Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Luận văn Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.73 KB, 121 trang )




1



Luận văn
Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh
Bình hiện nay



2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội là một chính sách trong những nội dung của hệ thống tài
chính Nhà nước nhằm góp phần thực hiện ổn định kinh tế - xã hội, không
ngừng nâng cao đời sống người lao động. Cùng với các nội dung nhiệm vụ và
chính sách kinh tế Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến công tác bảo
hiểm xã hội (BHXH).
Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã
hội nói riêng đã có bước phát triển khá, tăng nguồn thu quỹ BHXH hàng năm
để sử dụng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời BHXH góp phần đảm bảo chi cho các đối tượng được hưởng
chính sách, không ngừng nâng cao đời sống, ổn định kinh tế - xã hội.
Những năm qua cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, các thành phần kinh tế trong nước phát triển cả về số lượng và
chất lượng, công tác BHXH càng có cơ hội tạo địa bàn hoạt động, tăng nguồn
thu, mở rộng đối tượng thu không những trong khu vực kinh tế Nhà nước mà
lan tỏa sang các thành phần kinh tế khác. Nhận thức của nhân dân về bảo


hiểm và BHXH ngày càng cao, ý thức chấp hành ngày càng tốt, hoạt động
BHXH ngày càng phát triển.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách BHXH đối với
người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Bước vào thời kỳ đổi mới, để
phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật lao động và Điều lệ BHXH nhằm thống nhất
thực hiện BHXH trong phạm vi toàn quốc đối với mọi người lao động. Từ
tháng 7 năm 1995, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động và độc lập với ngân sách nhà nước. Hướng
phát triển sẽ trở thành nguồn tài chính chủ yếu bảo đảm cho các nhu cầu hoạt



3
động và chi trả cho các đối tượng của BHXH trong tương lai. Khác với các
loại hình bảo hiểm khác, quỹ BHXH được Nhà nước bảo trợ để bảo đảm ổn
định và tăng trưởng quỹ.
Ninh Bình là một tỉnh được tái lập từ năm 1992, công tác BHXH được
đặc biệt quan tâm. Từ đó đến nay hoạt động thu - chi, đảm bảo chính sách cho
đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng khá. Tuy nhiên, so với yêu
cầu đổi mới, BHXH chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh. Đặc biệt từ khi
có quyết định 20/TTg/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc sát nhập Bảo
hiểm Y tế vào BHXH, mặc dù đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng
nhiều vấn đề phát sinh bên cạnh đó gây bức xúc trong đời sống xã hội.
Để có đánh giá khách quan, khoa học về BHXH nói chung và BHXH ở
tỉnh Ninh Bình, vấn đề “Bảo hiểm xó hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” được
chọn làm đề tài nghiên cứu của Luận văn. Nhằm góp phần sáng tỏ hơn về mặt
lý luận, đánh giá khách quan khoa học về bảo hiểm Ninh Bình hiện nay. Từ
đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả đối với loại hình này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài, công trình nghiên
cứu về BHXH nhằm phân tích những ưu điểm và hạn chế của chính sách, chế
độ và đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách BHXH đã được nhiều cơ
quan, các bộ ngành BHXH thực hiện, cụ thể:
- Đỗ Văn Sinh: “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án
tiến sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. Luận án
đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý quỹ Bảo hiểm Việt Nam.
- Đặng Ngọc Liên: “ Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân tại
Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2004. Luận
văn nghiên cứu BHXH dưới góc độ quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà Nội, thời
gian 1997 - 2004 và các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý thu bảo hiểm.



4
- Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến: “góp phần đổi mới và hoàn thiện
chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”, sách tham khảo, NXB
Chính trị Quốc gia, năm 1996. Tác giả đề xuất những giải pháp góp phần đổi
mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm ở nước ta hiện nay.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia
BHXH theo nghị định 01/2003/NĐ - CP”. Các tác giả đã đề xuất lộ trình mở
rộng đối tượng tham gia BHXH.
- Phạm Duy Đỉnh: Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”. Luận văn thạc
sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Luận văn nêu rõ dịch vụ BHXH là một loại hình dịch vụ đặc thù. Những
thành công phát triển dịch vụ BHXH của Hà Nội và đề xuất giải pháp mở
rộng dịch vụ trong giai đoạn đến 2010.
- Trần Quang Lâm: “Bảo hiểm Y tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn nêu BHXH Việt Nam, chương trình

phát triển ngành BHXH Việt Nam đến 2010. Chương trình đề cập mục tiêu,
quy hoạch và phương hướng phát triển ngành BHXH Việt Nam trên cơ sở
phân tích dự báo xu hướng phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
và gia nhập WTO.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu đánh giá
những vấn đề BHXH đang đặt ra như quản lý, mở rộng đối tượng tham gia
BHXH. Đề xuất các giải pháp chi trả bảo hiểm đúng đối tượng, thời gian.
Cũng như biện pháp hành chính, chế tài đối với những đối tượng trốn tránh
trách nhiệm BHXH. Tuy nhiên, vấn đề BHXH ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
chưa có đề tài trùng lắp.



5
Với đề tài luận văn này, mong muốn từ thực tiễn việc thực hiện công tác
BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó
đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác BHXH đối với
người lao động trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về BHXH trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách BHXH trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển BHXH ở Ninh Bình giai đoạn
hiện nay đến 2015
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHXH, các chế độ
chính sách BHXH đang thực hiện ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phân tích thực trạng của BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chỉ rõ các
thành tựu, những tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực, có khả thi nâng cao hiệu quả kinh tế
xã hội của BHXH tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu BHXH ở Ninh Bình thể hiện trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật về BHXH trên địa bàn các mặt công tác chủ yếu:
- Thu BHXH.
- Chi trả các chế độ BHXH.
- Công tác giải quyết chế độ chính sách.
- Công tác quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH.
- Công tác khai thác mở rộng đối tượng tham gia BHXH.



6
Các nội dung trên được nghiên cứu trong điều kiện phát triển kinh tế
nhiều thành phần và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 đến nay, đặc biệt các số liệu
từ năm 2003 khi có sát nhập bảo hiểm y tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng ta đã đề ra trong các kỳ Đại hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới kể từ Đại
hội VI đến nay về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu tổng kết đánh giá thực trạng, kết hợp
lý luận với thực tiễn, thông qua việc phân tích, so sánh các số liệu thống kê để
làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu của luận văn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Làm rõ thêm các khái niệm, phạm trù về bản chất, vai trò, vị trí của

BHXH trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam. Mối quan hệ
giữa BHXH với các loại hình bảo hiểm khác.
- Khẳng định sự cần thiết, vai trò và giải pháp cụ thể của việc mở rộng đối
tượng tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế trước yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về BHXH theo xu hướng phát triển và hội nhập. Các quan điểm chỉ đạo của
tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc thực hiện BHXH ở Ninh Bình.
- Luận văn là công trình nghiên cứu khá toàn diện về BHXH tại Ninh
Bình sau hơn 10 năm thực hiện chính sách BHXH mới trong cơ chế thị
trường. Đặc biệt từ khi sát nhập bảo hiểm y tế vào BHXH. Từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
BHXH trên địa bàn tỉnh.



7
- Đây là đề tài nghiên cứu việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh Ninh Bình nhìn dưới góc độ BHXH là một bộ phận
của hệ thống tài chính phục vụ người lao động trong các thành phần kinh tế.
Có thể làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy môn Kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa

1.1. Bảo hiểm xã hội và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội

1.1.1. Bảo hiểm xã hội, vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Bảo hiểm và bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có
nhiều rủi ro xảy ra, gây nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã
luôn chú ý phòng tránh nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do thiên nhiên gây ra, do môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội, do sự biến động và phát triển không ngừng của khoa
học và công nghệ…
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của chúng gây ra. Ví dụ như
phòng ngừa và hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra; tự bảo hiểm (tự bỏ ra
nguồn tài chính nhất định để bù đắp những thiệt hại xảy ra với mình trong
cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh); mua bảo hiểm
(đóng một số tiền nhất định cho người quản lý bảo hiểm và người quản lý bảo



8
hiểm sẽ chịu trách nhiệm về rủi ro). Bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ
sở hợp đồng. Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do đòi hỏi khách quan
của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
BHXH xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội
của mỗi quốc gia. Theo tổ chức lao động Quốc tế (ILO), Phổ là quốc gia đầu
tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu
sự ra đời của BHXH bằng luật định.
Đồng thời tổ chức này cũng khuyến nghị quỹ BHXH được sử dụng để
trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản
thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Theo Công ước
số 102, ngày 04 tháng 6 năm 1952 của Tổ chức lao động quốc tế về quy phạm
tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó quy định 9 chế độ về trợ cấp sau đây:

1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) [14, tr.286].
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều
kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện
khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba
chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9).
Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh



9
tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương v v Đồng thời tuỳ từng chế độ khi
xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc
gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một
loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế
độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH
tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao
động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi
vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những nước quy
định: nam 65 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những
nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi Hoặc khi xác định điều kiện
hưởng trợ cấp cho chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến

các yếu tố như: điều kiện môi trường lao động, bảo hộ lao động, Các yếu tố
này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau và ít nhiều ảnh hưởng đến
điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao
động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn
phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức
sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc,
mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao
động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức
tiền công hay tiền lương. ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao nên
tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức
lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở Pháp mức trợ cấp
hưu trí chỉ bằng 50% mức lương cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5
năm), ốm đau được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm



10
được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH
bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ
42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng
65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền
lương
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so
với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một
số nước đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc
suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng
cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được

sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong
hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản
chi khác Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư
quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ
BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh
toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.
Từ những quan niệm, các cách hiểu và các cách tiếp cận khác nhau ở
các nước và các thời kỳ nhất định, vì vậy cho đến nay đã có nhiều định nghĩa
khác nhau về bảo hiểm. ở Việt Nam, trong sách “Giáo trình bảo hiểm” của
trường Đại học Kinh tế quốc dân, nhà xuất bản thống kê xuất bản năm 2005,
khái niệm chung nhất về bảo hiểm được định nghĩa như sau: “Bảo hiểm là hoạt
động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm
trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham
gia nộp 1 khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba” [45, tr.13].
Định nghĩa trên mang tính chung nhất của bảo hiểm, nó chỉ rõ việc người
tham gia bảo hiểm chuyển rủi ro cho người bảo hiểm (thường là một tổ chức



11
kinh doanh) thông qua việc nộp một khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi
người tham gia bảo hiểm gặp khó khăn dẫn đến tổn thất, cơ quan bảo hiểm
lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho
người tham gia bảo hiểm đăng ký với tổ chức bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm thực chất là quá trình phân phối lại thu nhập giữa
những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn
rủi ro gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Điều này thể hiện trong
việc hình thành quỹ bảo hiểm từ sự đóng phí của người tham gia bảo hiểm.
Khi người tham gia bảo hiểm gặp biến cố theo hợp đồng sẽ được quỹ bảo
hiểm đền bù theo thoả thuận. Như vậy, phần thu nhập của nhiều người sẽ

được chuyển cho một người, điều này thể hiện tính nhân văn. Quá trình phân
phối lại thu nhập trong bảo hiểm được thực hiện.
Sự phân phối trong bảo hiểm là sự phân phối không đều, không bằng
nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối một
số tiền bằng nhau. Chỉ có một số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp
rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm mới nhận được sự phân phối, cũng có nghĩa
phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia
đóng vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối. Tuy
nhiên, trong các loại hình bảo hiểm, đặc điểm này cũng thể hiện khác nhau.
Cụ thể, với đa số các loại hình BHTM, sự phân phối không mang tính bồi
hoàn thể hiện rõ. Ví dụ: bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, bảo hiểm tài sản. bảo hiểm sức khoẻ… phần đông người mua
bảo hiểm không được phân phối vì không gặp biến cố, chỉ có một số ít người
được đền bù. Trong một số dịch vụ bảo hiểm nhân thọ đang thực hiện như
bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm Đại học, bảo hiểm khi kết hôn (do hãng bảo hiểm
quốc tế Prudential thực hiện) hoặc bảo hiểm hưu trí trong BHXH, tính chất
bồi hoàn trong phân phối thể hiện khá rõ. Trong các hình thức bảo hiểm này,



12
những người tham gia bảo hiểm hầu hết được bảo hiểm khi đạt đến các điều
kiện do hai bên thoả thuận.
Qua sự phân tích trên ta thấy, hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên
tắc "số đông bù số ít" thể hiện trong qúa trình lập quỹ dự trữ bảo hiểm cũng
như quá trình phân phối bồi thường. Nguyên tắc này còn thể hiện tính tương
trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành
viên.
Trong hoạt động kinh tế - xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển
được trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để thoả mãn những nhu cầu tối

thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản
phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và
hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn nhu cầu
sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động
của họ. Nhưng trong thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi,
có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất
nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con
người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng
hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi
tuổi già đến khả năng lao động hay khả năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi
rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì
thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số
nhu cầu mới như: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật
nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn
định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng;
đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Rõ ràng, những
cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.



13
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải
cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cầu cần thiết khi ốm đau, tai nạn, thai sản… Trong thực
tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi
trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ
ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn
chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải thực hiện cam

kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt
đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và
điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của nhà nước,
mặt khác buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản tiền nhất định
hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối
với người làm thuê. Số tiền đóng góp của các chủ và thợ hình thành một quỹ
tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân
sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi
gặp phải những biến cố bất lợi. Chính những mối quan hệ ràng buộc đó mà
rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động
và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có
lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được
những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết
lập ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết các phát sinh lớn của
quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,



14
mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn
xã hội.
BHXH là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế xã hội
của Nhà nước; BHXH rất cần cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội, bất luận là
người giàu hay nghèo, người có địa vị cao hay thấp. Xã hội nào có hệ thống
BHXH phát triển mạnh bao nhiêu thì xã hội đó càng phát triển và ổn định bấy

nhiêu, làm cho người lao động yên tâm, phấn khởi, tích cực sản xuất ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội. Trên tinh thần ấy, theo từ điển bách khoa Việt
Nam “BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng thông
qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động
và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
ở nước ta, trước thời ký đổi mới, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 Chính
phủ đã ban hành sắc lệnh về các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước đó là: Sắc lệnh số 29/SL
ngày 12 tháng 3 năm 1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quy định chế độ
trợ cấp cho công nhân; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 và
Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 do Hồ Chủ Tịch ký, quy định
thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ
công nhân viên chức.
Tiếp theo là Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Hội
đồng Chính phủ về Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân
viên chức, Nghị định số 161/CP ngày 30 tháng 10 năm 1964 của Hội đồng



15
chính phủ về điều lệ đãi ngộ đối với quân nhân. Đây là văn bản đầu tiên và
quan trọng nhất về BHXH ở nước ta trong thời kỳ này, các văn bản đã quy
định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Quy định các chế độ BHXH gồm 6
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, mất sức lao
động, hưu trí, tử tuất. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan
trong BHXH. Các chế độ BHXH được thiết lập dựa trên nguyên tắc phân phối
theo lao động, nhằm khuyến khích mọi người tích cực làm việc đẩy mạnh sản

xuất, góp phần ổn định lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Mức
trợ cấp BHXH được căn cứ vào thời gian công tác, tuổi đời, vào điều kiện làm
việc, vào tình trạng suy giảm khả năng lao động. Mức trợ cấp BHXH gắn chặt
với tiền lương và nguyên tắc phải thấp hơn mức tiền lương khi làm việc. Về
tổ chức và quản lý thì Bộ Lao động thương binh và Xã hội quản lý 3 chế độ
mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản
thực hiện 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.
Nghị định số 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 của Hội đồng bộ
trưởng về các chế độ BHXH được sửa chữa có tính đến các chính sách ưu đãi
đối với những người tham gia trong hai cuộc kháng chiến và những công
nhân viên chức làm việc tại những nơi xa xôi, khó khăn gian khổ và hải đảo.
Nghị định số 236/HĐBT bổ sung quy đổi thời gian công tác theo hệ số. Quyết
định số 133/HĐBT ngày 01 tháng 11 năm 1985 của Hội đồng bộ trưởng là
nâng tỷ lệ trợ cấp hưu trí lên cao nhất bằng 95% tiền lương tháng trước khi
nghỉ hưu.
Chính sách BHXH trong thời kỳ này còn nhiều hạn chế như: Đối tượng
tham gia và hưởng các chế độ BHXH mới chỉ được thực hiện đối với công
nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang, chính sách BHXH còn đan
xen với nhiều chính sách khác như chính sách ưu đãi xã hội, chính sách dân



16
số, chính sách cán bộ nguồn tài chính BHXH phụ thuộc chủ yếu vào ngân
sách Nhà nước, quan hệ tài chính Bảo hiểm xã hội chưa được coi trọng như
thu, chi BHXH. Mặc dù vậy, chính sách BHXH trong thời kỳ này đã cụ thể
hoá đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội của đất nước thời kỳ này.
Trong điều 140 của Bộ luât lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định “Nhà nước quy định về chính sách BHXH nhằm

từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời
sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp lao động ốm
đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất
việc làm gặp rủi ro hoặc các khó khăn. Chế độ BHXH là cụ thể hoá những
quy định chính sách xã hội của nhà nước, quy định của các hình thức bảo đảm,
những điều kiện về vật chất và tinh thần cho người lao động và các thành viên
trong gia đình họ khi gặp trường hợp bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Nhà
nước ta coi BHXH là một chính sách quan trọng xuyên suốt quá trình phát triển
kinh tế xã hội.
Từ ngày thành lập BHXH, ngày 26 tháng 1 năm 1995 Chính phủ ban
hành điều lệ BHXH kèm theo nghị định 12/CP đối với người lao động làm
việc trong các thành phần kinh tế và BHXH đối với sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Điều lệ BHXH bao gồm 5 chế độ cụ thể như sau:
- Chế độ ốm đau.
- Chế độ thai sản.
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Chế độ hưu trí.
- Chế độ tử tuất.



17
Về đối tượng BHXH được áp dụng đối với người làm công ăn lương
trong các thành phần kinh tế, mở rộng đối tượng đến xã viên hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, ngư nghiệp, lao động tự do… thành
lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách nhà nước, từng bước thực hiện việc cân
đối quỹ BHXH. Quỹ BHXH có 3 nguồn đóng góp là Nhà nước, chủ sử dụng
lao động và người lao động trong đó:
+ Người lao động đóng góp bằng 5% tiền lương hàng tháng.

+ Người chủ sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quĩ lương của doanh nghiệp.
Ngày 12 tháng 11 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định 93/1998/NĐ-CP
sửa đổi bổ sung một số điều của điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định
số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 và nghị định số 94/1999/NĐ-CP ngày 8
tháng 9 năm 1999 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều lệ của Điều lệ BHXH
đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội và
công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15 tháng 7
năm 1995.
Điều lệ BHXH quy định rõ chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và
chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH, quản lý Nhà nước về BHXH do Bộ
lao động - thương binh và xã hội đảm nhiệm, việc tổ chức quản lý thực hiện
pháp luật BHXH do BHXH Việt Nam đảm nhiệm.
Ngày 24 tháng 1 năm 2002 Chính phủ ra quyết định số 20/2002/QĐ-TTg
về việc chuyển giao BHYT sang BHXH Việt Nam quản lý, ngày 06 tháng 01
năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/NĐ - CP quy định về
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH Việt Nam sau khi tiếp nhận cơ
quan BHYT sang. Với việc ban hành Điều lệ BHXH mới, chính sách BHXH
đã thể chế hóa đường lối của Đảng, phù hợp với thời kì mới góp phần ổn định



18
đời sống cho người hưởng BHXH, giảm dần bao cấp ngân sách Nhà nước,
mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
Chính sách BHXH đã được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội, thực hiện sự công bằng về quyền được hưởng trợ cấp của mọi người lao
động, thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa vụ về đóng góp và quyền lợi
hưởng thụ về BHXH, mở rộng mạng lưới trợ cấp BHXH đến mọi người lao
động nhằm bảo đảm an toàn xã hội.
1.1.1.2. Vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội trong kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa
Về vị trí của BHXH:
BHXH chiếm một vị trí quan trọng nhất và là thành phần chính của hệ
thống bảo trợ xã hội ở các nước trên thế giới. Nhiều nước hiện nay, các nguồn
thu về đóng góp BHXH chiếm đến 10% GDP và chi cho các chế độ BHXH
chiếm tỷ trọng đến 60 - 70 % tổng chi tiêu cho các hoạt động bảo đảm xã hội
của toàn quốc gia.
ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự
xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. BHXH đã
được Nhà nước quan tâm ngay từ ngày đầu thành lập và được thể chế hoá bằng
các sắc lệnh của Chính phủ. Chính sách này đã giúp cho đội ngũ công nhân viên
chức và những người làm việc trong lực lượng vũ trang yên tâm, hăng say công
tác, góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Ngày nay, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, quỹ BHXH ở Việt Nam đã được thành lập một
cách độc lập với ngân sách Nhà nước và triển vọng trở thành nguồn chủ yếu
trong việc đảm bảo các nhu cầu chi của BHXH trong tương lai.



19
Về vai trò của BHXH:
Đối với người lao động có rất nhiều rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất
cứ người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào. Dưới tác động của nền kinh
tế thị trường, những bất cập về mặt xã hội và những rủi ro này có xu hướng
xảy ra thường xuyên và có tính chất phổ biến hơn vì thị trường lao động và
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn vận động và đứng trước sự
kém ổn định và bền vững. Khi rủi ro xảy ra đối với những người lao động sẽ
gây cho họ những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, ảnh hưởng không tốt

không chỉ cho chính người lao động, gia đình họ mà còn cả cộng đồng và xã
hội loài nguời. BHXH với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã
hội của Nhà nước sẽ góp phần trợ giúp cho những người lao động đang gặp
phải rủi ro, bất hạnh, nhanh chóng khắc phục những khó khăn bằng cách tạo
cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện sinh hoạt thuận lợi… giúp
họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ niềm tin vào tương
lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như tinh
thần nỗ lực vì sự phát triển của doanh nghiệp, cơ quan họ đang làm việc nói
riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Đối với người sử dụng lao động, để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc
sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra
sản phẩm và nhờ vào qúa trình lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết
cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động để sản
xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối
quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách
nhịêm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản
xuất và có niềm tin vào cuộc sống. Từ đó, họ lao động sản xuất hăng hái hơn,



20
tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của
người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy, người chủ
sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của
mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao
động khi họ gặp những rủi ro bất trắc. Việc tham gia đóng BHXH cho người
lao động của người chủ sử dụng lao động đã góp phần vào quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng
cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng

cao thu nhập cho người lao động và góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Đối với xã hội, trước hết nếu BHXH là một loại dịch vụ. Hoạt động
BHXH giống như một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm”
cho người lao động, một loại dịch vụ cần cho mọi người chứ không phải chỉ
là cán bộ, công nhân viên chức. Khi các tổ chức này sản xuất và cung ứng
ngày càng nhiều loại dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng đa dạng các nhu cầu của
người dân, thì giá trị của những dịch vụ này ngày càng tăng và là một bộ phận
trực tiếp làm gia tăng tổng sản phẩm xã hội. Dưới giác độ này, BHXH được
xem như một ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế.
Hai là, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của
nhà nước, BHXH sẽ giải quyết những “rủi ro” xảy ra đối với những người lao
động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả
năng sáng tạo của họ và tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao
động xã hội. Thông qua sự trợ giúp của BHXH đối với người lao động khi họ
gặp rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế. BHXH đã gián tiếp tác động
đến chính sách tiêu dùng quốc gia, kích thích tiêu dùng của xã hội, hỗ trợ và
bổ sung các chính sách vĩ mô khác của chính phủ.



21
Ba là, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ
tới hệ thống tài chính quốc gia, tới hoạt động của hệ thống tín dụng, tiền tệ,
ngân hàng. Do đó, trong các hoạt động của BHXH luôn đặt ra một yêu cầu là
quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển bằng nhiều hình thức khác nhau.
Trong đó có hình thức đầu tư và phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Đây là
một trong những kênh vốn quan trọng, có tác động không nhỏ tới quá trình
phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn đầu tư lớn tạo ra
những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần quan trọng tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập

cá nhân cho người lao động và tăng tổng sản phẩm quốc dân.
Bốn là, BHXH cũng là một chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội,
là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân
phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại giữa người
khoẻ và người già, giữa người đang làm việc và người đã về nghỉ hưu, người
trẻ tuổi và người cao tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và
người chưa được hưởng trợ cấp. Đây được gọi là phân phối lại theo chiều
ngang. Còn phân phối lại theo chiều dọc là thực hiện điều tiết giữa người có
thu nhập thấp và người có thu nhập cao, giữa người giàu và người nghèo. Đây
là một mục tiêu quan trọng trong các chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô.
BHXH không hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người
giàu chia cho người nghèo một cách cứng nhắc. Tư tưởng chủ đạo của BHXH
dựa trên đạo lý: “lá lành đùm lá rách”, đoàn kết tương trợ, phát huy tính nhân
văn, sống hoà nhập, có tình, có nghĩa giữa các cá nhân, các nhóm trong cùng
cộng đồng với nhau.
1.1.2. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội
trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa



22
1.1.2.1. Bản chất bảo hiểm xã hội
BHXH là một loại hình bảo hiểm đặc biệt gắn liền với các chính sách an
sinh xã hội. Vì vậy, khi xem xét bản chất của BHXH theo quan điểm kinh tế
chính trị nó sẽ được thể hiện rõ hơn.
BHXH xét dưới góc độ như là một loại hình kinh tế dịch vụ. Để thấy rõ
hơn về vấn đề này, có thể xem các quy định về đóng, hưởng BHXH hiện nay
như những thoả thuận đạt được giữa người tham gia bảo hiểm và cơ quan bảo
hiểm chỉ đơn thuần có tính kinh tế. Tức là ta coi BHXH thuần tuý là một loại
hình dịch vụ, một loại hàng hoá.

Khi viết về dịch vụ với tư cách là một loại hàng hoá, C.Mác đã viết: “những
sự phục vụ này với tư cách là những sự phục vụ cũng có giá trị sử dụng và do
những chi phí sản xuất của chúng nên chúng có giá trị trao đổi” [28, tr.215].
Như vậy, bảo hiểm nói chung hay BHXH nói riêng đều là một loại dịch
vụ nên nó có giá rị và giá trị sử dụng.
Dưới góc độ giá trị, BHXH có giá trị là kết tinh hao phí sức lao động
trong quá trình thực hiện các giao dịch về BHXH của những người làm công
tác BHXH trong các cơ quan BHXH khi thực hiện các công việc về thu, chi,
quản lý chính sách, quản lý sử dụng quỹ BHXH và được tính vào giá trị của
dịch vụ BHXH bao gồm cả những hao phí lao động trong quá trình thiết kế,
hoạch định chế độ chính sách, chi phí quản lý nhà nước… của cơ quan nhà
nước có liên quan việc xác định giá trị của dịch vụ BHXH là một quá trình
phức tạp vì nó liên quan đến nhiều chi phí lao động sống của nhiều lao động
có trình độ lao động cao, phức tạp.
Biểu hiện ra bên ngoài hay giá trị trao đổi của BHXH là một phần trong
khoản chi phí phải đóng BHXH của những đối tượng được BHXH. Phí phải
đóng BHXH ở nước ta hiện tại là 23% tính trên tổng quỹ tiền lương cơ bản
của đơn vị sử dụng lao động. Trong đó đơn vị đóng 17%, người lao động 6 %.



23
Kinh phí chi cho bộ máy quản lý BHXH được lấy trong phần lãi phát sinh do
đầu tư tăng trưởng qũy. Ngân sách nhà nước chi cho bộ máy quản lý nhà
nước về BHXH và hỗ trợ quỹ BHXH trong trường hợp cần thiết khi không
đáp ứng khả năng tài chính chi trả các chế độ BHXH cho người lao động.
Dưới góc độ giá trị sử dụng, người tham gia BHXH sẽ được đảm bảo về
thu nhập hoặc bù đắp một phần về thu nhập khi gặp rủi ro bất ngờ hoặc sau
quá trình làm việc nhất định (trợ cấp tuổi già hay hưu trí). Giá trị sử dụng của
dịch vụ bảo hiểm nói chung đều mang tính bù đắp, theo nguyên tắc “số đông

bù số ít”.
Giá trị sử dụng của dịch vụ BHXH có thể là ngắn hạn hoặc có hiệu lực
dài hạn. Với các dịch vụ BHXH ngắn hạn hoặc không được tiêu dùng nó phụ
thuộc vào những sự kiện bảo hiểm đã thoả thuận trước có thể xảy ra hay
không. Ví dụ, trong chế độ ốm đau, người tham gia BHXH đóng phí bảo hiểm
để được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền lương nếu trong quá trình thực hiện
hợp đồng lao động không may phải nghỉ việc do ốm đau. Quá trình đóng phí
thường xuyên trong quá trình lao động nếu anh ta không bị ốm đau thì cũng
không được hưởng trợ cấp này. Đối với các chế độ BHXH dài hạn, ví dụ chế
độ hưu trí, tử tuất, người tham gia bảo hiểm có nhiều khả năng được tiêu dùng
dịch vụ BHXH hơn. ở đây, người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng nếu đã
tham gia BHXH đủ điều kiện nhất định đã thoả thuận. Nhưng điều này cũng
có thể sẽ không xảy ra, tức là người tham gia bảo hiểm cũng có trường hợp
không được tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ như người lao động đủ điều kiện hưởng
hưu trí nhưng không may bị chết đương nhiên người đó không được hưởng
hưu, thay vào đó gia đình người tham gia bảo hiểm được hưởng chế độ tử tuất
theo quy định. Như vậy, cũng như dịch vụ bảo hiểm nói chung, người “mua”
dịch vụ BHXH có thể được tiêu dùng hoặc không được tiêu dùng nó phụ



24
thuộc vào những sự kiện bảo hiểm đã thoả thuận trước có thể xảy ra hay
không.
Tuy nhiên, BHXH không đơn thuần như là một dịch vụ hàng hoá thông
thường. Vì BHXH là một bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống các chính
sách an sinh an toàn xã hội của mỗi quốc gia. Do đó, dịch vụ BHXH bị chi
phối nhiều yếu tố phi dịch vụ. Các yếu tố này mang nặng tính xã hội, nhằm
mục tiêu ổn định, an toàn xã hội mà không có tính kinh tế. Vì vậy, tính chất
dịch vụ của BHXH thường không rõ các quy định của cơ quan quản lý còn

nhiều, người tham gia BHXH thường ít có cơ hội lựa chọn.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, về bản chất của BHXH trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là phấn đấu để mọi người
lao động ngày càng được đảm bảo tốt hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất và
tinh thần. Đặc biệt trong khi gặp khó khăn và cả khi mất sức lao động. Nếu
xem xét bản chất của BHXH theo quan hệ sản xuất - Tư bản chủ nghĩa, người
lao động là một yếu tố của quá trình sản xuất. Khi các điều kiện sản xuất tốt,
người lao động có khả năng sáng tạo ra nhiều giá trị thặng dư góp phần làm
giàu cho giai cấp Tư sản và các điều kiện phúc lợi xã hội tốt hơn, tạo điều
kiện ổn định xã hội, phát triển sản xuất và quy luật tích luỹ tư bản ngày càng
bộc lộ rõ hơn.
Nói chung, BHXH là một nhu cầu khách quan trong đời sống xã hội,
đặc biệt ở các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển. BHXH nhằm triển
khai các chính sách BHXH của mỗi quốc gia. BHXH thực hiện mối quan hệ
ba bên là người lao động, đơn vị sử dụng lao động và cơ quan BHXH.
Nguyên tắc hoạt động của BHXH cũng mang những đặc trưng cơ bản của các
loại hình dịch vụ bảo hiểm nói chung. Đó là nguyên tắc “cộng đồng chia sẻ
rủi ro”, “số đông bù số ít”, “có đóng có hưởng”. Tuy vậy, BHXH mang tính



25
xã hội rõ nét hơn tính kinh tế xuất phát từ mục tiêu an toàn, an sinh xã hội
được nhà nước bảo trợ và chi phối. Do vậy, BHXH trở thành một trong những
quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào
Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách
và sự tự do phát triển con người” [14, tr.8].
ý nghĩa sâu xa nhất ở đây là BHXH đã thể hiện được tính xã hội và nhân

văn. Trước hết ta phải khẳng định rằng BHXH là sự bảo đảm của xã hội, đối
với yếu tố lao động sản xuất tức là hoạt động nhằm đảm bảo cho người lao
động mà cụ thể là người lao động phụ thuộc (người lao động không có tư liệu
sản xuất, người lao động làm công hưởng lương, có quan hệ với người sử
dụng lao động) ổn định cuộc sống bằng cách bù đắp một phần hoặc toàn bộ
những thiếu hụt, mất mát về thu nhập trước những rủi ro như: ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chăm sóc y tế, mất việc làm, mất
khả năng lao động, già cả, chết. Những người lao động này phải trong độ
tuổi lao động theo qui định của pháp luật, có khă năng và nhu cầu việc làm
đều phải có nghĩa vụ tham gia BHXH để được hưởng quyền lợi BHXH, khi
người lao động đóng BHXH sẽ tạo được cơ sở vững chắc về tâm lý xã hội
trong cuộc sống, nó nhắc nhở ý thức, trách nhiệm của họ với cuộc sống của
chính mình, với xã hội hiện tại và tương lai, đồng thời bảo vệ nhân phẩm
của người lao động, vì nó xác lập quyền lợi bình đẳng của họ được hưởng
BHXH theo qui định của pháp luật.
BHXH ngày càng được hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng tham
gia, bảo đảm đầy đủ hơn đời sống của người lao động và thân quyến của họ.
BHXH ngày nay đã thực sự trở thành một công cụ đắc lực của chính xã hội ở

×