Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA TRUNG QUỐC ĐẾN THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU, ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ TỚI NĂM 2020 VÀ GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.96 KB, 76 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU –
VIỆT NAM MUTRAP III
HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
THỜI KỲ 2011 - 2020”






BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

TÁC ĐỘNG CỦA TRUNG QUỐC ĐẾN THƯƠNG MẠI
TOÀN CẦU, ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA
VIỆT NAM THỜI KỲ TỚI NĂM 2020
VÀ GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG






TS. Trần Mạnh Hùng











Hà Nội, 11 - 2010


1

LỜI MỞ ĐẦU

Trước thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã thực hiện chủ trương
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ bằng phương thức kế hoạch hóa tập trung,
công nghiệp hoá đối lập với thị trường, xây dựng cơ cấu kinh tế toàn diện nhưng
chú trọng công nghiệp nặng ngay từ đầu, cuối cùng đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng, trì trệ. Các nhà nghiên cứu chiến lược phát triển toàn cầu đã gọi đây là
thời kỳ “Con Rồng lớn Trung Hoa đang nằm ngủ” để so sánh với sự trỗi dậy của
“Bốn con Rồng nhỏ châu Á” (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore).
Năm 1978, Trung Quốc bắt đầu cải cách và mở cửa. Sau 30 năm tiến
hành công cuộc cải cách và mở cửa, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt nhịp độ
bình quân 9,5 - 10%/năm, xuất khẩu tăng trưởng bình quân khoảng 16,7%/năm,
tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP đã tăng từ 4,7% năm 1978 lên 39,65%
trong năm 2008. Từ sau năm 1994, Trung Quốc đã chuyển từ nhập siêu sang
xuất siêu vững chắc, đến năm 2008 giá trị xuất siêu đạt 295,4 tỷ USD. Năm
2009 trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, tăng trưởng kinh tế toàn cầu
giảm 5,3% so với năm 2008 và xuất khẩu toàn cầu giảm tới 22% so với 2008
nhưng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vẫn đạt mức dương 8,8%, GDP đạt
xấp xỉ 5 nghìn tỷ USD và vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế
giới. Năm 2009, GDP của Trung Quốc chiếm 8,47% GDP toàn cầu, kim ngạch

xuất khẩu của Trung Quốc chiếm 12,46% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu.
Các nhà hoạch định chiến lược phát triển của Trung Quốc đã đề ra quyết tâm
chiến lược của nước này là đuổi kịp và vượt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế số
1 thế giới vào giữa thế kỷ XXI.
Trước sự lớn mạnh nhanh của Trung Quốc, một số nhà bình luận quốc tế
đã gọi hiện tượng Trung Quốc là sự trỗi dậy của “Con Rồng lớn Trung Hoa”, là
“Cường quốc kinh tế mới nổi” làm thay đổi tương quan sức mạnh giữa các
cường quốc và cục diện kinh tế toàn cầu.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã tác động mạnh đến quan hệ thương mại
Việt Nam - Trung Quốc. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng từ 32
triệu USD năm 1991 (năm hai nước bắt đầu bình thường hoá mối quan hệ song
phương) lên 19,4 tỷ USD vào năm 2008, và đã trở thành đối tác thương mại lớn
2

nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi ACFTA có hiệu lực, thị phần của hàng
Việt Nam tại Trung Quốc đã giảm từ 0,52% năm 2004 xuống 0,38% năm 2008
và 0,49% năm 2009; trong khi đó thị phần của hàng Trung Quốc tại Việt Nam
đã tăng nhanh từ 14,4% lên 19,4% và 23,5% trong thời gian ương ứng. Điều này
cho thấy, trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Việt Nam bị thua thiệt cả
chiều xuất và chiều nhập khẩu. Trung Quốc đang là thị trường nhập siêu lớn
nhất của Việt Nam, Trung Quốc chiếm trên 14% tổng kim ngạch ngoại thương
của Việt Nam trong khi Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,78 - 0,8% tổng kim ngạch
ngoại thương của Trung Quốc.
Trong thời kỳ tới, sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ tác động như thế nào
đến thương mại toàn cầu, đến thương mại Việt Nam đang là câu hỏi mở, cần
được nghiên cứu giải đáp để tìm ra giải pháp thích ứng cho Việt Nam trong phát
triển xuất nhập khẩu. Chuyên đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm bước đầu
giải đáp câu hỏi quan trọng nêu đó.
Nội dung Báo cáo chuyên đề nghiên cứu được kết cấu thành 4 phần:
I. Tình hình thế giới, khu vực trong 5 - 10 năm tới và vị thế của Trung

Quốc, của Việt Nam.
II. Trung Quốc ngày nay và dự báo tác động của Trung Quốc đến thương
mại toàn cầu thời kỳ tới.
III. Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc và những tác
động của Trung Quốc đến phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới
2020.
IV. Một số giải pháp để Việt Nam thích ứng với bối cảnh Trung Quốc
tăng cường chính sách hướng Nam nhằm phát triển xuất nhập khẩu của Việt
Nam thời kỳ tới.





3

I TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC TRONG 5 - 10 NĂM TỚI
VÀ VỊ THẾ CỦA TRUNG QUỐC, CỦA VIỆT NAM

1. Tình hình thế giới trong 5 đến 10 năm tới
Trong 5 - 10 năm tới, thế giới bước vào giai đoạn hậu khủng hoảng kinh
tế với nhiều biến chuyển sâu sắc song hoà bình, hợp tác vẫn sẽ tiếp tục là xu thế
chủ đạo. Do tác động của khủng hoảng kinh tế, toàn cầu hoá, cách mạng KHCN
sẽ có hướng phát triển mới, quá trình tái cấu trúc sẽ diễn ra nhanh, mạnh ở mọi
tầng nấc và trên tất cả các lĩnh vực; tương quan lực lượng và quan hệ giữa các
nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn tiếp tục biến đổi; cụ diệntg đa cực ngày
một rõ.
- Kinh tế thế giới tuy còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức nhưng sẽ phục
hồi trong vài năm, tới. Theo đa số các dự báo, kinh tế thế giới sẽ phục hồi từ
2010 và sẽ cần 4 - 5 năm để đạt được tốc độ tăng trưởng 3 - 4%/năm. Quá trình

tái cấu trúc kinh tế toàn cầu ở mọi tầng nấc diễn ra mạnh mẽ. Đây là đặc điểm
nổi trội nhất của thế giới trong giai đoạn hậu khủng hoảng.
- Khủng hoảng kinh tế và cuộc chay đua phát triển trong giai đoạn hậu
khủng hoảng sẽ làm gia tăng quá trình chuyển dịch tương quan lực lượng giữa
các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn của thế giới, thúc đẩy việc hình thành
cục diện “đa cực”. So sánh lực lượng giữa các trung tâm quyền lực lớn của thế
giới sẽ biến chuyển nhanh hơn trong 5 - 10 năm tới. Các nền kinh tế mới nổi
(BRIC), đặc biệt là Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng khá, làm thay đổi tương
quan sức mạnh tổng thể giữa các nước lớn, bao hàm cả kinh tế, chính trị và quân
sự, tạo thành một sự chuyển dịch sức mạnh rõ rệt theo hướng từ một sang đa
trung tâm, và do đó cục diện thế giới sẽ chuyển nhanh hơn theo hướng “đa
cực”.Tuy nhiên, dù trong từng vấn đề và từng thời điểm, tính chất đa cực gia
tăng nhưng cục diện chung vẫn là “một siêu, đa cường”. Trung Quốc và các
cường quốc mới nổi lên dẫu phát triển nhanh, nhưng cũng chưa thể đuổi kịp Mỹ
trên nhiều phương diện. Mỹ vẫn là cường quốc số một về cả kinh tế, chính trị và
quân sự, có khả năng chi phối đời sống kinh tế - chính trị thế giới nhưng cũng
4

phải chia sẻ ảnh hưởng với các cường quốc khác, nhất là các nước mới nổi lên
như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ.
- Các nước lớn vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt
hơn ở khu vực “ngoại vi”, nhấ là ở các địa bàn chiến lược, giàu tài nguyên như:
Trung Đông, châu Phi, Nam Á , các “khu đệm” cận kề các quốc gia mới nổi
như khu vực Đông Nam Á, Nam Á và Liên Xô cũ.
- Chạy đua vũ trang và tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân của nhiều nước
sẽ là một thách thức an ninh toàn cầu. Xung đột cục bộ cũng có khả năng ngày
càng phức tạp hơn. Tình trạng nước lớn đánh nước nhỏ, các nước lớn cạnh tranh
ở khu vực “ngoại vi”, xung đột về biên giới, lãnh thổ, chiến tranh giữa các nước
nhỏ tiếp tục xảy ra.
- Xung đột sắc tộc, bạo loạn tiếp tục xảy ra ở nhiều nước và trở nên phức

tạp hơn khi có nhân tố tôn giáo, ly khai. Các vụ việc tương tự như: bạo loạn ở
Tây Tạng (2008) và Tân Cương (2009) có thể trở thành xung đột giữa Nhà nước
của một số nước lớn và thế giới Hồi giáo.
- Quốc tế hoá mọi mặt của đời sống quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng sẽ có
những điều chỉnh về hướng và lĩnh vực. Qui mô các hoạt động kinh tế toàn cầu
bị giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng, sẽ phục hồi và gia tăng trong 5
năm tới. Lộ trình thúc đẩy tự do hoá thương mại có thể sẽ bị chậm lại một cách
tương đối. Chủ nghĩa bảo hộ vẫn là nguy cơ đối với toàn cầu hoá, nhưng ít có
khả năng đảo ngược quá trình tự do hoá thương mại, đầu tư. Song song với
“toàn cầu hoá”, chủ nghĩa khu vực sẽ phát triển mạnh hơn. Nhiều khả năng trào
lưu các nước đẩy mạnh liên kết khu vực và song phương, đặc biệt là sự bùng nổ
các thoả thuận tự do hoá thương mại song phương (FTA) sẽ tiếp tục phát triển
có thể mở rộng sang cả các lĩnh vực mới như dịch vụ (gắn với đầu tư), nông
nghiệp (trợ cấp, mở cửa thị trường). Xu hướng này, một mặt làm tăng chủ nghĩa
khu vực, và do đó có phần cản trở quá trình toàn cầu hoá, nhưng mặt khác lại bổ
sung động lực và tháo gỡ dần bế tắc về những vấn đề nhạy cảm chính trị để khởi
động lại vòng đàm phán đa phương mới.
- Cuộc chạy đua về KHCN diễn ra quyết liệt hơn và chuyển hướng sang
các công nghệ sạch, tiết kiệm nguyên nhiên liệu. Cách mạng KHKT sẽ phát
5

triển mạnh, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ nanô, năng lượng mới, công
nghệ vi sinh, công nghệ thông tin - tin học, tự động hoá rô bốt v.v. Đồng thời, sẽ
tiếp tục là động lực phát triển của kinh tế thế giới. Thành tựu KHCN giúp các
nước phát triển sau có thể rút ngắn thời gian của từng nấc thang phát triển, “rượt
đuổi và bắt kịp” các nước công nghiệp; thậm chí có cơ hội thực hiện chiến lược
“đi tắt đón đầu”, tiến thẳng vào các lĩnh vực hiện đại, có hàm lượng công nghệ
cao nếu có chiến lược đúng. Cách mạng KHCN cũng sẽ đẩy nhanh quá trình cơ
cấu lại các ngành công nghiệp truyền thống và tác động mạnh đến tính chất chu
kỳ của nền kinh tế, giúp các quốc gia có khả năng kéo dài được chu kỳ tăng

trưởng.
- Biến đổi khí hậu trở thành một vấn đề được tất cả các quốc gia quan
tâm và trở thành một chủ đề quan trọng trong chương trình nghị sự của các
nước, các tổ chức khu vực và quốc tế. Đối phó với biến đổi khí hậu sẽ là một
chủ đề “đấu tranh / hợp tác” giữa các nhóm nước phát triển và đang phát triển,
giữa các nước công nghiệp và nước mới nổi, và ngay trong nội bộ từng nhóm
nước này. Chống khủng bố quốc tế và tội phạm có tổ chức tiếp tục là vấn đề
toàn cầu nhưng mức độ và phạm vi của vấn đề này không nổi trội như trong thập
kỷ đầu của Thế kỷ 21. Các vấn đề, như chống phổ biến vũ khí giết người hàng
loạt, chống các tội phạm xuyên quốc gia sẽ tiếp tục là chủ đề ưu tiên trong
chương trình nghị sự của các quốc gia và của các tổ chức khu vực và quốc tế.
Cạn kiệt tài nguyên, nhất là nguồn năng lượng và nguồn nước dẫn đến sự cạnh
tranh nguồn tài nguyên - như nguồn nước, nguồn năng lượng và các nguồn tài
nguyên khác - sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và có thể trở thành nguồn gốc của
xung đột quốc tế. Việc chạy đua để kiểm soát tài nguyên giữa các cường quốc sẽ
làm cho môi trường an ninh - chính trị quốc tế thêm căng thẳng. Biến động dân
số trở thành một vấn đề toàn cầu lớn có tác động đến an ninh và phát triển. Dân
số toàn cầu sẽ tiếp tục tăng nhanh, nhưng không đồng đều và mất cân đối ngày
càng lớn, đặt ra nhiều vấn đề về môi trường, năng lượng, lương thực, và các vấn
đề xã hội kèm theo. Tăng dân số trong bối cảnh toàn cầu hoá làm cho di cư quốc
tế tăng lên cả về số lượng và phạm vi. Trong khi các nước đều có nhu cầu ngày
càng lớn về giữ gìn bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá, thì nhân tố di
cư tác động bất lợi cho việc duy trì bản sắc và củng cố đoàn kết dân tốc / sắc tộc
6

trong phạm vi mỗi nước. Những điều này có thể là thách thức đối với nhiều
nước và làm phức tạp thêm quan hệ giữa các nước, nhất là các nước láng giềng.
2. Đặc điểm tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương 5 đến 10
năm tới
Trong 5 đến 10 năm tới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục

phát triển năng động, trở thành “tâm điểm” của quan hệ quốc tế.
- So sánh lực lượng ở khu vực thay đổi ngày càng nhanh. Trung Quốc tiếp
tục trỗi dậy, có vai trò và ảnh hưởng lớn hơn ở khu vực. Cùng với sự nổi lên của
chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, Trung Quốc trỗi dậy sẽ trực tiếp thách thức Mỹ,
Nhật và nhiều nước khác. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng phải đối phó với nhiều
thách thức: Về nội bộ, phải điều chỉnh các mất cân đối kinh tế, xã hội, giảm cách
biệt giàu nghèo ; các vấn đề ly khai, dân tộc, tôn giáo; về đối ngoại, các nước
ngày càng nghi ngại sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhất là việc Trung Quốc vươn
lên về quân sự. Quan hệ Mỹ - Trung trở thành nhân tố chủ yếu tác động tới tình
hình CA - TBD. Mỹ và Trung Quốc đều có lợi ích và ảnh hưởng to lớn ở khu
vực, Mỹ tiếp tục coi Trung Quốc là “đối thủ” thách thức vị trí số một của Mỹ,
giữa hai nước tồn tại sự khác biệt căn bản về hệ thống giá trị nhưng đan xen lợi
ích mọi mặt, nhất là về kinh tế sẽ tiếp tục gia tăng. Trong 5 - 10 năm tới, hợp tác
là xu hướng chính của quan hệ Trung - Mỹ nhưng “cọ sát” cũng gia tăng, nhất là
trong những lĩnh vực, khu vực hai bên có lợi ích chiến lược. Ở mức độ khác
nhau, các nước trong khu vực, nhất là các nước láng giềng với Trung Quốc và
các nước thuộc các khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc, đều
phải linh hoạt điều chỉnh chính sách của mình theo những thay đổi của quan hệ
giữa hai cường quốc này. Mỹ coi quan hệ với Trung Quốc là mối quan hệ song
phương quan trọng nhất, ảnh hưởng hoặc chi phối các mối quan hệ khác của
Mỹ, duy trì quan hệ ổn định và tránh đối đầu, hợp tác lôi kéo Trung Quốc trong
những vấn đề Mỹ có lợi, tranh thủ Trung Quốc để giải quyết hậu quả của cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu; thông qua đối thoại, hợp tác với Trung
Quốc, tập hợp các đồng minh để củng cố và các cơ chế và chuẩn mực quốc tế
“trói buộc”, hướng Trung Quốc thành “cổ đông có trách nhiệm”!. Mỹ cũng tăng
cường quan hệ với các nước đồng minh (Nhật Bản, Hàn Quốc), củng cố lực
7

lượng quân sự triển khai trong khu vực, lôi kéo các nước khác (Ấn Độ, ASEAN
và các nước láng giềng Trung Quốc), và ngăn khả năng Trung Quốc tập hợp lực

lượng mới. Trung Quốc có nhu cầu xây dựng hình ảnh một nước lớn đối với
cộng đồng quốc tế với học thuyết “sự trỗi dậy hoà bình”, chủ trương hợp tác
chiến lược với các nước lớn, nhất là Mỹ, cố gắng xây dựng khuôn khổ quan hệ
hợp tác toàn diện ổn định lâu dài với các nước lớn, chủ động tranh giành lợi ích
và ảnh hưởng với Mỹ ở khu vực. Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là “vững
chân ở châu Á, vươn ra thế giới” Trung Quốc coi châu Á là khu vực ảnh hưởng
trực tiếp, là “cơ sở quyền lực” để Trung Quốc chơi ván bài nước lớn và mở rộng
ảnh hưởng ra các khu vực khác. Trung Quốc cũng công khai và mạnh bao hơn
trong các tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, nhất là liên quan đến biển đảo và
công khai phát triển và phô diễn sức mạnh quân sự để hỗ trợ cho các đòi hỏi về
chủ quyền tại các vùng tranh chấp. Ấn Độ tuy vẫn là nước nghèo, thua kém các
cường quốc khác về trình độ phát triển, trình độ KHCN, ảnh hưởng đối ngoại
nhưng với vị thế của một cường quốc có vũ khí hạt nhân và với nền kinh tế
đang tăng trưởng khá nhanh, Ấn Độ có “sức nặng” đáng kể trong bàn cờ chiến
lược ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương. Song song với việc khẳng định vai
trò ở khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương. Ấn Độ sẽ thúc đẩy chiến lược “hướng
Đông”, một phần để kết nối với khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, mặt
khác mang tính chất phản ứng đối với các hoạt động của Trung Quốc xung
quanh vùng Ấn Độ Dương. Sức mạnh tăng lên và sự tham gia tích cực hơn của
Ấn Độ ở khu vực CA - TBD sẽ làm gia tăng vai trò “đối trọng” của Ấn Độ trong
các mối quan hệ Mỹ - Trung, Mỹ - Trung - Nga Vai trò của Nhật ở khu vực
vẫn hạn chế và tiếp tục phụ thuộc vào Mỹ về an ninh. Tuy nhiên, đang điều
chỉnh chiến lược theo hướng bớt lệ thuộc vào Mỹ và gắn kết hơn với châu Á, coi
châu Á là nơi xây dựng “cơ sở quyền lực” của chiến lược nước lớn. Theo đó sẽ
tăng cường viện trợ và đầu tư vào các nước Đông Nam Á, tích cực ủng hộ vị trí
và vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực để qua đó phát huy vai trò
của mình cũng như hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Nga tiếp tục phục hồi
nhưng chưa vững chắc. Tuy nhiên, với vị thế là cường quốc về vũ khí chiến lược
và về dầu lửa và khí đốt, Nga tiếp tục có vai trò lớn trong các vấn đề an ninh,
quân sự toàn cầu. Nga sẽ coi trọng hơn khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ

8

đó khẳng định tư thế đặc thù của một cường quốc Á - Âu; tăng cường hợp tác
với Trung Quốc, Ấn Độ trong thúc đẩy một cục diện thế giới đa cực. Nhưng khu
vực châu Á - Thái Bình Dương không phải là ưu tiên trong chiến lược khu vực
của Nga. Do đó, quan tâm và cạnh tranh vai trò của Nga ở khu vực này sẽ ở mức
độ vừa phải. ASEAN còn có nhiều khó khăn nhưng vẫn đóng vai trò hạt nhân
thúc đẩy hợp tác ở khu vực.
- Các vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến an ninh và phát triển cả khu vực: (1)
Các tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo trở nên phức tạp hơn, tuy khó bùng
phát thành xung đột lớn nhưng tiếp tục gây bất ổn định trong khu vực, nhất là
giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Đặc biệt, tình hình Biển Đông có thể
có những phát triển phức tạp. Việc triển khai DOC và các cơ chế hợp tác khác ở
Biển Đông có thể tiếp tục bế tắc. Các bên, liên quan cạnh tranh mạnh hơn trên
tất cả các mặt pháp lý, kiểm soát thực tế, thăm dò khai thác dầu khí, tăng cường
vũ trang v.v Việc một số nước lớn khác như Mỹ, Ấn Độ quan tâm hơn tới
Biển Đông, ngoài khía cạnh tích cực, cũng có thể làm cho tình hình phức tạp
hơn. (2) Bất ổn nội trị của nhiều nước có thể sẽ còn tăng lên (3). Các vấn đề an
ninh phi truyền thống như : Thiên tai, dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu,
an ninh lương thực, an ninh năng lượng, khủng bố.
3. Việt Nam trong chiến lược của một số đối tác chủ chốt
- Trung Quốc với mục tiêu chiến lược trở thành cường quốc hàng đầu thế
giới, Đông Nam Á và ASEAN sẽ là một trọng điểm trong chiến lược toàn cầu
của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tập trung phát triển ảnh hưởng ở Đông Nam Á
lục địa thông qua đẩy mạnh quan hệ với từng nước và triển khai các chương
trình / dự án mà Trung Quốc giữ vai trò chủ đạo, đặc biệt là chiến lược Một trục
Hai cánh. Đồng thời, tiếp tục gia tăng ảnh hưởng với ASEAN và các nước khác
để trở thành nước lớn có ảnh hưởng nổi trội ở khu vực Đông Nam Á, từ đó vươn
ra các khu vực khác. Theo đó, Trung Quốc có nhu cầu thúc đẩy quan hệ với Việt
Nam, muốn Việt Nam hỗ trợ Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á,

phá thế kiểm toả về chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc. Mặt khác, Trung
Quốc cũng muốn Việt Nam ở trong vòng ảnh hưởng và là vùng đệm về an ninh
ở phía Nam của mình.
9

- ASEAN triển khai Hiến chương, xây dựng cộng đồng kinh tế vào năm
2015. Nếu không đạt được mục tiêu này,đặc biệt là tăng cường đoàn kết và liên
kết kinh tế nội khối, thì vai trò và vị thế của Hiếp hội sẽ bị thách thức nghiêm
trọng. Việt Nam là một nước lớn có vị trí khá quan trọng trong Hiệp hội, các
nước ASEAN cần Việt Nam có vai trò lớn hơn. Trong 5 - 10 năm tới, chính sách
đối với Việt Nam của các nước ASEAN ít có khả năng thay đổi lớn, các nước
ASEAN ở mức độ khác nhau đều có lợi ích tăng cường hợp tác với Việt Nam để
khai thác thị trường và đầu tư vào Việt Nam, đồng thời tạo thế trên các diễn đàn
kinh tế, chính trị quốc tế và trong quan hệ với các nước lớn trong đó có việc
dùng quan hệ với Việt Nam để phần nào “đối trọng” với ảnh hưởng kinh tế,
chính trị và quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc ở Đông Nam Á và giảm sức
ép chính trị và nhân quyền của Mỹ và EU.
- Mỹ có mục tiêu chiến lược xuyên suốt là duy trì vị thế siêu cường số
một và vai trò lãnh đạo thế giới; thúc đẩy việc “mở rộng dân chủ”, phổ biến các
“giá trị Mỹ”. Mỹ coi Đông Nam Á tuy không phải là trọng tâm trong chiến lược
toàn cầu của Mỹ nhưng là một mắt xích quan trọng trong chiến lược kiềm chế
và can dự Trung Quốc. Mỹ sẽ coi trọng hơn vị trí của ĐNA lục địa, thúc đẩy
quan hệ với nhóm nước CLMV (Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam), tham gia
sâu hơn vào các dự án Mê-kông. Theo đó, Việt Nam cũng có vị trí quan trọng
hơn trong chính sách của Mỹ đối với Đông Á và Đông Nam Á. Mỹ có lợi ích ở
một Việt Nam ổn định, lớn mạnh, độc lập và có vai trò lớn hơn trong ASEAN.
Nhưng Mỹ cũng không muốn bị lôi kéo vào những “rắc rối” giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Đồng thời, Mỹ vẫn thúc đẩy “diễn biến hoà bình” nhưng đây
không phải là ưu tiên cao nhất trong chính sách của Mỹ đối Việt Nam trong 5 -
10 năm tới và không phải Mỹ muốn làm gì cũng được.

- Nhật Bản sẽ coi trọng hơn quan hệ về Việt Nam. Nhật có lợi ích ở một
Việt Nam mạnh, cải cách và hội nhập thành công, có vai trò ngày càng tăng
trong ASEAN và khu vực ĐNA. Trong 5 năm tới, song song với thúc đẩy quan
hệ song phương với Việt Nam trên mọi lĩnh vực kể cả an ninh, quốc phòng,
Nhật sẽ quan tâm nhiều hơn tới Tiểu Vùng Mê-kông mở rộng và hợp tác Vịnh
Bắc bộ mở rộng.
10

- Nga chú trọng hơn thúc đẩy quan hệ với ASEAN. Trong ASEAN, Việt
Nam là đối tác truyền thống của Nga. Nga có lợi ích thúc đẩy quan hệ kinh tế
với Việt Nam, mở rộng hợp tác với Việt Nam trên các lĩnh vực Nga có thế
mạnh, nhất là về quân sự. Trong 10 - 15 năm tới, Nga có lợi ích trong việc tạo
chỗ đứng lâu dài ở Việt Nam và thông qua Việt Nam để phát huy ảnh hưởng ở
khu vực Đông Nam Á.
- Liên minh châu Âu (EU) nói chung và các nước thành viên đều có lợi
ích tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Với mức độ khác nhau, các thành viên EU đều duy trì quan hệ hữu nghị, hợp tác
với Việt Nam, coi trọng vị trí và vai trò của Việt Nam ở khu vực. Tuy EC và
một số nước EU vẫn thông qua vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để gây sức
ép với Việt Nam, nhưng các nước thành viên nói riêng và EC nói chung không
đe doạ trực tiếp an ninh của Việt Nam, có chính sách tương đối độc lập với Mỹ
về một số vấn đề quốc tế và trong quan hệ với Việt Nam.
- Chính sách của Ấn Độ với Việt Nam được xây dựng trên tình hữu nghị
truyền thống giữa hai nước và là một bộ phận trong “chính sách hướng Đông”
của Ấn Độ. Ấn Độ muốn khai thác quan hệ chính trị tốt đẹp với ta để phát huy
ảnh hưởng ở Đông Nam Á và Đông Á, đồng thời cạnh tranh ảnh hưởng với
Trung Quốc tại khu vực này. Trong 5 - 10 năm tới, Ấn Độ sẽ quan tâm hơn tới
Biển Đông nhưng ảnh hưởng của Ấn Độ vẫn chưa vượt ra khỏi khu vực Ấn Độ
Dương.
4. Cơ hội phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới của thế giới và

khu vực
Nhìn chung, trong 5 - 10 năm tới môi trường quốc tế phát triển của Việt
Nam có những thuận lợi rất cơ bản và cũng có thể nói Việt Nam đang đứng
trước “thời cơ lớn” để bứt phá về phát triển.
- Sau hơn 20 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam đã tăng lên nhiều.
Việt Nam duy trì được ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế, có đường lối đối
ngoại hoà bình, hợp tác; với vị trí địa - chiến lược quan trọng và có vai trò nhất
định ở khu vực và trên thế giới. Mặc dù không được ưu tiên cao trong chính
11

sách đối ngoại của hầu hết các nước, đa số các nước trên thế giới, nhất là các đối
tác chủ chốt đều coi trọng thúc đẩy quan hệ với Việt Nam.
- Mặc dù vẫn tồn tại sự khác biẹt trong một số lĩnh vực, vấn đề nhưng
giữa Việt Nam và đa số các nước không có vướng mắc lớn đến mức có thể làm
đổ vỡ quan hệ hiện có. Chính sách và ảnh hưởng giữa các nước lớn hiện nay và
trong 5 năm tới mở ra cơ hội để chúng ta có thể tiếp tục thúc đẩy quan hệ với
từng nước.
- Thời cơ đối với đất nước ta là xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác để
phát triển vẫn là chủ đạo trên thế giới, mặc dù vẫn còn nguy cơ xảy ra xung đột
vũ trang, thậm chí cả chiến tranh cục bộ.
- Thực lực của chúng ta tiếp tục tăng cường, vị thế của đất nước ở khu
vực và trên thế giới được củng cố, việc ta trở thành thành viên WTO, vừa hoàn
thành nhiệm kỳ uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc
2008 - 2009, tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn thành công, làm Chủ tịch
ASEAN tạo tiền đề cho việc chủ động tham gia hội nhập thế giới và khu vực,
tích cực tham gia vào các công việc và tác động vào các diễn biến tích cực tình
hình ở khu vực.
- Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực năng động, sự phát triển
mạnh của cách mạng khoa học công nghệ và tự do hoá đẩy mạnh, đầu tư cùng
với việc ta gia nhập WTO sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam đẩy mạnh được xuất

khẩu, tranh thủ đầu tư vốn và công nghệ cho phát triển đất nước. ASEAN ngày
càng liên kết chặt chẽ hơn, tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong các hợp tác khu
vực và thu hút được sự quan tâm của các đối tác lớn ngoài khu vực.

II TRUNG QUỐC NGÀY NAY VÀ DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA
TRUNG QUỐC ĐẾN THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU THỜI KỲ TỚI
1. Khái quát quá trình trỗi dậy của Trung Quốc trong nền kinh tế và
thương mại toàn cầu.
Nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu thay đổi cơ cấu sâu sắc từ năm 1949 khi
nước CHND Trung Hoa được thành lập. Thời kỳ đầu, chính sách phát triển kinh
12

tế là kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trong giai đoạn 1960 - 1970 có những điều
chỉnh trong chính sách phát triển mang tính thực tiễn hơn. Tuy nhiên những cải
cách lớn chỉ thực sự bắt đầu khi Trung Quốc tiến hành mở cửa vào năm 1978.
Trong các thời kỳ phát triển, các kế hoạch kinh tế 5 năm đóng vai trò chính chỉ
đạo sự phát triển của nền kinh tế.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 - 1957) theo đuổi việc công nghiệp
hoá nhanh chóng theo kiểu kinh tế Xô Viết, nhấn mạnh vào gia tăng sản lượng
thép và các ngành công nghiệp nặng. Kết quả là nông nghiệp gia tăng sản lượng
với mức trung bình 4%/năm, công nghiệp tăng trưởng trung bình ở mức trên
19%/năm.
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai bị che phủ bởi chính sách Đại Nhảy Vọt với
trọng tâm là xây dựng các làng xã tự cung tự cấp, phi tập trung hoá công nghiệp.
Theo các chuyên gia kinh tế nước ngoài ước tính, sản lượng nông nghiệp Trung
Quốc thời kỳ này đã giảm 1%, sản lượng công nghiệp chỉ tăng khoảng 6% trong
cả giai đoạn 1958 - 1960. Sau khi mùa màng bị thất bát nặng vào năm 1960 -
1961, chính sách ưu tiên nông nghiệp được đưa ra và tận dụng mọi diện tích đất
phục vụ canh tác.
Kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ ba (1966 - 1970) được xây dựng mang

tính thực tế nhiều hơn, dự kiến thúc đẩy sự phát triển nhanh của tất cả các khu
vực kinh tế đã bị huỷ bỏ do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hoá. Năm 1969,
Chính phủ Trung Quốc đưa ra một báo cáo kêu gọi cách tiếp cận thoáng hơn với
thương mại và giao lưu kinh tế quốc tế. Trong nước, Chính phủ vận động người
lao động làm việc vì trách nhiệm hơn là vì lợi ích vật chất, đề xuất sử dụng lợi
nhuận từ bán hàng nông sản và công nghiệp nhẹ để đầu tư cho sản xuất công
nghiệp.
Kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ tư (1971 - 1975) được coi là thành công
khi nông nghiệp tăng gấp rưỡi và công nghiệp tăng gần gấp hai lần so với năm
1964.
Kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1976 - 1980) đặt ưu tiên hiện đại hoá kinh
tế và lần đầu tiên nhấn mạnh vào phát triển công nghiệp nhẹ hơn là công nghiệp
nặng. Thủ tướng Chu Ân Lai là người đầu tiên đưa ra mục tiêu Bốn hiện đại hoá
13

(công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật hiện đại, quốc
phòng hiện đại). Việc thực thi kế hoạch đã bị hoãn lại cho đến năm 1978, năm
đầu tiên Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa nền kinh tế. Kể từ
năm 1978 Trung Quốc đã cải cách nền kinh tế từ một nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung theo mô hình Liên Xô sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường
được gọi là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Chính phủ đã
chuyển đổi từ chế độ hợp tác xã sang chế độ khoán đến từng hộ gia đình trong
lĩnh vực nông nghiệp, tăng quyền tự chủ của các quan chức địa phương và các
thủ trưởng nhà máy, cho phép sự phát triển đa dạng của doanh nghiệp nhỏ trong
lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp nhẹ và mở cửa nền kinh tế để tăng ngoại hối và
đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã tập trung vào việc gia tăng thu nhập, sức tiêu
thụ và đã áp dụng nhiều hệ thống quản lý để giúp tăng năng suất. Chính phủ
cũng đã tập trung vào xuất nhập khẩu như một đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (1981 - 1985) tái khẳng định cam kết cải
cách, phát triển theo hướng mở cửa nhằm thực hiện Bốn hiện đại hoá. Chính phủ

Trung Quốc dành 115 tỷ USD cho xây dựng cơ bản, 65 tỷ USD cho nâng cấp
cơ sở hạ tầng. Trong thời gian này, GDP tăng ở mức khoảng 10%/năm, sản
lượng công nghiệp tăng 12%/năm, sản lượng nông nghiệp tăng 8,1%/năm.
Kế hoạch 5 năm lần thứ bảy (1986 - 1990) đưa ra các mục tiêu chính:
Sản lượng công nghiệp tăng 7,5%/năm, sản lượng nông nghiệp tăng 4%/năm,
thu nhập quốc dân tăng 6,7%/năm và ngoại thương tăng 40%; đầu tư 54 tỷ USD
cho 925 dự án phát triển chính trong các lĩnh vực năng lượng, nguyên liệu thô,
giao thông vận tải, liên lạc viễn thông; đầu tư 74,6 tỷ USD chuyển đổi công
nghệ cho các doanh nghiệp Nhà nước; thu nhập bình quân đầu người ở nông
thôn tăng thêm 151 USD/năm.
Trong thập niên 1980, các cải cách này đã giúp cho sản lượng nông
nghiệp và công nghiệp hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng lên tới trên 10%. Thu
nhập thực tế bình quân đầu người ở nông thôn đã tăng gấp đôi. Khu vực duyên
hải gần Hồng Kông và đối diện với eo biển Đài Loan phát triển nhanh chóng do
vốn đầu tư nước ngoài đã giúp thúc đẩy sản lượng của cả hàng hoá nội địa và
hàng xuất khẩu. Trung Quốc đã trở thành một nước tự túc được về ngũ cốc; các
14

ngành công nghiệp ở nông thôn đã chiếm 23% sản lượng nông nghiệp, giúp thu
hút lực lượng lao động ở nông thôn. Lượng hàng tiêu dùng và công nghiệp nhẹ
đã tăng lên. Chính phủ cũng bắt đầu tiến hành cải cách hệ thống tài chính công,
hệ thống ngân hàng, quản lý giá cả và chính sách lao động.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, Trung Quốc gặp một số vấn đề như phân hoá
giầu nghèo, lam phát tăng cao do cải cách giá cả, những tồn dư của thời kỳ bao
cấp làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế. Năm 1988, Chính phủ Trung Quốc
đưa ra chính sách thắt chặt kiểm soát kinh tế.
Để thúc đẩy tăng cường cải cách mở cửa hơn nữa, nhà lãnh đạo cải cách
Đặng Tiểu Bình đã có chuyến thị sát các tỉnh miền Nam năm 1992. Cuối năm
1992, Trung Quốc quyết định theo đuổi chính sách cải cách mạnh mẽ hơn. Việc
thành lập các đặc khu kinh tế đã tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế do thu hút

được nguồn vốn đầu tư nước ngoài lớn. Trung Quốc đã đưa ra những cải cách
mang tính dài hạn với mục tiêu nền kinh tế hoạt động theo nguyên tắc thị trường
nhiều hơn, tăng cường kiểm soát hệ thống tài chính trong khi các doanh nghiệp
quốc doanh tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong nhiều ngành then chốt. Trung
Quốc cũng tăng lãi suất và đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư đẻ kiềm chế sự
tăng trưởng quá nóng cũng như kiểm soát lạm phát.
Kế hoạch 5 năm lần thứ chín (1996 - 2000): Tập trung vào phân bổ các
nguồn lực cho phát triển một cách hợp lý để tạo hiệu quả cao hơn với mục tiêu
đưa thu nhập quốc dân năm 2000 tăng gấp 4 lần năm 1980 và tiếp tục tăng gấp
đôi thu nhập quốc dân vào năm 2010 so với năm 2000.
Kế hoạch 5 năm lần thứ mười (2001 - 2005) đưa ra các ưu tiên: Thiết lập
mô hình hiện đại cho các doanh nghiệp Nhà nước, cải thiện an ninh xã hội, hội
nhập sâu và mạnh vào nền kinh tế thế giới. Kế hoạch cũng đưa ra các mục tiêu
phát triển giáo dục, bảo vệ môi trường và giải quyết việc làm cho số lượng lớn
lao động dôi dư ở nông thôn.
Trong một quãng thời gian tương đối dài kể từ khi tiến hành cải cách mở
cửa vào năm 1978, Trung Quốc chủ yếu dựa vào biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu
làm phương thức tăng trưởng kinh tế, biện pháp này đã thúc đẩy kinh tế Trung
Quốc phát triển rất nhanh. Tổng kim ngạch XNK của Trung Quốc vào năm
15

1978, năm đầu tiên của công cuộc cải cách mở cửa chỉ đạt có 20,64 tỷ USD thì
đến cuối năm 2007 tổng kim ngạch XNK của Trung Quốc đạt 2.173,83 tỷ USD.
Cán cân thương mại từ thâm hụt 1,14 tỷ USD năm 1978 đã chuyển thành thặng
dư 262 tỷ USD năm 2007. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng
cũng gây những tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của Trung Quốc như
tiêu hao tài nguyên, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, sản phẩm thô, sản
phẩm giá rẻ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu, xuất siêu lớn là nguyên
nhân dẫn đến thường xuyên tranh chấp trong thương mại Để khắc phục tình
trạng này, trong những năm gần đây Trung Quốc đã đưa ra nhiều biện pháp để

thay đổi phương thức phát triển kinh tế như giảm mậu dịch gia công, hạn chế
xuất khẩu những mặt hàng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm cao và mang
tính tài nguyên, giảm thặng dư thương mại, tăng cường xuất khẩu hàng hoá có
giá trị cao, đẩy mạnh nội nhu, tăng cường nhập khẩu thiết bị công nghệ cao.
Trong 15 năm qua, hai động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Trung
Quốc là đầu tư của Nhà nước và xuất siêu, bên cạnh đó là tiêu dùng.
Tại Đại hội làn thứ XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh
đạo cao cấp của Trung Quốc đã nhận định rằng, mô hình tăng thành công trong
quá khứ không còn thích hợp cho giai đoạn phát triển sắp tới của Trung Quốc
và vì vậy cần có sự điều chỉnh chiến lược. Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đưa ra tư
tưởng “Phát triển khoa học kỹ thuật” và “Xây dựng xã hội hài hoà”, phát triển
kinh tế tri thức, nhấn mạnh yếu tố bền vững của tăng trưởng như là một sự kết
hợp của việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường
và tăng cường công bằng xã hội.

2. Những thách thức đối với phát triển của Trung Quốc trong thời
gian tới:
- Vấn đề lao động và việc làm:
Thực tiễn phát triển của Trung Quốc trong mấy chục năm qua cho thấy,
vai trò đầu tàu trong việc tạo công ăn việc làm ở khu vực đô thị của DNNN đã
mất đi và sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Mặc dù tốc độ tạo việc làm mới có
tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với trước vì giờ đây doanh nghiệp chịu sức ép
phải trở nên hiệu quả hơn. Cụ thể là, theo dự đoán, tốc độ tăng trưởng việc làm
16

trong thập kỷ tới ở Trung Quốc sẽ vào khoảng 1,4%/năm, tuy có tăng đôi chút
so với tốc độ 1,1%/năm trong những năm 1990, nhưng vẫn thấp hơn hẳn so với
tốc độ 4,2% trong những năm 1980.
Làm thế nào để tạo ra nhiều việc làm mới sẽ là một trong những ưu tiên,
đồng thời là mối lo lắng lớn nhất của lãnh đạo Trung Quốc trong thập kỷ tới. Số

liệu chính thức của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển cho biết hiện nay, mỗi
năm có khoảng 24 triệu người Trung Quốc (bao gồm cả sinh viên mới ra
trường và lao động di cư) gia nhập thị trường lao động, và con số này sẽ còn
tăng lên trong 20 - 30 năm tới. Trong khi đó, thị trường lao động của Trung
Quốc hiện chỉ hấp thụ được khoảng 10 - 12 triệu lao động mới mỗi năm. Nghịch
lý hiện nay của thị trường lao động ở Trung Quốc nằm ở chỗ, trong khi sức ép
vềtạo việc làm rất lớn, trong khi khu vực kinh tế Nhà nước và tập thể (hai nguồn
tạo việc làm chính trong quá khứ) đang phải sa thải công nhân, thì khu vực có
tiềm năng lớn nhất trong việc giải toả sức ép về việc làm lại không được tạo
điều kiện thích hợp để phát triển, chủ yếu là do sự kỳ thị sẵn có của Nhà nước
đối với khu vực này. Những xu thế này là nguồn gốc gây nên bất ổn định ở
Trung Quốc. Mức độ thực tế của tình trạng bất ổn định này tuỳ thuộc vào tốc độ
tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế, vào khả năng tạo công ăn việc làm
của khu vực ngoài Nhà nước, và vào năng lực của Chính phủ trong việc kiểm
soát tình hình.
Giải pháp tốt nhất cho vấn đề việc làm ở Trung Quốc là phát triển khu
vực dịch vụ vì hiện nay, tỷ lệ việc làm trong khu vực này ở Trung Quốc là tương
đối thấp so với các nước có mức phát triển tương đương. Nếu khu vực này được
mở cửa rộng rãi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài thì có thể tạo thêm 40 – 50
triệu việc làm. Một giải pháp khác là phát triển khu vực dân doanh. Về mặt địa
lý, các doanh nghiệp dân doanh của Trung Quốc tập trung chủ yếu ở các tỉnh
ven biển. Riêng 5 tỉnh, thành phố Giang Tô, Quảng Đông, Chiết Giang, Thượng
Hải, và Bắc Kinh đã chiếm tới 54% số doanh nghiệp dân doanh, gấp hơn 4 lần
số doanh nghiệp dân doanh của tất cả các tỉnh miền Tây cộng lại. Phát triển kinh
tế dân doanh cũng là một biện pháp để cải thiện kinh tế địa phương vì theo số
liệu thống kê, tỷ lệ doanh nghiệp dân doanh của một địa phương càng lớn thì
mức sống trung bình của người dân ở địa phương ấy càng cao.
17

- Vấn đề bất bình đẳng, công bằng xã hội và cán cân thương mại:

Tình trạng gia tăng bất bình đẳng, đặc biệt giữa khu vực nông thôn và
thành thị là một sản phẩm phát sinh của quá trình cải cách. Để đạt mục tiêu tăng
trưởng, Trung Quốc cần phải tạo ra cầu để từ đó thúc đẩy sản xuất. Trong thập
kỷ vừa qua. hai động cơ tăng trưởng của Trung Quốc là đầu tư của Nhà nước và
xuất siêu, bên cạnh đó là tiêu dùng. Nếu chúng ta nhìn vào tương lai thì thấy
mặc dù đầu tư, đặc biệt là đầu tư CSHT và công nghiệp vẫn tiếp tục đóng một
vai trò quan trọng, nhưng với tỷ lệ đầu tư đã quá cao như hiện nay, Trung Quốc
sẽ khó có thể tăng thêm đầu tư công một cách đáng kể. Với qui mô hiện tại thì
xuất khẩu của Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục mở rộng, tuy nhiên tốc độ này rồi
cũng sẽ phải giảm dần. Tỷ lệ giữa kim ngạch ngoại thương và GDP hiện nay của
Trung Quốc đã lên tới gần 70%, một tỷ lệ rất cao đối với một nền kinh tế lớn
như Trung Quốc. Đồng thời, vì nhập khẩu cũng sẽ phải tăng lên để đáp ứng nhu
cầu của sản xuất nên thặng dư thương mại của Trung Quốc cũng sẽ giảm dần.
Kết quả là tiêu dùng trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh
tế. Đến lượt mình, sự mở rộng tiêu dùng lại bị giới hạn bởi tỷ lệ tiết kiệm rất cao
của người dân vì họ muốn phòng trường hợp gia đình có người ốm, con cái đi
học, hay phải chi các khoản đột xuất khác. Tỷ lệ tiết kiệm của Trung Quốc tăng
từ 26% năm 1995 lên 43% năm 2004 và khoảng 40 - 42% trong giai đoạn 2005 -
2009, trong khi tỷ lệ tiết kiệm ở các nước OECD chỉ vào khoảng 10% (với Mỹ
là một ngoại lệ vớitỷ lệ tiết kiệm chưa tới 1%). Singapo cũng có tỷ lệ tiết kiệm
xấp xỉ với Trung Quốc, nhưng khác biệt lớn giữa hai quốc gia này là tiết kiệm
của Sìngapo bao gồm cả những khoản đóng góp bắt buộc vào chương trình an
sinh xã hội.
Bên cạnh thực tế là các nguồn tăng trưởng chính của Trung Quốc bao
gồm đầu tư công, xuất siêu, và tiêu dùng ít có khả năng mở rộng thêm thì tăng
trưởng của Trung Quốc còn bị giới hạn bởi một số yếu tố khác như dân số đang
già đi, tài nguyên nước và năng lượng ngày càng trở nên khan hiếm và đắt đỏ,
và ô nhiễm. Tình hình ô nhiễm ở Trung Quốc đang xấu đi một cách trầm trọng,
đặc biệt là ô nhiễm nước và không khí. Hai phần ba số thành phố của Trung
Quốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng không khí và 10% số vụ tử vong của

18

người lớn ở Thượng Hải có nguyên nhân từ ô nhiễm không khí. Để khắc phục
khó khăn về năng lượng, Chính phủ Trung Quốc đã đặt ra mục tiêu giảm lượng
tiêu thụ điện 20% cho mỗi một đơn vị tăng trưởng - một mục tiêu có lẽ khó
thành hiện thực.
Với sự thay đổi của giá cả theo hướng có lợi cho các sản phẩm nông
nghiệp, mức sống của người dân được cải thiện, làm tiền để cho sự tăng trưởng
nhu cầu đối với hàng công nghiệp nhẹ và khoảng cách thành thị - nông thôn
được thu hẹp một cách nhanh chóng. Thế nhưng từ năm 1985 trở đi, Trung
Quốc chủ trương nới rộng giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và nông nghiệp
theo hướng có lợi cho hàng công nghiệp và do vậy, làm giảm thu nhập và suất
sinh lợi của đầu tư trong nông nghiệp. Đồng thời, tăng trưởng của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài có qui mô lớn bắt đầu cất cánh ở vùng duyên hải miền
Đông. Những doanh nghiệp này thâm dụng vốn nhiều hơn và có liên kết với thị
trường nước ngoài chặt chẽ hơn.
Sự ổn định về thu nhập của cư dân đô thị cũng ngày càng trở nên bấp
bênh vì DNNN sa thải rất nhiều công nhân và tỷ lệ thất nghiệp của công nhân đô
thị - vốn từng là đối tượng được ưu ái - tăng nhanh. Từ khi bắt đầu cải cách
DNNN vào đầu những năm 1990 cho đến nay, khoảng 55 triệu công nhân đã
phải nghỉ việc. Theo số liệu thống kê chính thức, tỷ lệ thất nghiệp vào giữa
những năm 1990 chỉ là 3% và tăng lên gần 5% vào năm 2005. Tuy nhiên, theo
một số nguồn thông tin độc lập, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay có thể lên tới 12 -
13%. Bên cạnh đó, tỷ lệ thiểu dụng lao động cũng xấp xỉ 23%.
Tương tự như cải cách DNNN, những cải cách trong lĩnh vực giáo dục và
y tế theo đó người sử dụng các dịch vụ này phải đóng phí đã làm xói mòn hệ
thống an sinh xã hội của cả khu vực thành thị và nông thôn. Chi phí y tế giờ đây
đã trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây nên tình trạng
nghèo khó ở Trung Quốc. Hệ thống bảo hiểm y tế được thực hiện từ năm 2003
chủ yếu chỉ phục vụ những người khá giả sống ở nông thôn chứ không đem lại

lợi ích cho người nghèo, những người cần được bảo hiểm nhất.
- Thiếu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia tầm cỡ toàn cầu, sẽ có
những hạn chế trong cạnh tranh toàn cầu dài hạn:
19

Một thời gian khá dài chạy theo tăng trưởng, xem nhẹ phát triển bền vững
về mặt xã hội và môi trường nên Trung Quốc đã phải trả giá cho phát triển bền
vững. Nhưng ngay cả sau khi phải trả những cái giá nhất định về xã hội và môi
trường để đạt cho kỳ được mục tiêu tăng trưởng trong ba thập kỷ liên tục thì quá
trình công nghiệp hoá của Trung Quốc vẫn còn khá “nóng”. Mặc dù Trung Quốc
đã là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới từ năm 2009, nhưng nó chỉ có 22 công ty
trong danh sách Top 500 của Fortune’s Global. Không những thế, những công
ty này đều thuộc những ngành được bảo hộ cao và thiếu tính cạnh tranh (dầu
khí, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, đường sắt, truyền tải điện). Trung Quốc
cũng không có doanh nghiệp nào nằm trong Top 100 của Business Week, đồng
thời cũng chỉ có 2 doanh nghiệp đa quốc gia thực sự là Lenovo và Huawei. Tăng
trưởng xuất khẩu của Trung Quốc hầu như vẫn dựa vào các ngành công nghiệp
thâm dụng lao động giá rẻ và vào các doanh nghiệp nước ngoài. Theo số liệu
của OECD thì các doanh nghiệp FDI chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu của
ngành điện tử - viễn thông và 55% tổng kim ngạch xuất khẩu vào của Trung
Quốc. Cũng bằng chiến lược này, Trung Quốc đã nâng tỷ trọng kim ngạch ngoại
thương của mình (trong tổng giao dịch ngoại thương của thế giới) từ 4% năm
2000 lên tới 10% năm 2007 và 12,8% năm 2009. Kim ngạch xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ năm 2006 là 232,5 tỷ đô-la, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Trung Quốc.
- Thách thức về thiếu công nghệ cao đang gia tăng:
Cho đến nay Trung Quốc vẫn chưa thành công trong việc thu hẹp khoảng
cách về công nghệ giữa các DNNN của mình với những công ty hàng đầu của
thế giới. Điều này không chỉ đúng đối với các ngành công nghệ cao như máy
tính, điện tử, dược phẩm mà còn đúng với những ngành có mức độ công nghệ

trung bình như linh kiện ô tô, thép, điện gia dụng. Cho đến năm 2007, Trung
Quốc vẫn chưa có công ty nào nằm trong Top 250 công ty toàn cầu về đầu tư
cho R & D và đến năm 2004 Trung Quốc chỉ đứng thứ 74 trong bản xếp hạng
của UNCTAD về “Chỉ số Năng lực Sáng tạo”, đứng sau cả Tajikistan. Tăng
trưởng cao trong những năm qua của Trung Quốc được duy trì không phải nhờ
vào cải thiện công nghệ mà là nhờ tỷ lệ đầu tư kỷ lục lên tới 35 - 40% GDP. Tuy
nhiên, những khoản đầu tư này được phân bổ chủ yếu cho các DNNN, trong khi
20

các doanh nghiệp tư nhân vẫn có qui mô nhỏ, trung bình sử dụng 60 - 70 lao
động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dân doanh của Trung Quốc thì chủ yếu là
công ty nhỏ, có tuổi thọ ngắn hơn 3 năm. Nguyên nhân của tình trạng này là
Trung Quốc đã kiên trì theo đuổi mục tiêu sở hữu Nhà nước như là một mục
đích tự thân thay vì sử dụng các tiêu chí về kết quả xuất khẩu, năng lực công
nghệ, hay chất lượng sản phẩm. Về phương diện này, mô thức công nghiệp hoá
và phát triển này của Trung Quốc rất khác so với các nước Đông Á. Từ sau năm
2002, Trung Quốc đã tăng cường năng lực về công nghệ, đã tăng nhanh hàm
lượng công nghệ cao trong sản phẩm nhưng vẫn chủ yếu tập trung vào lĩnh
vực xuất khẩu. Tỷ lệ hàng có hàm lượng công nghệ cao trong xuất khẩu của
Trung Quốc đã tăng nhanh từ 28,9% năm 2000 lên 41,3% năm 2005 và 45%
năm 2007 - 2009. Tỷ lệ hàng công nghệ cao trong cấu trúc nhập khẩu cũng tăng
từ 31,3% năm 2001 lên 37,6% năm 2005 và khoảng 40% năm 2009. Tuy thế,
đến nay, năng lực R & D và công nghệ nguồn của Trung Quốc còn tụt hậu rất xa
so với Mỹ, EU.
Một hậu quả khác là sự kém hội nhập của các thị trường nội địa, và trong
nhiều năm, các địa phương giao thương với quốc tế nhiều hơn là giữa họ với
nhau. Tiến trình này cũng dẫn đến tình trạng tập trung đầu tư nóng một cách thái
quá. Tỷ lệ đầu tư trên GDP duy trì ở mức trên 35% trong gần 13 năm, và thậm
chí có một số năm tỷ lệ này vượt quá 40%. Trong khi đó, cần lưu ý rằng đầu tư
trực tiếp nước ngoài đóng góp hơn 50% hàng xuất khẩu nhưng chỉ chiếm 10%

vốn đầu tư ròng. Mặt khác, đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc chủ yếu
vào mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật để tăng trưởng nóng mà chưa chú trọng đầu
tư vào tài sản con người để tạo ra năng lực cạnh tranh “động” trong dài hạn.
Tuy nhiên, rào cản đối với công nghiệp hoá toàn diện không chỉ nằm ở
các yếu tố nội địa. Môi trường kinh doanh toàn cầu đã thay đổi một cách căn
bản từ những năm 1960 đến những năm 1980, khi mà các nước như Đài Loan,
Hàn Quốc, Hồng Kông và Singapo bỗng chốc trở thành các nước công nghiệp
mới (NICs) của châu Á. Hai thập kỷ sáp nhập và mua bán công ty với một tốc
độ chưa từng thấy đã chuyển hoá ngành sản xuất công nghiệp toàn cầu và thúc
đẩy dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ. Sản xuất ngày càng bị chi phối bởi một số ít
các doanh nghiệp toàn cầu đạt được lợi thế kinh tế theo qui mô thông qua chuỗi
21

cung ứng tích hợp toàn cầu. Công nghệ số đã giúp thúc đẩy mô thức sản xuất
theo mô-đun vì ngày nay công ty thượng nguồn và các nhà cung ứng và thầu
phụ có thể trao đổi các thông số kỹ thuật của sản phẩm một cách rất nhanh và rẻ.
Mặc dù mô thức sản xuất theo mô-đun đem lại một số cơ hội cho những nươc
xuất khẩu hàng chế tạo dựavào lao động rẻ như Trung Quốc nhưng mô thức này
đồng thời lại tạo ra những trở ngại cho quá trình nâng cấp và học hỏi công nghệ.
Trung Quốc cũng phải tìm cách vượt qua những trở ngại này trong khi không
còn được hưởng lợi thế bảo hộ như các nước NICs trước đây, chẳng hạn như
chuyển giao công nghệ hay tỷ lệ nội địa hoá.
Nói tóm lại, trong ba thập kỷ qua, nền kinh tế của Trung Quốc đã tăng
trưởng vượt bậc, nhưng về mặt xã hội và môi trường, cũng đã thấy xuất hiện
nhiều nguy cơ không bền vững và bất ổn tiềm tàng. Nhiều thay đổi quan trọng
trong chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ và phúc lợi xã hội theo hướng giảm
dần vai trò của Nhà nước, tăng dần vai trò của khu vực dân sự và tư nhân.
Những cải cách thể chế và cơ chế “ngân sách cứng” áp dụng cho các DNNN của
Trung Quốc đã dần làm tan rã khu vực kinh tế Nhà nước và tập thể - những khu
vực từng chịu trách nhiệm chính về phúc lợi cho người lao động ở thành thị và

nông thôn. Những thay đổi to lớn này, cùng với những vấn đề cố hữu như tham
nhũng tràn lan, môi trường suy thoái, dịch vụ y tế và giáo dục chưa tương xứng
với tốc độ phát triển kinh tế thì những thách thức mới về thành thị - nông thôn,
trung ương - địa phương, và bất công bằng là những vấn đề mà Trung Quốc
buộc phải giải quyết. Suy đến cùng, đây không chỉ là những thách thức kinh tế,
mà quan trọng hơn, là những thách thức về mặt xã hội. Mặc dù Chính phủ Trung
Quốc đã cho thấy những dấu hiệu điều chỉnh chiến lược phát triển từ “tăng
trưởng bằng mọi giá” sang cam kết thực hiện công bằng xã hội, thế nhưng cho
đến nay nỗ lực của Chính phủ Trung Quốc dường như vẫn chưa đem lại những
đổi thay thực sự. Vấn đề mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang gặp phải là nếu
họ càng chậm trễ trong việc giải quyết các thách thức này thì giải pháp để giải
quyết chúng tận gốc càng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ
1
.

1
Nguồn: Tham khảo Báo cáo : “Lựa chọn thành công Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của
Việt Nam - Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020”,
Chương trình Việt Nam, Đại học Harvard, năm 2008.
22

3. Triển vọng tác động của Trung Quốc đến thương mại toàn cầu
Trong thời kỳ tới, Trung Quốc tiếp tục là một trong những nhân tố hàng
đầu tác động đến thương mại toàn cầu trên nhiều phương diện. Trong đó, sự tác
động mạnh nhất là theo các kênh chủ yếu sau:
- Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tuy sẽ giảm so với giai
đoạn trước nhưng vẫn còn ở mức cao so với mức tăng trưởng xuất khẩu trung
bình của thế giới và cao hơn nhiều so với Mỹ, EU, Nhật Bản. Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc trong 30 năm 1979 - 2009 đạt mức
bình quân 16,7%/năm. Dự báo trong 10 năm tới, tăng trưởng xuất khẩu hàng

hoá của Trung Quốc chỉ ở mức bình quân dưới 13%/năm; trong khi tăng trưởng
xuất khẩu toàn cầu 10 năm tới dự báo chỉ có thể tăng 7 - 8%/năm. Do đó, tỷ
trọng của Trung Quốc trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu sẽ tăng lên. Các
khu vực thị trường sẽ chịu nhiều sức ép gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc là
Bắc Mỹ, Đông Âu, ASEAN, Đông Bắc Á và Trung Đông. Năm 2009, trong cơ
cấu thị trường xuất khẩu của Trung Quốc, châu Á chiếm 38,4%, châu Âu chiếm
22,5%, châu Mỹ chiếm 26,7%, châu Phi chiếm 3,2%, Trung Đông chiếm 5,1%,
các thị trường còn lại chiếm 4,1%. Dự báo, trong 10 năm tới, tỷ trọng của khu
vực châu Á, châu Phi và Trung Đông sẽ tăng dần lên, tỷ trọng của châu Mỹ và
châu Âu sẽ giảm dần.
- Nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu của Trung Quốc sẽ cao hơn so với xuất
khẩu và có thể sẽ cao hơn 10 năm qua. Trong 8 năm sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu của Trung Quốc tăng bình quân 20,74%/năm, nhập khẩu tăng
19,3%/năm. Trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh nhập khẩu
(nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng đột biến từ sau khi gia nhập WTO) để đáp
ứng nhu cầu nguyên nhiên vật liệu và đảm bảo an ninh năng lượng cho tăng
trưởng cao, ổn định (Theo một số kết quả dự báo, tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc 10 năm tới vẫn ở mức cao, khoảng trên 7 - 8%/năm). Tăng trưởng nhập
khẩu của Trung Quốc thời kỳ tới sẽ gắn liền với việc nước này thực hiện chiến
lược điều chỉnh chiến lược thị trường nhập khẩu từ Tây sang Đông và chiến
lược “Một trục hai cánh”. Từ năm 2002, Trung Quốc đã thực hiện chiến lược
điều chỉnh thị trường lần thứ 3 từ Tây sang Đông (Lần đầu thập kỷ 80: Tập
23

trung vào thị trường nội địa và thị trường gần ở châu Á, lần 2 từ đầu thập kỷ 90:
Chuyển mạnh từ Đông sang Tây, lần 3 bắt đầu sau khi gia nhập WTO) nhằm thu
hút nguồn tài nguyên rẻ rồi rào của khu vực Đông Nam Á, Trung Đông và châu
Phi để đáp ứng nhu cầu nguyên nhiên liệu và nhất là đảm bảo năng lượng cho
tăng trưởng “nóng” của nước này. Thời kỳ 2001 - 2009, tỷ trọng của khu vực thị
trường châu Á trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng từ

55,5% năm 2001 lên 63,3% năm 2006 và 57,5% năm 2009, riêng tỷ trọng của
thị trường Trung Đông đã tăng từ 3,8% lên 5,2% và 7,1% trong thời gian tương
ứng; tỷ trọng của thị trường châu Phi cũng tăng nhanh từ 2,0% lên 3,9% và
7,1% trong cùng thời gian. Từ sau năm 2008, Trung Quốc đã chủ động thúc đẩy
chiến lược “Một trục hai cánh” và thực hiện chính sách hướng Nam mạnh mẽ.
Dự báo trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh thu hút nguyên liệu,
vật liệu, nhiên liệu và các tài nguyên khác của khu vực Đông Nam Á, Tây Nam
Á, Trung Đông và châu Phi. Do đó, tỷ trọng của các khu vực thị trường này
trong cơ cấu thị trường nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng lên.
- Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng sức ép cạnh tranh trong xuất khẩu với
các nước ASEAN và các nước Đông Á khác tại các thị trường xuất khẩu trọng
điểm, chiến lược ở Bắc Mỹ, EU, châu Đại Dương và cả Nam Mỹ. Đồng thời,
tiếp tục gia tăng áp lực để mở rộng thị phần cho hàng Trung Quốc tại khu vực
ASEAN, Tây Nam Á. Việc tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong
cấu trúc nhập khẩu của Trung Quốc trong 10 năm qua đã tạo cơ sở để nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc trong giai đoạn tới, tạo hiệu ứng mạnh
đối với toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc trong cạnh tranh toàn cầu thời kỳ tới.
Trong thời kỳ 2000 - 2008, tỷ trọng nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ
cao trong cấu trúc nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng được 10 điểm phần trăm,
từ 31,3% lên trên 41%, tỷ trọng của nhóm sản phẩm công nghệ trung cao giảm
từ 19,3% xuống 15% trong thời gian tương ứng, tỷ của nhóm sản phẩm công
nghệ thấp cũng giảm từ 20,3% xuống còn khoảng 10% trong cùng thời gian.
Đây là yếu tố hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu Trung Quốc trong thời kỳ tới.
Mặt khác, Trung Quốc đang có lợi thế với nhiều đối thủ khác trong cạnh
tranh xuất khẩu toàn cầu. Chẳng hạn, năm 2008, hệ số nguồn lực / GDP đầu
24

người của Trung Quốc chỉ 0,015, trong khi của Ấn Độ là 0,023, của Việt Nam là
0,126 (thấp hơn gần 8 lần của Việt Nam). Năm 2008, Trung Quốc đứng ở vị trí

thứ 30 trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu (Thái Lan : 34;
Indonexia : 55; Philippin : 71; Việt Nam : 70); tỷ lệ hàng công nghệ cao trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 45%, trong khi của Thái Lan chỉ
30%; Indonexia là 14%, Việt Nam là 8%. Thị phần của hàng Trung Quốc tại
khu vực thị trường ASEAN cũng đang có xu hướng tăng nhanh sau khi ACFTA
có hiệu lực (2004).
- Trung Quốc sẽ tăng cường các biện pháp kích thích tiêu dùng và phát
triển thị trường nội địa, tạo cơ hội cho các nước trongkv đẩy mạnh xuất khẩu
hàng tiêu dùng vào thị trường nước này. Sau 30 năm cải cách (1979 - 2009), tỷ
lệ giá trị bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng so với GDP của Trung Quốc đã
giảm từ 42,76% xuống 39,27% (trong khi tỷ lệ của xuất khẩu so với GDP đã
tăng từ 4,7% lên 39,65%, của nhập khẩu tăng từ 5,25% lên 31,46% trong thời
gian tương ứng), tỷ lệ tiết kiệm so với GDP tăng từ 26% năm 1995 lên 43% năm
2004 và 40 - 42% năm 2006 – 2008. Sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, Trung Quốc đã thực hiện cuộc điều chỉnh chiến lược
thị trường lần thứ 4, với trọng tâm là hướng vào khai thác thị trường nội địa có
tiềm năng rất lớn với gần 1,4 tỷ người có sức mua đang tăng nhanh. Vì thế, thời
gian tới, tăng trưởng bán lẻ hàng hoá của thị trường Trung Quốc sẽ rất nhanh,
tạo hiệu ứng mạnh thu hút hàng tiêu dùng của nước ngoài nhập khẩu vào Trung
Quốc, nhất là từ các nước ASEAN (do Trung Quốc cắt giảm thuế theo cam kết
ACFTA). Tuy thế, các lợi thế tạm thời của các nước ASEAN trong việc xuất
khẩu hàng hoá vào thị trường Trung Quốc chỉ là tạm thờì vì nước này đang chú
trọng thúc đẩy ký FTA song phương với nhiều đối tác khác, và đang thúc đẩy
trở lại đàm phán FTA Đông Á, FTA với GCC.
- Trung Quốc đang và sẽ tiếp tục sử dụng công cụ tài chính, tiền tệ, đặc
biệt là công cụ tỷ giá để gây ảnh hưởng và sức ép với nhiều nền kinh tế, kể cả
các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Việc Trung Quốc đang sử dụng
đồng Nhân dân tệ làm công cụ nhằm thay đổi tương quan sức mạnh kinh tế với
các cường quốc kinh tế làm cho rủi ro hối đoái toàn cầu tăng lên, đang có

×