Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

THÀNH UỶ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.57 KB, 117 trang )





1






LUẬN VĂN
THÀNH UỶ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH
ĐẠO LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG THÀNH
PHỐ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN




2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Công đoàn, là
chức năng, nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam, là yếu tố đặc
biệt quan trọng, góp phần đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Qua thực tế
cho thấy, ở bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất cứ ngành, địa phương,
đơn vị nào làm tốt chức năng, nhiệm vụ trên đều tập hợp, giáo dục được
đông đảo người lao động, đưa họ tham gia vào phong trào hành động cách
mạng, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,


pháp luật của Nhà nước.
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của khu
vực miền Trung- Tây nguyên. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, kinh tế - xã hội của Thành phố đã phát triển và thu được
những thành tựu quan trọng, góp phần làm nên thành công đó có sự đóng góp
tích cực của lực lượng công nhân lao động, của các tổ chức công đoàn thành
phố. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng, hoạt động của công đoàn thành
phố Đà Nẵng trong những năm qua đã không ngừng được đổi mới: mở rộng
phạm vi đối tượng vận động, đa dạng hóa các loại hình tổ chức cơ sở của
công đoàn; đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động công đoàn
nhằm thu hút đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế gia nhập
công đoàn, làm cho tổ chức công đoàn Thành phố ngày càng lớn mạnh cả về
số lượng và chất lượng,…Mỗi bước trưởng thành và lớn mạnh của công đoàn
đều gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, của Đảng bộ Thành
phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, một số cán bộ, đảng viên và cấp ủy đảng chưa nhận thức
đúng, chưa quan tâm đúng mức đến công tác vận động công nhân, còn lúng
túng trong việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo đối với công đoàn,




3

làm cho hoạt động công đoàn có lúc, có nơi còn nhiều hạn chế. Do đó, để đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc nâng cao chất
lượng và tăng cường sự lãnh đạo của Thành uỷ Thành phố Đà Nẵng đối với
Liên đoàn Lao động Thành phố trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ vô cùng
quan trọng và cấp bách.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài

Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cũng như đối với các
lĩnh vực trọng yếu của đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng, trong giai đoạn hiện nay đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, năng lực lãnh đạo
của Đảng dưới nhiều góc độ, phạm vi, lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Có thể
nêu một số công trình tiêu biểu:
- Lê Văn Lý (chủ biên), Sự lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực
trọng yếu trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
- Đan Tâm, Một số ý kiến về Đảng lãnh đạo và giai cấp công nhân lãnh
đạo trong kinh tế thị trường- Tạp chí Dân vận, 2000, số 3, tr. 11-13.
- Đan Tâm, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công
nhân trong thời kỳ mới. Tạp chí Cộng sản, 1999, số 7, tr. 18-20.
- Thanh Tuyền, Đảng với giai cấp công nhân, Tạp chí Dân vận, 1998,
số 9, tr. 9-11.
- PGS.PTS. Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Bác Hồ với giai cấp công
nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 1999.
- Lê Thanh Hà, Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Lịch
sử Đảng, 2003, số 4, tr. 20-23.
- Cù Thị Hậu, Một số vấn đề về giai cấp công nhân lao động và tổ chức
công đoàn hiện nay, Tạp chí Dân vận, 2005, số 5, tr.6-8.




4

- Nguyễn An Lương, Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt
Nam trước những thời cơ và thách thức mới, Tạp chí Cộng sản, 2003, số 29,

tr.6-10.
- Đỗ Ngọc Ninh, Tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, 2001, số 2, tr.22-25.
- Trần Đình Nghiêm (Chủ biên), Phạm Hữu Tiến, Đức Vượng, Nguyễn
Thế Thắng- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng-Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội 2002, tr.291.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam- Viện Công nhân- Đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam trong
thời kỳ mới - Hà Nội-2002.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam- Viện Công nhân- Xu hướng
biến động của giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI,
NXB Lao động, Hà Nội, 2001.
- Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,
2004, 258 trang.
- Tạp chí Xây dựng Đảng, số chuyên đề, về Phương thức lãnh đạo của
Đảng, Hà Nội, tháng 12/1995.
- Lê Đức Bình, Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 9, năm 2000.
- Trần Bạch Đằng, Mấy vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng,
Tạp chí Cộng sản số 19, năm 1995.
- Nguyễn Kim Dĩnh, Đổi mới hình thức, nội dung xây dựng Nghị quyết
phù hợp với phương thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5,
năm 1999.




5


- Lê Huy Ngọ, Một số vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng, Tạp
chí Cộng sản số 19, năm 1996.
- Lê Thanh, Tỉnh ủy Đồng Nai đổi mới phong cách lãnh đạo, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 5, năm 1993.
- Chu Văn Ry, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở Thái Bình,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3, năm 1992.
- Dương Văn Sao, Thực trạng và những giải pháp đổi mới quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với Công đoàn Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội 2005.
- Thang Văn Phúc- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Tạp chí Cộng sản 2006, số 9, tr. 46.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ
thể và có hệ thống về sự lãnh đạo của Thành ủy Đà Nẵng đối với Liên đoàn
Lao động thành phố giai đoạn hiện nay.
3.Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường sự
lãnh đạo của Thành uỷ Thành phố Đà Nẵng đối với Liên đoàn Lao động
Thành phố trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của
Thành uỷ Thành phố Đà Nẵng đối với Liên đoàn Lao động Thành phố trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Trên cơ sở khoa học, phân tích làm rõ đặc điểm, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.





6

- Làm rõ thực trạng sự lãnh đạo của Thành uỷ Thành phố Đà Nẵng đối
với Liên đoàn Lao động Thành phố trong giai đoạn hiện nay, nêu nguyên
nhân của thực trạng và những kinh nghiệm.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Thành uỷ Thành phố Đà Nẵng đối với Liên đoàn Lao động Thành phố trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Thành uỷ Thành phố Đà
Nẵng đối với Liên đoàn Lao động Thành phố trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu khảo sát từ ngày 01.01.1997 đến nay (tức từ khi
Thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
trong đó có tổ chức công đoàn và công tác vận động công nhân, xây dựng tổ
chức công đoàn của Đảng qua các giai đoạn cách mạng.
- Phương pháp chủ yếu được sử dụng nghiên cứu của đề tài là phương
pháp tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, khảo sát
thực tế…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm quan niệm về sự lãnh đạo của thành ủy Đà
Nẵng đối với Liên đoàn Lao động thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng.
- Đề ra những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của thành ủy
Đà Nẵng đối với Liên đoàn lao động thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để Thành ủy Đà Nẵng làm
căn cứ đề ra những chủ trương, biện pháp chỉ đạo hoạt động của hệ thống




7

công đoàn thành phố những năm tới, nhất là chuẩn bị cho đại hội Công đoàn
các cấp, tiến tới Đại hội Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần thứ X,
nhiệm kỳ 2008-2013.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
THÀNH UỶ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG THÀNH PHỐ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

1.1. Đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thành ủy Đà
Nẵng và của Liên đoàn Lao động Thành phố Đà Nẵng
1.1.1. Đặc điểm, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Thành ủy Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên 1.256,24km²1; phía Bắc giáp
tỉnh Thừa thiên - Huế, phía Nam và Tây giáp tỉnh Quảng Nam. Thành phố
nằm ở vào trung độ của đất nước, nằm trên trục giao thông Bắc- Nam về
đường bộ (quốc lộ 1A), đường sắt, đường biển, đường hàng không. Đà Nẵng
là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây nguyên và đến các
nước Đông Bắc Á. Những năm đến khi thực hiện tự do hóa thươnng mại và
đầu tư khu vực ASEAN thì vị trí địa lý thành phố cảng là lợi thế quan trọng

tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh
trong vùng duyên hải miền Trung, Tây nguyên, cả nước và nước ngoài, là tiền
đề quan trọng để các ngành kinh tế của thành phố phát triển, tạo lực để thành
phố trở thành một trong những trung tâm phát triển của vùng trọng điểm miền
Trung. Đồng thời chính yếu tố vị trí địa lý này cũng đặt ra những thách thức
phải vượt qua để phát triển nhanh nền kinh tế, nhất là nền kinh tế mũi nhọn




8

theo thế mạnh đặc thù có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Đà Nẵng nói riêng và vùng trọng điểm miền Trung nói chung.
Thành phố Đà Nẵng có 781.000 người, dân số 6 quận nội thành chiếm
78,94%, dân số trọng độ tuổi lao động chiếm 53,5%. Tổng số lao động làm
việc trong các ngành kinh tế quốc dân của thành phố là 303.305 người. Lao
động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 30,21%; lao động công nghiệp và xây
dựng chiếm 37,96%; lao động dịch vụ chiếm 37,96%. Số lao động chưa có
việc làm chiếm khoảng 6%.
Thành ủy Đà Nẵng được thành lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, trên
cơ sở tách ra từ tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cũ, khi thành phố chính thức
trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Ban Chấp hành có 49
người, Ban thường vụ có 13 người, Ủy ban kiểm tra có 10 người. Thành ủy có
19 đảng bộ trực thuộc, cụ thể như sau:
Khối quận, huyện có 7 đơn vị, trong đó có 6 quận và 01 huyện với
18.363 đảng viên.
Đảng ủy khối có 02 đơn vị, đó là đảng bộ Dân Chính Đảng và đảng bộ
khối Doanh nghiệp có 4.369 đảng viên.
Các đảng ủy trực thuộc có 10 đơn vị, với tổng số 4.982 đảng viên.

Tổng số tổ chức cơ sở đảng là 582.
Về bộ máy, các ban đảng và cơ quan trực thuộc Thành ủy có 7 đơn vị;
Các đoàn thể chính trị - xã hội có 6 đơn vị, cơ sở và tương đương có 24 đơn vị.
Về đảng viên, tổng số đảng viên đảng bộ thành phố là 31.359 người;
trong đó có 10.430 nữ chiếm 32,9%.
Về trình độ lý luận chính trị: đảng viên có trình độ cử nhân chính trị
773 người chiếm tỷ lệ 2,46%, đảng viên có trình độ cao cấp có 2525 người
chiếm tỷ lệ 8,05% [nguồn Ban Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng].
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng giàu truyền thống cách mạng, cần cù,
đoàn kết, sáng tạo, đã lập nhiều chiến công trong các cuộc kháng chiến cứu
nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống




9

nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau ngày thành
phố trực thuộc Trung ương, đảng bộ và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực vượt
qua nhiều khó khăn, thử thách xây dựng thành phố phát triển nhanh và tương
đối bền vững.
Thời gian qua, Đảng bộ thành phố đã đoàn kết, thống nhất, vừa tập
trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú trọng công tác xây dựng
Đảng. Đảng bộ đã có nhiều cách làm mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ.
Công tác chính trị, tư tưởng được quán triệt là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của Đảng bộ. Cán bộ chủ chốt các cấp thường xuyên đối thoại với
nhân dân, trực tiếp giải quyết các vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn. Đảng
bộ chú trọng nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tổng kết thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thành ủy đã triển khai nhiều biện
pháp nhằm tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, kiên quyết chống các hành vi cửa quyền, hách dịch đối với nhân dân của
cán bộ, công chức các cấp; coi đây là giải pháp đột phá, có ý nghĩa quan trọng
trong việc tăng cường sự đồng thuận của nhân dân và của xã hội, củng cố
niềm tin của nhân dân đối với đảng bộ và chính quyền thành phố. Đa số đảng
viên giữ được lập trường quan điểm và trung thành với chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ chí Minh và sự nghiệp đổi mới của Đảng, có ý thức tổ
chức kỷ luật, gắn bó với nhân dân, phấn đấu khắc phục khó khăn để hoàn
thành nhiệm vụ.
Thành ủy đã chú trọng củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của hệ thống chính trị các cấp. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo
và đạt được một số kết quả. Đặc biệt là việc triển khai có hiệu quả chính sách
thu hút, tuyển dụng, bố trí cán bộ có trình độ cao và sinh viên khá, giỏi vào




10
làm việc trong các cơ quan đảng, chính quyền đi đôi với việc khẩn trương
chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ cao cho thành phố trong giai đoạn mới.
Phương thức lãnh đạo của Thành ủy và các cấp ủy trực thuộc đã có nhiều tiến
bộ, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, sâu sát cơ sở, tạo sự đồng thuận
của xã hội. Nhìn chung, đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã thể hiện khá rõ vai trò
lãnh đạo của mình trong hệ thống chính trị, có uy tín cao đối với nhân dân,
được nhân dân tin tưởng.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Liên đoàn lao động thành phố Đà Nẵng
Điều lệ Công đoàn Việt Nam được Đại hội Lần thứ IX Công đoàn Việt
Nam thông qua ngày 13 tháng 10 năm 2003 ghi rõ:
" Điều 28: Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố.

1. Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố được tổ chức theo địa giới hành
chính tỉnh, thành phố do Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
quyết định thành lập hoặc giải thể phù hợp với các quy định của Luật Công đoàn.
2. Đối tượng tập hợp của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố gồm
đoàn viên, CNVCLĐ trên địa bàn.
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố chỉ đạo trực tiếp các Liên đoàn Lao
động huyện, Công đoàn ngành địa phương, Công đoàn Tổng công ty (thuộc
tỉnh, thành phố), Công đoàn khu công nghiệp và các Công đoàn cơ sở, nghiệp
đoàn trực thuộc (kể cả Công đoàn cơ sở các đơn vị của Trung ương không có
Công đoàn ngành Trung ương hoặc Công đoàn Tổng Công ty).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng
Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố:
a) Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn.
b) Đại diện, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, CNVCLĐ trên địa bàn.




11
c) Triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp
hành, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Nghị
quyết đại hội Công đoàn tỉnh, thành phố; các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tham gia với cấp uỷ
Đảng, cơ quan Nhà nước tỉnh, thành phố về các chủ trương, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề có liên quan đến đời
sống, việc làm và điều kiện làm việc của CNVCLĐ trên địa bàn. Tổ
chức phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động xã hội của
CNVCLĐ trên địa bàn.

d) Phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước, Công
đoàn ngành Trung ương tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật và các chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ trong các
cơ quan doanh nghiệp. Tham gia hội đồng trọng tài lao động ở địa
phương, hướng dẫn và chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp lao động,
tham gia điều tra tai nạn lao động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng người lao động trong các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
đ) Chỉ đạo các Công đoàn ngành địa phương, Công đoàn Tổng
công ty (thuộc tỉnh, thành phố), Liên đoàn Lao động huyện quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Công đoàn các khu công nghiệp và cấp
tương đương thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại điều 21, 22,
23 và 24 của Điều lệ này.
e) Hướng dẫn, chỉ đạo các Công đoàn cơ sở của Tổng công ty
thuộc Trung ương và các Công đoàn cơ sở trực thuộc Công đoàn ngành
Trung ương đóng trên địa bàn thành phố những nội dung sau đây:
- Triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, các chủ trương, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước ở địa
phương; kiểm tra, thanh tra lao động; điều tra các vụ tai nạn lao




12
động; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp lao động; đại diện bảo
vệ người lao động trước người sử dụng lao động, cơ quan Nhà nước
và trong quá trình tham gia tố tụng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chế độ, chính sách đối với người lao động.
f) Tổ chức giáo dục nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp
cho CNVCLĐ, tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao,

quản lý các nhà văn hoá công nhân, công đoàn; tổ chức các trung
tâm giới thiệu việc làm, văn phòng tư vấn pháp luật theo quy định
của Nhà nước và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
g) Thực hiện quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
thực hiện chính sách cán bộ theo phân cấp của tỉnh uỷ, thành uỷ và
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
h) Hướng dẫn, chỉ đạo đại hội các Công đoàn cấp dưới; xây
dựng Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh.
i) Thực hiện quan hệ đối ngoại theo quy định của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam [58, tr. 46-50].
 Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng có chức năng và nhiệm vụ:
- Tập hợp, vận động CNVC,LĐ trên địa bàn đẩy mạnh phong trào thi
đua "Lao động giỏi", "Lao động sáng tạo" và các phong trào thi đua khác, đẩy
mạnh việc thực hành tiết kiệm, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội
của Thành phố:
Trong những năm qua Công đoàn thành phố luôn chủ động đẩy mạnh
các phong trào thi đua trong CNVC,LĐ thành phố cũng như hưởng ứng 3
phong trào thi đua của Tổng Liên đoàn Việt Nam phát động, nhất là phong
trào " Lao động giỏi với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, bảo đảm an toàn
vệ sinh lao động"; " Học tập nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá" và nhiều phong trào cụ thể khác gắn liền vào những
dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn. Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng với




13
những nội dung, tiêu chí cụ thể, phù hợp với từng loại hình cơ sở và người lao
động; phong trào "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" trong nữ công nhân viên
chức lao động, phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp, phát triển nông thôn,

phong trào thực hiện công trình sản phẩm mới, phong trào xây dựng nếp sống
văn hoá, văn minh đô thị. Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, Công đoàn được
giao nhiệm vụ nòng cốt trong việc tuyên truyền đoàn viên, CNVC,LĐ thực
hiên mục tiêu thành phố "05 không " (không có hộ đói; không có người
nghiện ma tuý trong cộng đồng; không có người mù chữ; không có người
lang thang xin ăn; không có giết người để cướp của) và " 3 có" (có nhà ở, có
việc làm, có nếp sống văn hoá, văn minh đô thị) đã khơi dậy ý thức trách
nhiệm, tinh thần vươn lên giảm bớt đói nghèo và nếp sống đẹp trong
CNVC,LĐ. Trong 10 năm, Liên đoàn Lao động thành phố đã 18 lần phát
động thi đua với sự tham gia hưởng ứng của gần 100% công đoàn các cấp. Đã
có gần 1000 công trình và hạng mục công trình đăng ký thi đua với giá trị đầu
tư hơn 2.000 tỷ đồng. có gần 10.000 sáng kiến cải tiến được áp dụng trong các
lĩnh vực. Có 73 CNVC,LĐ được tặng bằng lao động sáng, có gần 3000 sản
phẩm mới hoàn thành với chất lượng cao để phục vụ người tiêu dùng. Tạo
được 48 giải pháp kỹ thuật, 6 giải pháp đoạt giải toàn quốc. thông qua các
phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến và
được nhân rộng trên toàn thành phố góp phần đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh
tế - xã hội của thành phố với giá trị GDP tăng bình quân trên 10% mỗi năm.
- Tuyên truyền giáo dục, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố:
Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, Ban Dân vận, Ban Tuyên giáo Thành uỷ
Đà Nẵng, Liên đoàn Lao động thành phố đã triển khai công tác tuyên truyền
giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho CNVC,LĐ trên
địa bàn thông qua 5 bài chính trị cơ bản, phát động những đợt thi tìm hiểu về




14
Đảng, Công đoàn Việt Nam. Trong 10 năm có gần 500.000 lượt CNVC,LĐ

học tập 5 bài chính trị cơ bản.
Liên đoàn Lao động thành phố đã duy trì thường xuyên các hoạt động
của Nhà Văn hoá và đang xây dựng Trung tâm Văn hoá Lao động và Dịch vụ
việc làm, tạo điều kiện cho người lao động có nơi vui chơi giải trí, được đào
tạo nghề miễn phí để hoà nhập với công việc đang ngày một đòi hỏi chuyên
môn cao.
- Chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
CNVC,LĐ; phát huy quyền dân chủ của CNVC,LĐ theo tinh thần nghị quyết
Trung ương III (Khóa IX) ; tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện chế
độ, chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với người lao động:
Việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao
động là chức năng cơ bản của Công đoàn, vì vậy Liên đoàn Lao động thành
phố đã chủ động tham gia với Uỷ ban nhân dân thành phố xây dựng, bổ sung,
sửa đổi các chế độ, chính sách liên quan đến CNVC,LĐ và tổ chức công đoàn
như tiền lương, tiền thưởng, sắp xếp lao động dôi dư, sắp xếp đổi mới doanh
nghiệp, cổ phần hoá doanh nghiệp, thực hiện chế độ BHXH, Bảo hiểm y tế,
phụ cấp ca 3, phụ cấp độc hại,… cho người lao động.
Liên đoàn Lao động thành phố đã chỉ đạo công đoàn cơ sở trực thuộc
theo dõi chặt chẽ việc cổ phần hoá, nhằm sắp xếp thoả đáng số lao động dôi
dư trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, góp phần bảo đảm sản
xuất, kinh doanh nâng cao hiệu quả công tác, góp phần nâng cao thu nhập cho
người lao động. chỉ đạo công đoàn trực thuộc, hằng năm chủ động phối hợp
với chính quyền và chuyên môn mở Hội nghị cán bộ công chức và Đại hội
công nhân viên chức nhằm lắng nghe những thắc mắc của CNVC,LĐ giải
quyết kịp thời ý kiến, kiến nghị của người lao động làm cho người lao động
yên tâm, tin tưởng, gắn bó với đơn vị, với công việc nhiều hơn.





15
Liên đoàn Lao động thành phố chủ động phối hợp với các ngành chức
năng tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện Bộ Luật Lao động, Luật Công
đoàn và các chính sách chế độ nhằm bảo đảm quyền lợi của CNVC,LĐ. Công
đoàn đã chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết kịp thời hơn
500 vụ tranh chấp lao động, gần 200 vụ phản ứng lao động tập thể, và hàng
chục vụ đình công.
Chỉ đạo các cấp công đoàn chăm lo, tạo thêm việc làm cho người lao
động. Liên đoàn còn tín chấp, bảo lãnh cho CNVC,LĐ vay từ nguồn vốn quỹ
quốc gia hỗ trợ việc làm với số tiền hơn 10 tỷ đồng, hỗ trợ việc làm cho hàng
ngàn lao động.
- Tham gia các hoạt động xã hội:
Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, Liên đoàn Lao động thành phố đã chỉ
đạo đẩy mạnh các hoạt động xã hội rộng khắp với nhiều nội dung sinh động,
phong phú, đem lại hiệu quả thiết thực. Các cấp công đoàn đã tập trung vào
việc xây dựng các loại quỹ tình nghĩa, nhân đạo, giải quyết việc làm với hàng
chục tỷ đồng, góp phần quan trọng váo chương trình xoá đói giảm nghèo
trong CNVC,LĐ. Người lao động đã tự nguyện đóng góp phụng dưỡng 619
bà mẹ Việt Nam anh hùng, tặng gần 600 sổ tiết kiệm cho các đối tượng chính
sách, xây dựng, sửa chữa được hơn 230 ngôi nhà tình nghĩa, đóng góp ủng hộ
đồng bào bị bão lụt, thiên tai hàng chục tỷ đồng.
Động viên CNVC,LĐ toàn thành phố hưởng ứng mua công trái, đóng
góp xây dựng cầu sông Hàn, ủng hộ nông dân nghèo, ủng hộ nạn nhan chất
độc màu da cam, xây dựng trường học miền núi, chữa bệnh cho người nghèo
ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng, hàng chục tỷ đồng,…
- Công tác vận động CNVC,LĐ tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ
máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tham gia công cuộc cải cách hành
chính, chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác:





16
Trong 10 năm đã phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu cho Đảng kết nạp được
hơn 4000 đảng viên, 12/14 Chủ tịch LĐLĐ quận, huyện và công đoàn ngành
được bầu vào cấp uỷ, có hơn 80% cán bộ công đoàn cơ sở tham gia cấp uỷ.
Tham gia cùng chính quyền sắp xếp bộ máy hành chính, tinh giảm biên
chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, vận động CNVC,LĐ tham gia
cải cách hành chính, thực hiện chống quan liêu, tham nhũng tại đơn vị. Tập
trung cái tiến lề lối làm việc, xây dựng tác phong công nghiệp, khoa học trong
công tác.
Thường xuyên tổ chức các diễn đàn để cho công nhân phát biểu ý kiến,
giúp cho các cấp lãnh đạo đảng, chính quyền thấu hiểu được tâm tư tình cảm
và nguyện vọng của người lao động. Với chương trình thực hiện thường
xuyên tại các diễn đàn " Nghe công nhân nói và nói cho công nhân nghe" đã
giúp cho Đảng và công nhân gần gũi và hiểu nhau hơn. Đồng thời cũng giúp
cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội định đoạt những chính
sách đúng đắn hơn.
- Xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh, nâng cao năng lực hoạt
động của cán bộ công đoàn các cấp:
Trong những năm qua, các cấp công đoàn đã luôn coi trọng công tác
phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức công đoàn nhờ thế mà số lượng
đoàn viên và tổ chức công đoàn tăng lên hằng năm.
Xác định việc nâng cao trình độ của CNVC,LĐ nói chung và cán bộ
công đoàn nói riêng có ý nghĩa quyết định cho thời kỳ CNH,HĐH thành phố,
nên trong 10 năm đã có 9800 lượt cán bộ công đoàn các cấp tham gia tập
huấn nâng cao nghiệp vụ công đoàn, cử 36 cán bộ chuyên trách đi học nghiệp
vụ Công đoàn, quản lý nhà nước, lý luận chính trị, trong đó có 02 người học
cao học.





17
- Chỉ đạo các hoạt động kiểm tra: Liên đoàn Lao động thành phố hằng
năm đã không ngừng hoàn thiện công tác kiểm tra công đoàn các cấp.
Trong 10 năm qua UBKT công đoàn các cấp đã tiến hành hơn 1000
cuộc kiểm tra, giúp cho hoạt động công đoàn các cấp ngày một hiệu quả.
Ngoài ra, UBKT còn tổ chức kiểm tra việc thu chi, quản lý tài chính, tài sản
công đoàn. Nhờ thế mà hoạt động tài chính công đoàn ngày càng lành mạnh,
tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Triển khai, tập huấn luật Khiếu
nại tố cáo và các quy định của UBKT Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
giúp cơ sở hoạt động đúng chuyên môn và luật định. Trong 10 năm đã thụ lý,
giải quyết hơn 500 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong công nhân, viên chức, lao
động, làm cho người lao động tin tưởng hơn vào tổ chức công đoàn.
- Tổ chức các phong trào nữ CNVC,LĐ và hoạt động nữ công các cấp:
Liên đoàn lao động thành phố thường xuyên phối hợp với Hội Liên
hiệp phụ nữ thành phố đề ra các chương trình cũng như phát động các phong
thi đua trong nữ CNVC,LĐ toàn thành phố. Đặc biệt, phong trào thi đua " giỏi
việc nước, đảm việc nhà" thu được nhiều kết quả cụ thể, thiết thực. Công
đoàn đã phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố đề ra những chủ trương,
chính sách, chế độ tốt nhất để bảo vệ phụ nữ và trẻ em. triển khai các hoạt
động vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới, về sức khoẻ sinh sản,…
1.1.4. Đặc điểm và thực trạng của Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng
Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng được thành lập từ 01 tháng 01
năm 1997, trên cơ sở tách ra từ Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Nam- Đà
Nẵng, khi thành phố Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung
ương. Trong 10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ Đà Nẵng và của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Lao động thành phố không

ngừng phát triển cả số lượng và chất lượng. Từ đầu năm 1997, Liên đoàn Lao




18
động Thành phố Đà Nẵng chỉ có 49.732 đoàn viên, đến nay đã có 14 công
đoàn ngành, quận, huyện và 44 công đoàn cơ sở trực thuộc với 76.823
CNVC,LĐ trong đó có 59.085 đoàn viên Nguồn Ban Tổ chức Liên đoàn Lao
động Thành phố Đà Nẵng.
Cụ thể có 7 công đoàn ngành địa phương, trong đó có 01 Công đoàn
các khu công nghiệp và chế xuất. 7 Liên đoàn Lao động quận, huyện và 22
công đoàn cơ sở trực thuộc.
Liên đoàn Lao động trực tiếp chỉ đạo các phong trào Công đoàn, xây
dựng tổ chức công đoàn địa phương, vận động đoàn viên CNVC,LĐ tham gia
tốt các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện tốt các lĩnh vực kinh tế - xã
hội trong địa phương, góp phần tăng GDP của thành phố, giải quyết tốt công
ăn việc làm cho người lao động, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của
người lao động.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2006, Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng
có 756 công đoàn cơ sở, trong đó được chia ra như sau:
- Khu vực Nhà nước: có 614 công đoàn cơ sở.
- Khu vực ngoài quốc doanh: có 142 công đoàn cơ sở. Trong đó:
Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập: 16 công đoàn cơ sở.
Đơn vị sản xuất kinh doanh, gồm 126 công đoàn cơ sở. Trong đó:
Liên doanh với nước ngoài có 10 công đoàn cơ sở.
100% vốn nước ngoài có 21 công đoàn cơ sở.
Công ty cổ phần có 35 công đoàn cơ sở.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có 30 công đoàn cơ sở.
Công ty tư nhân có 9 công đoàn cơ sở.

Hợp tác xã có 9 công đoàn cơ sở.
Nghiệp đoàn có 01 nghiệp đoàn.
Có 35.385 CNVC,LĐ ngoài quốc doanh Nguồn Ban Tổ chức Liên
đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng.




19


Thực trạng đội ngũ công nhân thành phố Đà Nẵng:
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ công nhân thành phố
Đà Nẵng không ngừng được củng cố và phát triển. Những năm gần đây, sự
phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp trên địa bàn thành phố đã xuất hiện
những ngành nghề mới, công nghệ mới hiện đại dẫn đến việc sắp xếp lại các
doanh nghiệp, bố trí lại sản xuất cho phù hợp với tình hình mới, đã làm cho
một bộ phận công nhân lao động chuyển dịch sang các thành phần kinh tế
khác, nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tạo sự biến đổi sâu sắc về số
lượng và cơ cấu đội ngũ công nhân lao động, đa dạng về loại hình và phong
phú về ngành nghề v.v
Từ năm 1997 đến nay, thành phố đã xây dựng 45 nhà máy, xí nghiệp và
đã tạo điều kiện cho gần 10.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh đi vào hoạt động với khoảng 133.000 công
nhân lao động (trong đó khu vực quốc doanh chiếm khoảng 52,93%) đến đầu
năm 2004 thành phố Đà Nẵng có 44 doanh nghiệp Nhà nứơc, 122 doanh
nghiệp cổ phần; 1.337 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn; 922 doanh nghiệp
tư nhân; 57 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số 75.732 công
nhân lao động trong đó tỷ lệ công nhân nữ chiếm 59,17% [Nguồn Ban Kinh tế
chính sách-xã hội Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng.

Đây là lực lượng chủ yếu sản xuất vật chất, hàng năm đã làm ra một
khối lượng sản phẩm chiếm tỷ trọng hơn 60% tổng sản phẩm địa phương.
Qua tổ chức lại sản xuất - kinh doanh, sắp xếp lại doanh nghiệp, bộ
máy quản lý Nhà nước đã có khoảng 3 vạn công nhân, viên chức, lao động rời
khỏi nhà máy, cơ quan, xí nghiệp chuyển sang các thành phần kinh tế khác
hoặc mất việc làm
Điều đáng chú ý là bên cạnh kinh tế quốc doanh, công nhân lao động
trong các thành phần kinh tế khác có xu hướng phát triển mạnh. Hiện nay
thành phố có trên 18.000 lao động thuộc khu vực HTX, TTCN, thương mại




20
dịch vụ với các loại hình, ngành nghề như xây dựng, giao thông vận tải, sản
xuất dịch vụ và có hơn 10.000 lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Tại thành phố Đà Nẵng qua điều tra cho thấy công nhân lâu năm, thợ
bậc cao trong các doanh nghiệp Nhà nước giảm mạnh, lực lượng công nhân
trẻ, kết cấu nhiều thành phần, đa dạng tăng nhanh. Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài thật sự đã thu hút được lực lượng lao động trẻ, công nhân giỏi, thợ
bậc cao và đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật trên nhiều lĩnh vực.
Về chất lượng, đội ngũ công nhân viên chức lao động (CNVC - LĐ)
thành phố đến nay được nâng lên nhiều mặt. Nhìn chung tuổi đời trẻ, lao động
dưới 30 tuổi chiếm 33,71%, từ 30 đến 40 tuổi chiếm 46,51%, có 76, 35% đạt
trình độ trung học phổ thông trở lên trong đó có 27,27% có trình độ đại học
và trên đại học nguồn Ban Kinh tế, chính sách- xã hội Liên đoàn Lao động
thành phố Đà Nẵng nên có khả năng tiếp cận nhanh với khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại
Tuy nhiên, đội ngũ CNVC - LĐ hiện còn bộc lộ những điểm yếu đó

là: Trình độ học vấn, tay nghề, ý thức kỷ luật lao động và tác phong công
nghiệp của công nhân lao động (CNLĐ) trực tiếp sản xuất nhìn chung còn
thấp, nhất là trong các ngành dệt may, da giày, xây dựng, dịch vụ, du
lịch,… tỷ lệ thợ lành nghề, thợ bậc cao còn thấp, số lao động giản đơn,
chưa qua đào tạo còn cao.
* Về việc làm và điều kiện làm việc của CNVC - LĐ:
Theo thống kê của Liên đoàn lao động thành phố Đà Nẵng tháng
6/2003 số CNVC - LĐ có việc làm thường xuyên là 94%, số lao động thiếu
việc làm 6%, lao động tuyển mới 7,86%. Tuy vậy, các yếu tố mất ổn định về
việc làm do sắp xếp lại SXKD, diễn biến phức tạp của thị trường trong nước,
khu vực và thế giới, một số chủ doanh nghiệp (ngoài quốc doanh) thường xuyên




21
thay đổi tuyển dụng CNLĐ để trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ đối với người
lao động theo luật định luôn dẫn đến nguy cơ mất việc làm trong CNLĐ.
Qua báo cáo các doanh nghiệp và qua kiểm tra thực tế cho thấy:
Một số nơi điều kiện làm việc còn rất xấu, không đảm bảo vệ sinh môi
trường và an toàn lao động, nhất là các doanh nghiệp dân doanh (doanh
nghiệp tư nhân) Vì vậy, nguy cơ không bảo đảm an toàn lao động là rất cao,
môi trường lao động bị ô nhiễm nặng các yếu tố độc hại (bụi, hơi khí độc,
tiếng ồn, độ rung, bức xạ ) vượt quá giới hạn cho phép. Từ 1998 đến 2003
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã xảy ra 659 vụ tai nạn lao động, số người
chết vì tai nạn lao động là 36 người. Do điều kiện môi trường lao động xấu,
khắc nghiệt dẫn đến bệnh nghề nghiệp gia tăng cả về số loại bệnh và công
nhân lao động mắc bệnh, sức khoẻ của công nhân lao động, nhất là lao động
nữ ở một số ngành như: (chế biến thuỷ sản, may, dệt, da giày, xây dựng )
Kết quả thống kê hàng năm cho thấy 60% công nhân lao động được khám

bệnh định kỳ, phát hiện 16,32% CNVC - LĐ mắc bệnh nghề nghiệp phải điều
trị, 7,08% được xác định bệnh nghề nghiệp.nguồn Ban Kinh tế, chính sách-
xã hội Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng 


Tình hình thu nhập và đời sống của công nhân viên chức lao động:
Tình hình tiền lương, thu nhập và đời sống của đại đa số CNVC - LĐ
thành phố có được cải thiện hơn, thu nhập bình quân hàng năm của CNLĐ
tăng từ 10% đến 35% nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu bình thường của
cuộc sống. Tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức trong
khu vực hành chính sự nghiệp tương đối ổn định, nhưng đời sống còn khó
khăn. Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiền lương không ổn định và
thấp vào thời điểm tháng 6/2006 phổ biến từ 600.000đ đến 900.000đ
/người/tháng.




22
Thu nhập và đời sống của CNVC - LĐ trong những năm qua vẫn chỉ ở
mức trung bình, vừa đủ trang trải cho việc ăn, ở hàng ngày, chưa có tích luỹ
để chăm sóc sức khoẻ, đầu tư cho học hành của con cái, mua sắm các tiện
nghi phục vụ sinh hoạt gia đình, cải thiện nhà ở,v.v
Một điều đáng quan tâm là sự chênh lệch lớn về thu nhập các ngành
nghề, các khu vực và ngay cả trong cùng một ngành nghề còn khá phổ
biến. Trong đó, có phần do cơ chế, chính sách quản lý quỹ tiền lương, tiền
thưởng ở các đơn vị rất khác nhau tạo nên sự bất hợp lý, thiếu công bằng
như giữa những người làm việc trong một số ngành có lợi thế độc quyền
thu nhập cao so với đông đảo CNVC - LĐ ở các ngành khác (Mức chênh
lệch từ 3-5 lần, thậm chí có lĩnh vực gấp 10 lần), nên dẫn đến sự phân hoá

giàu nghèo ngay trong đội ngũ CNVC - LĐ và trong xã hội ngày càng sâu
sắc. Tiền lương chưa thực sự trở thành động lực của người lao động và
nhất là chưa thu hút được nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị
Nhà nước.


Trình độ học vấn, tay nghề công nhân lao động:
Đặc điểm của Đà Nẵng là thành phố lớn của khu vực Miền Trung và
Tây Nguyên, tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp. Do tốc độ đô thị hoá ngày càng cao nên lực lượng lao động Đà Nẵng
nói chung, CNVC - LĐ Đà Nẵng nói riêng có tay nghề và kiến thức văn hoá
vào loại cao của khu vực, thể hiện qua số liệu điều tra năm 2001 của Liên
đoàn lao động thành phố như sau:
Về trình độ học vấn của CNLĐ: Trung học phổ thông 67,87%; Trung
học cơ sở 29,23%; Tiểu học 2,73%; số công nhân mù chữ 0,03%. Qua kết qủa
điều tra nhận thấy mặc dù trình độ văn hoá của CNLĐ thành phố tuy cao so
với khu vực song trong điều kiện thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH, sử dụng
thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại hóa vẫn còn có công nhân mù chữ, số




23
CNLĐ có trình độ tiểu học, THCS là con số quá lớn. Điều đó đặt ra cho các
cấp phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ học vấn cho CNLĐ.
Trình độ chuyên môn, tay nghề của công nhân lao động: sơ cấp nghề
25,75%; Trung học chuyên nghiệp 14,01%; đại học, cao đẳng 14,07%; trên
đại học 0,23%; công nhân kỹ thuật 20,9%.
Kết quả cho thấy số công nhân có trình độ sơ cấp nghề còn quá lớn, số
công nhân kỹ thuật còn ít cần tiếp tục đào tạo.

Trình độ bậc thợ công nhân lao động:
Bậc 1: 6,39%; Bậc 2: 10,74%; Bậc 3: 11,24%; Bậc 4: 18,3%; Bậc 5:
9,51%; Bậc 6: 4,79%; Bậc 7: 2,02%
Tỉ lệ bậc thợ thấp (Bậc 1,2) còn khá lớn chiếm 17,13%, số thợ bậc cao
còn quá ít (Bậc 6,7) chiếm 6,81%  Ban Kinh tế chính sách - xã hội Liên đoàn
Lao động thành phố Đà Nẵng.


Tình hình chính trị, tư tưởng trong công nhân, viên chức, lao động:
Hiện nay tỷ lệ đảng viên trong CNLĐ chiếm khoảng 20%, tỉ lệ đoàn
viên công đoàn chiếm 70% trong CNLĐ (Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có 9/57 doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng, có 17/57 doanh
nghiệp có tổ chức công đoàn). Hàng năm có trên 75% CNVC - LĐ được học
tập chính trị, pháp luật và các nghị quyết của Đảng, Nhà nước. Từ năm 1998
đến 2003 các cấp công đoàn thành phố đã giới thiệu 5.752 đoàn viên ưu tú
cho Đảng và đã có 2.943 đoàn viên được kết nạp Đảng (đạt tỷ lệ 51%), có
11,8% CNVC - LĐ theo học trung cấp, cao cấp, cử nhân chính trị Nguồn
Ban Tổ chức Liên đoàn Lao động thành phố Đà Nẵng.
Trong cơ chế thị trường, phần lớn công nhân xoá bỏ được tư tưởng bao
cấp, tâm lí trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Họ đã dần hình thành ý thức mới, ý
thức tự lực, tự cường vươn lên khẳng định mình, tự kiếm sống, kiếm việc làm,
tham gia vào quá trình đào tạo, đào tạo lại để đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Họ




24
đã tự chủ trong sản xuất, kinh doanh sống bằng bàn tay, khối óc của chính
mình, nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học - kỹ thuật công nghệ
hiện đại, từ đó đã bắt đầu hình thành về " Giá trị kinh tế " của bản thân thông

qua lao động. Tâm lý lấy lợi ích, nhu cầu thiết thực làm động lực, hành vi là
một nét mới đang từng bước trở thành phổ biến trong công nhân. Trong hoạt
động của doanh nghiệp, người công nhân muốn được dân chủ hơn, được bàn
bạc cùng giải quyết những vấn đề phương hướng sản xuất kinh doanh, tiền
lương, tiền công, phúc lợi của doanh nghiệp và những vấn đề liên quan đến
việc làm và đời sống của họ. Người công nhân muốn được học tập, nâng cao
trình độ học vấn, tay nghề, được đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng; mong được sống và làm việc trong môi trường trật tự, kỷ cương theo
hiến pháp và pháp luật. Do lo lắng về những vấn đề trước mắt, nên một bộ
phận không nhỏ trong công nhân ít quan tâm đến những vấn đề chung lớn hơn
như lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Ý thức chính trị của công nhân có nơi còn mờ nhạt.


Về quan hệ lao động:
Phát triển nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi căn bản về quan hệ lao
động giữa người sử dụng lao động và người lao động trong doanh nghiệp Nhà
nước, giữa chủ và người lao động trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế ngoài Nhà nước, công tác tuyển dụng ở tại nhiều doanh nghiệp chưa
tuân thủ đầy đủ phương thức, trình tự tuyển dụng lao động theo quy định. Chỉ
có 10% công nhân được tuyển dụng thông qua các trường đào tạo, còn lại
doanh nghiệp tự tuyển dụng lao động và tự đào tạo với thời gian chỉ khoảng
2-3 tháng nên trình độ chuyên môn cũng như về ý thức tổ chức kỷ luật và tác
phong công nghiệp của công nhân còn nhiều hạn chế. Do vậy, đội ngũ công
nhân trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước nhìn chung còn nhiều bất cập.





25
Việc thực hiện giao kết hợp đồng lao động trong các khu vực còn
khác biệt lớn, ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt tỉ lệ gần 95%, còn ở
khu vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ
đạt từ 20% - 30% và chủ yếu là Hợp đồng Lao động có xác định thời hạn,
hoặc ngắn hạn, mặc dù công việc mang tính thường xuyên. Tỷ lệ doanh
nghiệp ký kết thoả ước lao động tập thể có tăng nhưng chưa đạt yêu cầu về
số lượng và chất lượng nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; thời
gian làm việc, nghỉ ngơi tuy được Bộ luật lao động quy định nhưng nhiều
doanh nghiệp còn vi phạm.
Tình hình tranh chấp lao động, phản ứng tập thể và đình công trong
các loại hình doanh nghiệp còn xảy ra nhưng không còn bức xúc và điểm
nóng. Trong 7 năm qua trên địa bàn thành phố đã xảy ra trên 17 cuộc tranh
chấp lao động tập thể, đình công tại 10 doanh nghiệp ở các thành phần kinh
tế. Trong đó có một cuộc đình công xảy ra ở doanh nghiệp Nhà nước, còn lại
đa số xảy ra ở doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các cuộc phản
ứng tập thể, đình công xảy ra không tuân theo quy định của Pháp luật.
Nguyên nhân dẫn đến các cuộc đình công đa số do chủ doanh nghiệp vi phạm
pháp luật lao động, ngoài ra còn có nguyên nhân một số CNLĐ trẻ, mới vào
làm việc chưa hiểu pháp luật lao động. Đình công xảy ra chủ yếu ở nơi chưa
có tổ chức công đoàn.
Đội ngũ CNVC - LĐ đang có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế,
các ngành nghề, là lực lượng sản xuất cơ bản, chủ yếu có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp CNH - HĐH thành phố. Là lực lượng nắm giữ những cơ sở
vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại, quyết định thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Đội ngũ công nhân thành phố thực sự có khả năng sáng tạo trong sản
xuất và đời sống xã hội, thích ứng với cơ chế mới, tiếp cận nhanh với khoa

×