Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 141 trang )



1






Luận văn
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp


2


mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã và đang đạt được nhiều thành
tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc
biệt trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế; trong đó nhân tố đóng vai
trò quyết định sự biến đổi về chất, dẫn tới sự ra đời của nền kinh tế tri thức
chính là con người.
Con người là nhân tố đặc biệt quan trọng trong mọi tiến trình biến đổi
của lịch sử, của mọi quá trình sản xuất, đồng thời cũng là lực lượng tiêu thụ
các thành quả vật chất và tinh thần do chính con người sáng tạo ra. Trong hoạt
động kinh tế con người là nguồn gốc duy nhất của cái gọi là nguồn nhân lực -
một yếu tố đầu vào đặc biệt quan trọng của mọi hoạt động, mọi quá trình kinh
tế. Nguồn nhân lực không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn là nguồn
gốc duy nhất của giá trị và do đó là giá trị tăng thêm; hơn nữa nó còn là nhân


tố quyết định tái tạo, sử dụng và phát triển các nguồn lực khác. Nếu không
dựa trên nền tảng nguồn nhân lực có thể chất, trình độ văn hoá, khoa học -
công nghệ và nhiệt tình cao thì không thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
tài nguyên, vốn, khoa học và công nghệ. Vì lẽ đó, việc sản sinh nuôi dưỡng và
phát triển nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng đối với các quốc gia; ngày nay
nó lại càng trở nên cấp bách và mang tính chiến lược, là chìa khoá cho sự phát
triển trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế với trình độ khoa học - kỹ thuật, công
nghệ ngày càng cao và sự lan toả của kinh tế tri thức.
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp vào
những năm tới, thì Việt Nam phải phát huy được những lợi thế của nguồn
nhân lực hiện có và phải có chiến lược, giải pháp đào tạo phát triển nguồn
nhân lực của mình một cách hiệu quả và hợp lý, vì thế việc nghiên cứu vấn


3


đề: “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp” ở
nước ta hiện nay là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xoay quanh vấn đề nguồn nhân lực thì đã có nhiều nghiên cứu, mà
đáng chú ý nhất là những công trình sau:
- Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Dự thảo chiến lược nguồn nhân
lực 2001 - 2010, Hà Nội.
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS,TS Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam con đường và bước đi.
- GS,TS Vũ Năng Dũng (chủ biên) (2004), Cơ sở khoa học để xây

dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế chính sách trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước, mã số KX - 07
(1995), Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội, Hà Nội.
- Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX.08 đề tài KX 08-01
(1995), Báo cáo tổng hợp hệ quan điểm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội
nông thôn, Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS,VS Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


4


- PGS.TS Nguyễn Đình Kháng (2002), “Kinh tế tri thức và những vấn
đề mới đặt ra cho lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (1), tr.19 - 21.
- GS.TS Đỗ Thế Tùng (1996), Vấn đề lao động và việc làm, Trung tâm
Thông tin tư liệu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Hầu hết các các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau của nguồn nhân lực, mà đặc biệt đã có một số công trình đề cập đến đào
tạo phát triển nguồn nhân lực để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Tuy nhiên, đến nay trong số các công trình được công bố chưa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH,

HĐH nông nghiệp trên phương diện kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của NNL cũng như quá trình đào tạo
NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp để xác định
phương hướng, giải pháp đào tạo phát triển NNL cho CNH, HĐH nông
nghiệp giai đoạn 2006 - 2010.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa CNH, HĐH nông nghiệp
với việc đào tạo NNL cho tiến trình đó, để vạch rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của hoạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông
nghiệp ở nước ta hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo NNL của ngành
nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta thời gian qua.


5


- Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu để hoàn thiện và phát triển
hoạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp
ở nước ta giai đoạn 2006 - 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta
là vấn đề lớn và phức tạp, để phù hợp với yêu cầu của luận văn Thạc sĩ và để
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công tác mà học viên đang đảm nhiệm
hiện nay, nên luận văn chỉ chú trọng tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo
NNL của ngành nông nghiệp mà chủ yếu là đào tạo đội ngũ lao động có trình
độ công nhân kỹ thuật trở lên cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta giai
đoạn từ năm 2000 đến nay và định hướng đến năm 2010.

5. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với
những nguyên lý, lý luận Hồ Chí Minh. Trong đó, chú trọng sử dụng phương
pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính trị Mác - Lênin như: phương pháp
kết hợp logic với lịch sử: phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần
phân tích.
6 Đóng góp của lụận văn
- Luận văn làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn của đào tạo NNL của
ngành nông nghiệp phục vụ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện và phát triển hoạt
động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở
nước ta giai đoạn 2006 - 2010.


6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


7


Chương 1
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá nông nghiệp

và vấn đề đào tạo Nguồn Nhân Lực của ngành nông nghiệp cho Công nghiệp
hoá, Hiện đại hoá nông nghiệp
ở nước ta hiện nay

1.1. Công nghiệp hoá, Hiện Đại Hoá nông nghiệp và những vấn đề đặt ra cho
đào tạo Nguồn nhân lực của ngành nông nghiệp cho Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp ở nư ớc ta hiện nay
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp
a. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
Công nghiệp hoá là một cuộc đại phân công lao động xã hội, kèm theo
là một quá trình di chuyển, chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế. Quá trình từ xã
hội nông nghiệp chậm phát triển sang xã hội công nghiệp phát triển diễn ra
chủ yếu theo hai tiến trình cơ bản: tiến trình thị trường hoá và tiến trình công
nghiệp hoá, theo đó là quá trình đô thị hoá và ngày nay còn bao hàm cả quá
trình hiện đại hoá. Dưới tác động của những tiến trình này, công nghiệp hoá là
một sự chuyển biến sâu sắc mang tính cách mạng trong sản xuất, trong cách
thức tổ chức kinh tế xã hội và cả lối sống của con người. Cùng với công
nghiệp hoá, mức sản xuất tăng lên mạnh mẽ, xã hội trở nên giàu có, kèm theo
đó là sự thay đổi tư duy cả trong đời sống vật chất cũng như văn hoá - tinh
thần. Nó chính là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu dựa
trên kỹ thuật thủ công mang tính hiện vật, tự cấp, tự túc thành nền công
nghiệp thị trường. Đây cũng là một quá trình xây dựng một xã hội văn minh
công nghiệp, cải biến kỹ thuật tạo dựng nền công nghiệp lớn và phát triển
kinh tế thị trường.


8



Như vậy quá trình công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế hay là
nội dung vật chất của quá trình chuyển đổi nền kinh tế chậm phát triển sang
nền kinh tế phát triển.
b. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Theo nghị quyết số 15NQ/TW ngày 18/3/2002 của HNTW 5 khoá IX
về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 là:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ
khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá trên thị trường [13, tr.64].
Theo đó, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta hiện nay bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
- Là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành
nền nông nghiệp hiện đại, về thực chất là HĐH các biện pháp sản xuất nông
nghiệp, HĐH công nghệ sản xuất, HĐH quản lý sản xuất kinh doanh và HĐH
lực lượng lao động ngành nông nghiệp.
- Làm thay đổi thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu
sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất của một nền sản xuất nông
nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ
thuật thủ công sang một nền sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ
thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện thương mại hoá toàn cầu và phải
đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế, xã hội.


9



- Quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh
chóng. Nông nghiệp không chỉ đóng vai trò là ngành tất yếu mà cơ sở từ đó
công nghiệp nảy sinh và phát triển, mà nông nghiệp từ đầu tham gia vào sự
phát triển với tính cách là ngành sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng, thành một
cực tăng trưởng thông qua việc chuyển sang sản xuất các mặt hàng nông sản
xuất khẩu. Sự tác động của chiến lược hướng vào xuất khẩu và sự phát triển
của công nghiệp và kinh tế thị trường; cách mạng khoa học công nghệ, trong
điều kiện toàn cầu hoá đã lôi cuốn nông nghiệp vào trung tâm của sự phát
triển. Sự chuyển đổi nhanh chóng của nông nghiệp tất yếu làm tăng sự tan rã
nhanh chóng kết cấu xã hội nông thôn truyền thống và kinh tế nông thôn với
phương thức sản xuất tiểu nông của nó, đồng thời là quá trình đô thị hoá sẽ
diễn ra nhanh chóng.
- Sử dụng máy móc rộng rãi, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin trong khâu sản xuất, bảo
quản, chế biến và tiếp thị mở rộng thi trường tiêu thụ trong nước và quốc tế,
chính vì vậy sẽ thúc đẩy nhanh sự tan dã của nông nghiệp chậm phát triển và
nông nghiệp truyền thống.
c. Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
Nền kinh tế nông nghiệp, không thể tự cải tạo kỹ thuật, không thể tự
mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp được quyết
định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện được, quá trình phát
triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá, đó là quá trình
chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Sự phát triển này
khiến cho nông nghiệp mất vị trí là nền tảng của nền kinh tế. Qui luật chung
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ GDP của nông


10


nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao động ngành nông nghiệp có tỷ lệ
nhỏ trong cơ cấu chung của các ngành kinh tế.
Sự thay đổi trong cơ cấu ngành nông nghiệp không phải là nguyên
nhân chủ yếu tạo ra thị trường cho nông nghiệp mà chính sự phát triển của
công nghiệp, du lịch dịch vụ đã tạo ra thị trường cho nông nghiệp và qui định
tất yếu nông nghiệp phải chuyển thành ngành kinh doanh theo cơ chế thị
trường.
1.1.2. Khái quát về nguồn nhân lực trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
a. Khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong lý thuyết phát triển và theo nghĩa rộng được hiểu
như nguồn lực con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành và là một bộ
phận của các nguồn lực có khả năng huy động để tham gia vào quá trình kinh
tế xã hội, như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.
Theo Bộ Lao động Thương binh và xã hội: Nguồn nhân lực là tiềm
năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có
thể được xác định trên một địa phương hay một vùng đây là nguồn lực quan
trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, với tư cách là yếu tố phát triển kinh tế - xã hội, NNL là khả
năng lao động của xã hội mà theo nghĩa cụ thể, nó bao gồm nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân
lực tương đương với nguồn lao động, nghĩa là nó bao gồm mọi cá nhân,
những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng hợp các yếu
tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Vai trò của
các yếu tố này đã được Các Mác đề cập đến, chẳng hạn như: "Sức lao động
hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại


11


trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [ ].
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, nó phản ánh
khả năng lao động của con người và là điều kiện tiên quyết của mọi của mọi
quá trình lao động xã hội. Quá trình vận động phát triển sản xuất xã hội đòi
hỏi sức lao động ngày càng có chất lượng cao hơn. Sức lao động của con
người trong sản xuất, kinh doanh được coi như một yếu tố chi phí sẽ được đưa
vào giá thành của sản phẩm thông qua tiền lương, quyền lợi vật chất khác mà
người lao động được hưởng và yếu tố này đem lại lợi ích kinh tế cho doanh
nghiệp, xã hội.
Theo Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, những người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 16
đến 55 tuổi đối với nữ, đều nằm trong độ tuổi lao động.
Thông thường NNL được xem xét, đánh giá trên các phương diện số
lượng, chất lượng, cơ cấu Số lượng NNL được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu qui mô và tốc độ tăng NNL. Chất lượng NNL là tổng thể những đặc
trưng, phán ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động trực
tiếp sản xuất và phát triển của con người. Đó là khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo
đức lối sống và tinh thần của NNL.
Tuy nhiên, nguồn lao động khi bao hàm toàn bộ dân cư trong độ tuổi
lao động, nó chỉ bao gồm lực lượng lao động - nghĩa là nó phải loại trừ những
người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động hoặc không đủ điều
kiện lao động. Tuy nhiên, khi tính toán nguồn lao động xã hội thì tổng cục
thống kê cho rằng: Nguồn lao động là những người trong độ tuổi có khả năng
lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân.



12

Như vậy khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm này là việc tính hay
không tính những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc ở các ngành
kinh tế quốc dân trong nguồn lao động.
ở Việt Nam hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn lực lao
động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những
người trên độ tuổi qui định của Bộ luật lao động, nhưng thực tế vẫn đang
tham gia vào quá trình lao động) và những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất nghiệp,
đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu
cầu làm việc trong thời điểm hiện tại. Như vậy, nguồn lao động là một bộ
phận dân cư có khả năng về thể chất và tinh thần có thể tham vào quá trình
lao động theo luật định.
Khái niệm về lực lượng lao động hẹp hơn khái niệm về nguồn lao
động, theo ILO, lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui
định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang
tích cực tìm kiếm việc làm.
Ngày nay, khoa học và công nghệ đang ở gia đoạn phát triển cao, các
nguồn lực cho sự phát triển đang có nhiều thay đổi rất căn bản, tài nguyên
thiên nhiên đang lùi dần về vị trí thứ yếu, kinh tế tri thức đang lên ngôi. Trong
phân tích kinh tế, người ta thiên về khai thác lợi thế so sánh động. Nhưng xã
hội càng phát triển thì nguồn lực lao động với đầy đủ ý nghĩa của nó, trong đó
bao hàm cả chủ thể mang trong mình nguồn lực của khoa học, đang ngày một
trở nên quan trọng, không những có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh
tranh của một quốc gia, mà thậm chí còn quyết định đến bản chất của toàn bộ
qúa trình phát triển.


13


b. Một số đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
- Đặc trưng về xã hội:
Khác với các nguồn lực khác, NNL chính là con người với đầy đủ các yếu
tố tinh thần văn hoá xã hội của nó. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động của
con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và thông qua những hoạt động này, con người cải tạo chính mình.
Con người, bằng hoạt động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất
tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình, cho nên tự nhiên và xã hội
trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau. Chính những hoạt động này
làm biến đổi mặt tâm lý của con người và làm cho nó mang tính người, tính
xã hội và cũng chính hoạt động thực tiễn đó đã làm cho nhu cầu sinh vật ở
con người trở thành nhu cầu xã hội. Trong Luận cương Phơ Bách Các Mác
viết: “Về mặt bản chất: trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hoà các
quan hệ xã hội” [ ]. Như vậy, yếu tố tâm lý trong mỗi con người không phải
tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hoà quyện vào nhau. Bản tính tự
nhiên của con người được chuyển vào bản tính xã hội của con người và được
cải biến trong đó.
Nhân tố đặc biệt hơn cả NNL đó là yếu tố sức lao động - yếu tố quan
trọng của lực lượng sản xuất, nó đặc trưng cho khả năng phát triển không
ngừng của sản xuất xã hội. Người ta thường quan niệm nhân tố sức lao động
là một phạm trù tổng hợp bao gồm các thành tố: thể lực, trí lực, yếu tố xã hội.
Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, chăm
sóc sức khoẻ và sự rèn luyện của từng con người cụ thể. Thể lực có ý nghĩa
quan trọng, quyết định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con
người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.


14


Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học (khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội), trình độ kiến thức chuyên môn,
kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán sự vật hiện tượng của mỗi
người. Nhờ trí lực, con người đã khai thác, chế ngự thiên nhiên và sử dụng nó
để bảo tồn và phát triển xã hội của mình. Trí lực của con người được phát
triển thông qua giáo dục đào tạo và lao động sản xuất.
Yếu tố xã hội bao gồm những tình cảm, tập quán, phong cách, thói
quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật
nó phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, của lịch sử phát
triển của từng quốc gia, dân tộc.
Tri thức và yếu tố xã hội là hai bộ phận cấu thành hai nhân tố tinh thần,
liên kết chặt chẽ với nhau. Nhân tố tinh thần là kết quả của một quá trình tích
luỹ lâu dài của xã hội, gia đình và từng con người. Sự phát triển kinh tế của
một quốc gia luôn gắn liền với phát triển xã hội. Phát triển những giá trị tinh
thần mới là nền tảng của một quốc gia. Kinh nghiệm thành công trong phát
triển kinh tế Nhật Bản và các nước NICs ở châu á là tiếp thu công nghệ, kỹ
thuật phương Tây trên cơ sở phát huy giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc để
đổi mới và phát triển.
- Đặc trưng về số lượng:
Số lượng NNL được xác định dựa trên qui mô dân số, cơ cấu tuổi, giới
tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Các chỉ tiêu về
số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số.
Các chỉ tiêu về chất lượng của NNL khi được đặt trong tổng thể nền kinh tế
thì có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó trực tiếp phản ánh thực trạng tăng dân
số đến kinh tế: đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, đến vấn đề đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực
- Đặc trưng về chất lượng:
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau:



15

+ Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư: Sức khoẻ là trạng
thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Sức khoẻ là nhân
tố tác động trực tiếp đến cả số lượng và chất lượng NNL. Người lao động có
sức khoẻ tốt có thể mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn nhờ việc huy động sức
mạnh, sự bền bỉ, dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong khi thực hiện công việc.
Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh sức khoẻ của con người là; thể lực (chiều cao,
cân nặng), bệnh tật, tuổi thọ
+ Chỉ tiêu phản ánh trình độ học vấn của người lao động: Đó là sự hiểu
biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã
hội. Trình độ học vấn được biểu hiện bằng tỷ lệ biết chữ, trình độ học vấn
theo nhóm tuổi, theo các cấp độ trong giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp.
+ Chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động:
Trình độ CMKT là sự hiểu biết, khả năng thực hành về CMKT nào đó của
người lao động. Đề án nghiên cứu tổng thể về Giáo dục - Đào tạo và phân tích
nguồn nhân lực Việt Nam do UNESCO, UNDP và Bộ Giáo dục - Đào tạo
thực hiện đã phân loại trình độ CMKT như sau: Trên đại học; Đại học - Cao
đẳng; Trung học chuyên nghiệp; Công nhân kỹ thuật có bằng nghề, Công
nhân kỹ thuật có chứng chỉ nghề. Trong cuốn thực trạng lao động - việc làm ở
Việt Nam hàng năm của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cũng phân loại
trình độ CMKT tương tự.
+ Chỉ số HDI(Human Development Index - HDI): Trong Báo cáo phát
triển con người năm 1990 và Báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra một loạt
các chỉ số để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu con người. HDI là chỉ số
tổng hợp nhất được đưa ra từ năm 1990 và hiệu chỉnh lại vào năm 1999, được
xác định từ 3 chỉ tiêu sau:
 Tuổi thọ tính từ khi sinh ra.



16

 Trình độ giáo dục, tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của người lớn và
các tỷ lệ về đi học tiểu học, trung học và đại học.
 Mức sống đo bằng giá trị GDP tính bình quân đầu người thực tế theo
sức mua tương đương.
+ Các chỉ tiêu phản ánh năng lực phẩm chất của người lao động như: Tập
quán, thói quen, phong cách, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hoá dân tộc
Trong các chỉ tiêu trên, trình độ CMKT là một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất để thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực.
1.1.3. Một số yêu cầu cơ bản đối với hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
a. Một số vấn đề cơ bản về đào tạo
Theo khái niệm phổ biến hiện nay, đào tạo là quá trình tác động đến
một con người, nhằm tạo cho người đó lĩnh hội và nắm vững các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp
phần mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài
người. Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở nhà trường gắn với việc
giáo dục nhân cách; là sự phát triển có hệ thống những kiến thức, kỹ năng mà
mỗi cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể.
Nội dung đó có thể do nhu cầu cá nhân của người được đào tạo hoặc do nhu
cầu phát triển nhân lực của tổ chức.
Hơn nữa đào tạo còn được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích,
có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có
thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả. Quá trình này được
tiến hành chủ yếu trong các cơ sở đào tạo như nhà trường, trung tâm, viện

nhiên cứu hoặc cơ sở sản xuất. Mỗi khoá học có mục tiêu, nội dung, chương


17

trình thành hệ thống hoàn chỉnh, với thời gian quy định phù hợp với các trình
độ khác nhau; cuối khoá học thường được cấp bằng tốt nghiệp hoặc chứng
chỉ.
Về qui trình, ngoài ra còn có " bồi dưỡng" và "đào tạo lại". Đó là quá
trình gắn với hoạt động đào tạo nghề nghiệp và chỉ diễn ra sau khi người tham
gia vào quá trình này đã một lần được đào tạo và công nhận bởi một văn bằng
tương ứng. Đào tạo lại là đào tạo những người đã có nghề, song vì lý do nào
đó nghề đó không phù hợp nữa. Bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm để người lao động có thể đảm nhận công việc phức tạp hơn.
Trong hoạt động đào tạo có hoạt động giáo dục. Giáo dục ở đây được
hiểu là những hoạt động nhằm tăng cường phát triển kiến thức, các giá trị đạo
đức, những hiểu biết mà mỗi người cần có trong cuộc sống. Mục đích của
những hoạt động này tạo điều kiện thiết yếu cho con người hiểu biết truyền
thống, tư tưởng ảnh hưởng đến xã hội, đến nền văn hoá của mình và các nền văn
hoá khác làm cơ sở để giao tiếp và phát huy môi trường trong công tác của họ.
Đào tạo không chỉ là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên
môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo mà còn làm tăng niềm say mê nghề nghiệp
cho người lao động, để họ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt hơn một công
việc nhất định.
Như vậy, khái niệm đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến
thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể
đảm bảo thực hiện được một số công việc nhất định.
b. Một số đặc trưng của hoạt động đào tạo
- Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các bước sau:
+ Xác định nhu cầu đào tạo:

Đối với lĩnh vực, ngành(kinh tế - văn hoá- xã hội), địa phương, cơ
quan, tổ chức là chiến lược và kế hoạch phát triển gắn với nhu cầu phát triển
NNL; là nhu cầu và mục đích của các cá nhân trong cơ quan tổ chức hoặc


18

trong một cộng đồng xã hội sẽ tham dự khoá đào tạo. Xác định nhu cầu đào
tạo là bước đầu tiên rất quan trọng trong hoạt động đào tạo. Bởi vì, đào tạo là
hoạt động đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí tài chính lớn. Nếu đào tạo tốt có
thể thu hồi lại các chi phí đó, mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội, ngược lại
sẽ làm tăng chi phí. Khi đánh giá nhu cầu đào tạo cần xem xét đến nhu cầu
của xã hội, các chương trình phát triển kinh tế nông thôn có tính đến các đặc
thù của từng vùng; yêu cầu về ngành nghề và trình độ; hiện trạng chất lượng
nhân lực. Việc xác định nhu cầu đào tạo của một ngành, lĩnh vực rất có ý
nghĩa cho các cơ sở đào tạo chuẩn bị về nguồn lực đào tạo.
+ Xác định các mục tiêu đào tạo:
Về nhận thức và các thông tin, kiến thức gì mà người học nhận được
khi kết thúc khoá đào tạo; về hành động là những kỹ năng cần có mà người
học có thể làm được sau khoá đào tạo; về tác động là quan điểm hoặc niềm tin
mà người học có được sau khoá đào tạo.
+ Tuyển chọn người được đào tạo:
Đối với cá nhân, quyết định học và lựa chọn ngành học hoặc chương
trình đào tạo nâng cao năng lực là đặc biệt quan trọng cho lập nghiệp trong
tương lai hoặc khả năng thích ứng với sự thay đổi công việc; trên giác độ tổ
chức, lựa chọn đúng người đào tạo sẽ tạo điều kiện cho chính con người đó cơ
hội phát triển đồng thời thúc đẩy sự phát triển đội ngũ lao động và tăng năng
suất lao động cũng như hiệu quả của đầu tư, ngược lại sẽ là chi phí lớn, là sự
lãng phí về thời gian tổ chức và sức lực của người học, lựa chọn người đào
tạo cần căn cứ nhu cầu của tổ chức, nguyện vọng và động lực của người học.

+ Xây dựng nội dung và phương pháp đào tạo:
Cần dựa trên cơ sở của nhu cầu đào tạo, mục tiêu đào tạo để phù hợp
với đối tượng được đào tạo đã xác định; Nội dung đào tạo phải đảm bảo thực
hiện được các mục tiêu của chương trình đào tạo. Lựa chọn phương pháp đào


19

tạo là hết sức quan trọng vì phương pháp đào tạo tốt sẽ nâng cao đáng kể đến
hiệu quả đào tạo.
+ Xác định nguồn lực đào tạo:
Trên cơ sở mục tiêu đào tạo, số lượng đào tạo, nội dung và phương
pháp đào tạo để xác định các nguồn lực thiết yếu về thời gian, nhân lực, địa
điểm, phương tiện và tài chính cho đào tạo.
+ Tổ chức, thực hiện đào tạo.
+ Đánh giá kết quả đào tạo và điều chỉnh hoạt động đào tạo tiếp theo
trên cơ sở các tiêu chí đánh giá về mức độ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của cơ
quan, tổ chức, người học và định hướng tương lai.
- Sự khác biệt giữa khái niệm đào tạo và khái niệm phát triển:
+ Đào tạo về cơ bản tập trung vào việc cung cấp cho người học những
kỹ năng cụ thể hoặc giúp cho họ khắc phục những khiếm khuyết trong công
việc của họ. Phạm vi hoạt động đào tạo chủ yếu hướng vào từng cá nhân và
đào tạo thường có xu hướng thoả mãn nhu cầu trước mắt của tổ chức. Do đó
mục tiêu của đào tạo thường nhanh chóng hoàn thiện kết quả công việc của
người học.
Ngược lại, phát triển mang ý nghĩa rộng hơn, đó là quá trình cung cấp
cho người lao động những khả năng mà tổ chức hay doanh nghiệp cần trong
tương lai. Đội ngũ người lao động có thể được phát triển qua nhiều cách và
đào tạo chỉ là một trong các cách đó. Phạm vi của quá trình phát triển thường
tiếp cận đối với cả nhóm hay cả tổ chức, nghĩa là phát triển có mối quan hệ

với kỹ năng, sự đa dạng của đội ngũ lao động trong tổ chức. Mục tiêu của quá
trình phát triển là làm giàu lực lượng lao động của tổ chức nói chung thông
qua việc chuẩn bị cho họ nhu cầu công việc trong tương lai.
+ Trong văn minh nông nghiệp, "đào tạo" theo kiểu kèm cặp, bắt
chước, trong văn minh công nghiệp là qua trường đào tạo nghề trên một lĩnh


20

vực, theo quy trình chặt chẽ và với thời gian tương đối dài; trong văn minh
hậu công nghiệp, phải được đào tạo nhiều mặt trên một số lĩnh vực.
+ Về học vấn của người lao động: Trong văn minh nông nghiệp là trình
độ tiểu học, trong văn minh công nghiệp tối thiểu tốt nghiệp lớp 9, trình độ sơ
trung, trong văn minh hậu công nghiệp là tốt nghiệp lớp 12 và trình độ cao trung.
- Hình thức đào tạo:
+ Theo hình thức đào tạo có đào tạo chính quy và đào tạo không chính
quy, đào tạo có chứng chỉ văn bằng và đào tạo không có chứng chỉ văn bằng,
đào tạo tại trường và đào tạo tại nơi làm việc trên cơ sở công việc đang làm
+ Hình thức đào tạo chính quy là hình thức ở đó người học được học
tập theo chương trình học có hệ thống theo thứ bậc tuần tự trong hệ thống nhà
trường với thời gian học liên tục, thường xuyên. Người học được học từ đơn
giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, có điều kiện nắm vững các kiến
thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Hình thức đào tạo hiện nay đòi hỏi quy
chuẩn về điều kiện trường, lớp, bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên, trang thiết
bị thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện, chương trình đào tạo, người học
Hình thức đào tạo không chính quy giúp cho mọi người vừa làm vừa học, học
liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện và mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để thích nghi với thay đổi của công việc và
đời sống xã hội.
+ Đào tạo tại nơi làm việc, là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành

ngay trong quá trình sản xuất. Đối với hình thức này, thời gian học tập ngắn,
chủ yếu vừa sản xuất vừa học tập, kiến thức lý thuyết không theo hệ thống,
người dạy nghề thường không chuyên nghiệp. Vì vậy hình thức đào tạo này
chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ lành nghề cao.
+ Đào tạo tại các lớp cạnh doanh nghiệp: Đối với những nghề tương
đối phức tạp, việc đào tạo tại nơi làm việc không đáp ứng được yêu cầu cả về
số lượng và chất lượng. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo


21

cho riêng mình hoặc cho doanh nghiệp cùng ngành. Chương trình đào tạo
gồm 2 phần lý thuyết và thực hành. Ngoài ra còn có hình thức tự học, là hình
thức ở đó con người học thông qua các hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm bản
thân và học qua sách báo, các phương tiện truyền thông tự thu nhận thông
tin và tự xử lý thông tin để tạo ra nhận thức.
+ Còn có thể phân chia theo hình thức đào tạo tập trung, học sinh học
liên tục các học kỳ trong khoá học; đào tạo tại chức, học sinh tập trung theo
định kỳ quy định cho mỗi khoá học; đào tạo từ xa
c. Hệ thống đào tạo và nội dung đào tạo nguồn nhân lực
Luật giáo dục năm 2005 quy định hệ thống giáo dục quốc dân gồm 4
bậc, đó là: Giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông; giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học.
Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực ở đây bao gồm đào tạo qua bậc giáo
dục nghề nghiệp (bao gồm GDCN và Dạy nghề) và đào tạo qua bậc giáo dục
đại học (bao gồm cao đẳng, đại học và sau đại học).
- Giáo dục nghề nghiệp: Nội dung của giáo dục nghề nghiệp phải tập
trung đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức
khoẻ, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo. Kết hợp học lý thuyết
với rèn luyện kỹ năng thực hành, bảo đảm để sau khi tốt nghiệp người học có

khả năng hành nghề.
+ Đào tạo THCN: Mục tiêu của đào tạo của trường trung học chuyên
nghiệp là đào tạo cán bộ thực hành có trình độ trung học về kỹ thuật, nghiệp
vụ, kinh tế giáo dục, y tế và nghệ thuật. Đối tượng đào tạo là học sinh đã tốt
nghiệp trung học cơ sở, phổ thông trung học và cũng có thể tuyển sinh công
nhân, nhân viên nghiệp vụ đã tốt nghiệp các trường dạy nghề cùng ngành
nghề đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp.
Nội dung đào tạo trung học chuyên nghiệp được chia thành 4 nhóm:
Những kiến thức chung; những kiến thức về kỹ thuật cơ sở cho nhóm ngành;


22

những kiến thức về kỹ thuật chuyên môn của ngành và các kỹ năng, kỹ xảo
thực hành cho người công nhân một vài nghề chính của ngành.
+ Đào tạo nghề: Phát triển giáo dục nghề nghiệp theo ba trình độ đào
tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề; học sinh tốt nghiệp trình
độ trung cấp và cao đẳng được cấp bằng nghề tương ứng với trình độ đào tạo.
Tăng khả năng liên thông; phân luồng giữa các bộ phận của hệ thống.
Nội dung đào tạo là tập hợp các hệ thống các kiến thức về văn hoá, xã
hội, khoa học và công nghệ, các kỹ năng và kỹ xảo lao động, các chuẩn mực
về giá trị đạo đức - tư tưởng và nhận thức chúng để đảm bảo sự phát triển
toàn diện nhân cách. Trong đó kỹ năng, kỹ xảo thực hành nghề là phần cơ bản
của nội dung đào tạo. Nội dung đào tạo cơ bản được quy định trong nguyên
tắc xây dựng chương trình đào tạo.
Về phương pháp đào tạo: đào tạo theo môdun là một biện pháp để mềm
hoá quá trình đào tạo, làm cho việc đào tạo trở nên linh hoạt, đáp ứng tốt hơn
cho nhu cầu của người học và người sử dụng lao động. Việc liên thông giữa
các loại hình đào tạo: Đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo nghề dài hạn; đào tạo
nghề trung học chuyên nghiệp - cao đẳng kỹ thuật sẽ dễ dàng thực hiện hơn

khi các chương trình đào tạo được thiết kế theo modun liên thông. Mặt khác,
sử dụng phương pháp này cũng dễ dàng trong việc đào tạo lại và chuyển đổi
giữa các nghề.
- Giáo dục đại học và sau đại học:
+ Đào tạo cao đẳng và đại học: Mục tiêu của giáo dục đại học và cao
đẳng là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, các chuyên gia cho các lĩnh
vực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nội dung của giáo dục đại học và cao đẳng phải đảm bảo thực hiện
nguyên tắc hiện đại và phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, hội nhập chung với trình độ thế giới. Nội dung cụ thể của mỗi lĩnh vực
đào tạo được xác định theo Điều 36 Luật Giáo dục, chú ý sát hợp với yêu cầu


23

của đất nước, vừa cập nhật trình độ quốc tế, áp dụng phương pháp giáo dục
phải thể hiện được các nguyên lý: Lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất. Khuyến khích sự chủ động học tập nghiên cứu, thực
nghiệm của người học kết hợp với việc giảng dạy, hướng dẫn của người thầy.
+ Đào tạo sau đại học gồm hai bậc: Đào tạo thạc sĩ và đào tạo tiến sĩ
dành cho những người đã tốt nghiệp đại học và đáp ứng được nhu cầu tuyển
chọn. Mục tiêu của đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ là đào tạo những chuyên gia giỏi có
khả năng độc lập sáng tạo trong hoạt động chuyên môn, nghiên cứu khoa học.
Khoản 2 Điều 36 Luật Giáo dục quy định: Nội dung giáo dục sau đại
học phải giúp người học phát triển toàn diện kiến thức khoa học cơ bản, kiến
thức chuyên ngành, các bộ môn khoa học Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; phát huy năng lực sáng tạo, phát hiện và giải quyết các vấn đề thuộc
chuyên ngành đào tạo; có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công
nghệ, kinh tế, xã hội của đất nước.
Đào tạo trình độ thạc sĩ phải đảm bảo cho học viên được bổ xung và

nâng cao những kiến thức đã học ở trình độ đại học; tăng cường kiến thức
chuyên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác chuyên môn và nghiên cứu
khoa học trong chuyên ngành của mình.
Đào tạo trình độ tiến sĩ phải đảm bảo cho nghiên cứu sinh nâng cao và
hoàn chỉnh kiến thức cơ bản; có hiểu biết sâu thêm về kiến thức chuyên
ngành; có đủ năng lực tiến hành độc lập công tác nghiên cứu khoa học và
sáng tạo trong công tác chuyên môn.
1.2. Vai trò của đào tạo Nguồn nhân lực của ngành nông nghiệp trong tiến trình Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
1.2.1. Đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
a. Nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của ngành nông nghiệp phục
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp


24

Đào tạo đủ số lượng, chất lượng lao động đáp ứng nhu cầu phát triển
nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá và tăng tỷ trọng chăn nuôi trong sản
xuất nông nghiệp.
Đào tạo NNL có đủ trình độ để nghiên cứu, tiếp thu áp dụng sáng tạo
tiến bộ khoa học trong sản xuất: đảm bảo cho khoa học công nghệ trên các
lĩnh vực nông lâm, thuỷ lợi hội nhập với khu vực và quốc tế, đi tắt đón đầu để
rút ngắn quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, bao gồm:
+ Đào tạo sau đại học: nhằm đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học,
công nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng trong lĩnh vực công
nghệ sinh học, công nhệ thông tin, chuyên gia quản lý tài nguyên môi trường.
+ Đào tạo đại học cao đẳng: nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng
lực thực hiện nội dung CNH, HĐH nông nghiệp và đáp ứng yêu cầu về cán bộ
cho các trung tâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp ở cấp huyện,

vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
+ Đào tạo trung học chuyên nghiệp: nhằm đào tạo đội ngũ lao động kỹ
thuật làm cầu nối giữa kỹ sư và công nhân, có khả năng thực hành nghề và
chuyển giao tiến bộ cho nông nghiệp.
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật bao gồm: Đào tạo dài hạn công nhân kỹ
thuật, công nhân lành nghề có kiến thức cơ bản và qui trình công nghệ mới về
nuôi trồng nông, lâm, thuỷ sản; chăn nuôi, chế biến nông lâm sản, cơ điện
nông nghiệp, vận hành, sửa chữa máy nông, lâm thuỷ lợi. Đào tạo ngắn hạn
các ngành nghề truyền thống và chủ trang trại nhỏ.
Đào tạo giúp người học gắn bó với nông nghiệp, giữ gìn môi trường
sinh thái và phát triển bền vững tài nguyên đất, nước, rừng; góp phần nâng
cao thu nhập và đời sống văn hoá tinh thần, tác phong công nghiệp cho cư dân
làm nông nghiệp.


25

b. Đặc điểm của nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp
Nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp có thể hiểu với tư
cách là nguồn lực cơ bản có tính chất quyết định cho sự phát triển nông
nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ lợi), là lực lượng nòng cốt nghiên cứu
ứng dụng, chuyển giao, sử dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp.
Lực lượng khoa học công nghệ trình độ cao của ngành nông nghiệp bao
gồm trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và
công nhân kỹ thuật về nông nghiệp đang làm việc tại các cơ quan nghiên cứu
khoa học về nông nghiệp; Các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư, khuyến diêm, khuyến công ở trung ương và địa phương; các trường đào
tạo về nông nghiệp, các cơ quản quản lý về nông nghiệp.

c. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp
- Nội dung đào tạo:
Đó là quá trình trang bị kiến thức chuyên môn nghiệp vụ gắn với nội
dung chủ yếu của CNH, HĐH nông nghiệp cho người lao động nhằm đáp ứng
yêu cầu cấp thiết về nhân lực trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp; bao
gồm các cấp độ đào tạo.
+ Giáo dục hướng nghiệp ở trung học phổ thông.
+ Đào tạo ngành nghề nông nghiệp cho nông dân.
+ Đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Đào tạo cao đẳng và đại học.
+ Đào tạo trên đại học: Trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
+ Đào tạo bồi dưỡng cán bộ - công chức của ngành nông nghiệp.

×