp điện tăng 24,5%; sản
phẩm gỗ tăng 24,3%...). Nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao hơn nhiều so
với mục tiêu đặt ra do giá thế giới tăng cao là cà phê, hạt tiêu, sản phẩm
nhưa...(cà phê tăng 90,8%, mặc dù số lượng xuất khẩu chỉ tăng 47,3%; hạt tiêu
tăng 20,2%, trong khi lượng giảm 43,l %). Một số mặt hàng chủ lực khác có
giá trị xuất khẩu 8 tháng qua tăng cao so với cùng kỳ năm trước gồm: nhân
điều tăng 24,2%; rau quả tăng 19,3%; than đá tăng 17,4%; giày dép tăng
14,3%; thủy sản tăng 14,1% gạo tăng 12,1%... Qua những con số này, có thể


thấy sau khi vào WTO, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được
duy trỡ ở mức cao, nhiều mặt hàng nụng sả n có thuận lợi về giá và thị trường
xuất khẩu. Bên cạnh những kết quả khả quan về kim ngạch xuất khẩu nói trên,
vấn đề nhập khẩu và cán cân thương mại đó gõy ra nhiều tranh luận khỏc
nhau. Kim ngạch nhập khẩu 8 thỏng đầu năm 2007 ước đạt 37,632 tỷ USD,
tăng tới 29,9% so với cùng kỳ năm 2006. Giá trị nhập siêu 8 tháng năm 2007 là
6,414 tỷ USD, bằng 20,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Như vậy, quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế, mà cụ thể là gia nhập WTO đó cú
những tỏc động khơng nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, qua đó có
những ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu gạo ở nhiều mặt:
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đó gúp phần nõng cao vị thế của nước ta trên
trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương
mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của
khu vực éụng - Nam Á. Vai trũ của nước ta trong các hoạt động của WTO,
ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. éặc biệt,
việc trở thành Ủy viờn khụng thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 đó chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt

Nam.
Việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đó gúp phần tạo dựng
được chỗ đứng cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, cụ thể là lúa gạo
xuất khẩu. Thị trường quốc tế, đặc biệt là các thị trường cao cấp và khó tính
như EU, Nhật Bản và Mỹ đó biết đến thương hiệu gạo của Việt Nam như một
hàng hóa có sức cạnh tranh ngang với các thương hiệu mạnh đến từ Thái Lan,
Ấn Độ…
Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý,
xúa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế,
thương mại, cải thiện mơi trường kinh doanh đó làm tăng hiệu quả và thúc
đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính, tiền tệ tồn cầu, nhưng GDP năm 2008 của nước ta vẫn tăng trưởng
ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007,


tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỉ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm
2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỉ USD, tăng
29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đó đa dạng hơn
và hàng hóa của Việt Nam đó thõm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị
trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...
Đối với ngành sản xuất và xuất khẩu gạo, việc điều chỉnh chính sách của Chính
phủ, xây dựng đề án nghiên cứu áp dụng KHKT trong nông nghiệp và hỗ trợ
xuất khẩu, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu
gạo, tạo lập môi trường xuất khẩu bỡnh đẳng, minh bạch giữa DN quốc doanh
và DN tư nhân, giữa DN trong nước và DNNN, rà sốt và loại bỏ các khoản phí,
quỹ khơng phù hợp trong sản xuất và xuất khẩu… đó gúp phần tăng khả năng
cạnh tranh của mặt hàng lúa gạo xuất khẩu, thúc đẩy khối lượng và kim ngạch
xuất khẩu gạo của Việt Nam không ngừng tăng lên.
Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi

trường kinh doanh và đầu tư trở nên thơng thống và minh bạch hơn, dẫn đến
việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đó thu hỳt trờn
20,3 tỉ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Sang năm 2008, dù tỡnh hỡnh kinh
tế thế giới xấu đi, nhưng vốn FDI cam kết đó đạt hơn 64 tỉ USD, gấp gần ba lần
năm 2007. éiều này phản ỏnh niềm tin của cỏc nhà đầu tư nước ngoài vào tiến
trỡnh hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát
triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xó hội và những
quyết sỏch tớch cực và hiệu quả của Chớnh phủ Việt Nam trong việc đối phó
với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
Luồng vốn FDI vào Việt Nam đang tập trung chủ yếu ở khu vực công nghiệp và
dịch vụ, vào các KCN, KCX và các khu thương mại tập trung, hầu như chưa có
những nguồn đầu tư lớn cho hoạt động nơng nghiệp nói chung, xuất khẩu gạo
nói riêng.
Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển
kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trỡnh độ công nghệ cho các nhà sản xuất,


dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngồi. Mặt khác, thơng qua việc
liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được
tăng cường thêm về vốn, trỡnh độ quản lý, nhân sự và phát triển cơng nghệ.
Có thể nói, hoạt động xuất khẩu gạo, giống như các hoạt động kinh tế khác,
cũng sẽ được thừa hưởng những kết quả về chuyển giao công nghệ và năng
lực này. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là hoạt động nơng nghiệp mang tính đặc
thù của Việt Nam, nên những hoạt động chuyển giao năng lực cũn rất hạn chế,
cả đối với nông dân sản xuất và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, chủ yếu mới
dưới các hỡnh thức tập huấn ngắn hạn hay các chương trỡnh giới thiệu cụng
nghệ của nước ngoài.
b. Những hiệp định thương mại trong nông nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp của
hội nhập quốc tế đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Hiệp định về nơng nghiệp(AoA)

Thương mại nơng sản đó được đề cập trong GATT 1947, tuy nhiên lĩnh vực này
lại được bảo vệ bằng nhiều ngoại lệ khác nhau, đặc biệt là trợ cấp xuất khẩu
và mức thuế quan cao để ngăn chặn, gây cản trở cho hoạt động thương mại
này. Nhận thức được tỡnh hỡnh này, vũng đàm phán Uruguay đó cho ra đời
Hiệp định nơng nghiệp, chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/1995, với mong
muốn cải cách các điều kiện đối với thương mại nông sản và làm cho lĩnh vực
này định hướng thị trường hơn. Theo đó, các thành viên sẽ phải tự đưa ra các
cam kết riêng biệt để mở cửa thị trường, cắt giảm trợ cấp xuất khẩu cả về giá
trị, số lượng và hạn chế trợ cấp trong nước.
Trong đó, mở cửa thị trường chính là việc thuế quan hóa các biện pháp phi
thuế quan và mức thuế quan này sẽ được giảm dần trong khoảng thời gian
nhất định. Kế đến, trợ cấp xuất khẩu liên quan đến những khoản trợ cấp trực
tiếp và những cắt giảm chi phí nhưng khơng bao gồm trợ cấp thơng qua tín
dụng xuất khẩu, các cơng ty thương mại nhà nước và trợ cấp lương thực. Trợ
cấp xuất khẩu nông nghiệp tác động rất lớn đến hoạt động thương mại quốc tế
về nông nghiệp nhưng những cam kết cắt giảm khoản trợ cấp này thực chất
không được quy định cụ thể trong Hiệp định nông nghiệp, mà chủ yếu được ghi


nhận trong các cam kết gia nhập WTO của từng thành viên cụ thể. Và cuối
cùng, hỗ trợ trong nước được phân thành ba loại căn cứ vào mức độ ảnh
hưởng của các biện pháp này đối với hoạt động thương mại quốc tế về nông
nghiệp. Thứ nhất, hỗ trợ hộp màu hổ phách (amber box), bao gồm trợ cấp, các
khoản thanh tốn trực tiếp mà khơng phải trường hợp ngoại lệ, do đó phải cắt
giảm. Thứ hai, hỗ trợ hộp xanh da trời (blue box) bao gồm các chương trỡnh
dịch vụ chớnh phủ, cứu trợ khi cú thiờn tai, kiểm soỏt dịch bệnh, hỗ trợ nghiờn
cứu phỏt triển, hỗ trợ mang tớnh bảo vệ mụi trường, mang tính cơ cấu, tính
khu vực, nên khơng bị coi là tác nhân dẫn đến bóp mép thương mại và được
loại trừ khỏi diện cắt giảm. Thứ ba, hộp xanh lục (green box) bao gồm các
khoản thanh toán trực tiếp cho người sản xuất liên quan đến chương trỡnh

hạn chế sản xuất, loại này không bị ảnh hưởng bởi việc cắt giảm theo nghĩa vụ.
Thỏa thuận về trỡnh tự, thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU)
Về nguyên tắc, các thành viên phải tuân thủ các Hiệp định WTO, đặc biệt là các
Hiệp định được liệt kê tại phụ lục 1, 2, 3 của Hiệp định Marrakesh (hay cũn gọi
là Hiệp định đa biên – Multilateral Agreements). Cụ thể, đối với vấn đề ưu đói
đầu tư, trong lĩnh vực nơng nghiệp, chỉ được quyền áp dụng các khoản trợ cấp
phù hợp với Hiệp định về nơng nghiệp. Bên cạnh đó, thành viên mới cũn chịu
sự ràng buộc bởi những cam kết cụ thể khỏc, hay cũn gọi “WTO cộng”, trong
gói đàm phán.
Trong trường hợp các thành viên khác của WTO có chứng cứ về việc chính phủ
của một thành viên nào đó áp dụng ưu đói đầu tư dưới dạng trợ cấp bị cấm;
trợ cấp đèn vàng gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước
của mỡnh; trợ cấp xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp; các trợ cấp trong
nước mà thành viên đó có nghĩa vụ cắt giảm thỡ họ sẽ chọn cỏc giải phỏp sau
đây để bảo vệ: hoặc là họ sẽ sử dụng pháp luật trong nước về cỏc biện phỏp
phũng vệ thương mại (trade remedies) để áp dụng biện pháp đối kháng đối với
hàng hóa nhập khẩu từ thành viên vi phạm và/hoặc họ khởi kiện lên cơ quan


giải quyết tranh chấp của WTO theo tiờu chớ (1) một bờn ký kết khụng hồn
thành các nghĩa vụ đó cam kết hoặc (2) một bờn ký kết ỏp dụng một biện phỏp
nào đó làm tổn hại đến lợi ích của thành viên khác cho dù biện pháp đó có trái
với quy định của Hiệp định này hay không.
Như vậy khi hội nhập quốc tế, tham gia WTO, Việt Nam phải tụn trọng tất cả
cỏc luật lệ của tổ chức này; khụng những vậy cũn phải tuõn thủ cam kết là kết
quả đàm phán với các thành viên khác đó yờu cầu trong cỏc phiờn đàm phán
song phương.
Các chuyên gia nghiên cứu đều khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế mà cụ thể
là gia nhập WTO tạo ra những tác động vô cùng lớn đối với ngành nông
nghiệp Việt Nam nói chung cũng như hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng, thậm

chí tạo nên những cú sốc lớn, những thay đổi căn bản và toàn diện trong cơ
cấu xuất khẩu và tư duy sản xuất. Điều đáng nói nhất của nông nghiệp Việt
Nam khi vào WTO là thị trường sẽ mở rộng cho những mặt hàng xuất khẩu
truyền thống (gạo, cà phê, chè…) đồng thời Việt Nam có cơ hội tiếp cận cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những xử kiện thiếu công
bằng mà Việt Nam đó từng gặp phải trước đây khi xuất hàng vào các thị
trường nước ngoài. Đồng thời, là thành viên của WTO đồng nghĩa với việc Việt
Nam sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngồi và có tiếng nói ngang bằng
với những thành viên khác khi WTO thảo luận các vấn đề chung. Cũn thỏch
thức lớn nhất là xuất khẩu Việt Nam có sức cạnh tranh thấp, phải đương đầu
với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, mà Việt Nam chưa có có kinh nghiệm
thực thi các điều khoản cam kết...
Gia nhập WTO đưa lại nhiều tác động tích cực đối với Việt Nam. Trước hết là
tạo khn khổ pháp lí ổn định, lâu dài, minh bạch cơng khai, có thể dự báo
trước những rủi ro trong thương mại nông sản cho các nhà sản xuất. Mặt
khác, điều đó sẽ giúp các nhà sản xuất Việt Nam rộng đường thâm nhập vào
thị trường nông sản rộng lớn của cộng đồng thương mại quốc tế, tạo cơ hội
cho nông dân Việt Nam thay đổi tư duy làm ăn theo lối hiện đại. Cuối cùng, vào


WTO sẽ tạo môi trường cạnh tranh bỡnh đẳng cho các nhà sản xuất Việt Nam
cũng như các nước tham gia thị trường nông sản trong nước và quốc tế, qua
đó thúc đẩy sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế, xố đói giảm nghèo. Ơng
Hiệp cũng nhấn mạnh đến tác động của việc vào WTO sẽ ảnh hướng mạnh đến
hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về nụng nghiệp. “Quỏ
trỡnh rà soỏt cỏc văn bản pháp luật cho thấy có một số quy định pháp luật
chưa phù hợp với cam kết của Việt Nam vào WTO... Việc gia nhập WTO đó đặt
ra khả năng phải tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp”.
1.3.2 Kinh nghiệm xuất khẩu gạo của Thái Lan

Thái Lan – nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
Thái Lan là một nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Mặc dù Trung Quốc và
Ấn Độ chiếm ưu thế trên thế giới về sản xuất gạo nhưng không chiếm ưu thế
trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới. Dựa vào khối lượng xuất khẩu gạo
hàng năm của các nước trên thế giới có thể tính ra được thị phần xuất khẩu
gạo của mỗi nước. Năm 2001, Thái Lan chiếm 31% thị phần xuất khẩu gạo của
thế giới và đạt mức cao nhất (37%) vào năm 2004. Trong khi đó, thị phần xuất
khẩu gạo của Việt Nam là 14 % vào năm 2001, và đạt mức 16% vào năm 2004.
Thị phần xuất khẩu gạo của Trung Quốc rất thấp, chỉ đạt 8% vào năm 2001 và
giảm xuống chỉ cũn 3% vào năm 2004.


Biểu. Các nhà sản xuất gạo hàng đầu thế giới, giai đoạn 1994-2004
Nguồn: FAS, USDA
Nếu chỉ tính thị phần theo khu vực Châu Á, vào năm 1999, Thái Lan chiếm thị
phần xuất khẩu gạo cao nhất. Thị phần giảm nhẹ từ 37,3% năm 1999 xuống
cũn 29,5% năm 2000. Sự suy giảm này là do cạnh tranh trong khu vực tăng lên
và sự nổi lên của các nhà xuất gạo như Việt Nam và Trung Quốc. Cho đến nay,
gạo trắng, có chất lượng cao là những yếu tố tạo nên sự thành công của Thái
Lan trong xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới.
Mặc dù Thái Lan vẫn dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng trong thời gian
gần đây xuất khẩu gạo của Thái Lan đang có xu hướng giảm dần, từ trên 10
triệu tấn năm 2004 xuống cũn khoảng 7,2 triệu tấn năm 2005.
Thị trường xuất khẩu gạo của Thái Lan chủ yếu là Châu Phi, Châu Á và Trung
Đông. Từ năm 2000, Châu Phi là thị trường lớn nhất của Thái Lan. Năm 2001,
Châu Phi chiếm 47% tổng xuất khẩu gạo của Thái Lan, tiếp theo là Châu Á
(27%) và Trung Đơng (14%). Ngồi ra, các khu vực cũng tương đối quan trọng
là Châu Âu (chiếm 5% tổng lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan), Hoa Kỳ (5%)
và Oceania (1%). Năm 2001, Nigeria là nhà nhập khẩu lớn nhất của Thái Lan
với khoảng 1,5 triệu tấn, theo sau là Senegal với khoảng 814 nghỡn tấn. Từ



×