Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.31 KB, 44 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN
EU – VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG
XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT
NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”.








BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP CỦA VIỆT NAM
THỜI KỲ 2011 - 2020





CN. Vương Đức Toản
Viện Nghiên cứu thương mại -
Bộ Công Thương












Hà Nội, 11 - 2010


1

LỜI MỞ ĐẦU

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(dự thảo - sửa đổi, bổ sung 2001) đã xác định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn
kết chặt chẽ công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ. Bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kết hợp chặt giữa ngăn ngừa, khắc
phục ô nhiễm đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển “năng lượng sạch”,
“sản phẩm sạch” và “tiêu dùng sạch”. Thực hiện các giải pháp ứng phó với quá
trình biến đổi khí hậu. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở
thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.
Đại hội Đảng lần thứ XI sẽ quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2011 – 2020, dự thảo lần cuối là chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây
dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo định hướng XHCN. Trong đó, đã
xác định mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 – 8%/năm.

GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần năm 2010. GDP bình quân
đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 300 – 3.200 USD. Tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt
khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm
khoảng 40% trong tổng GTSX công nghiệp. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp
vào tăng trưởng ít nhất đạt 35%. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 –
3%/năm; thực hành tiết kiệm sử dụng mọi nguồn lực. Tốc độ tăng dân số ổn định
ở mức 1,1%.
Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng (Dự thảo) đã xác định phương
hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm đầu của thời kỳ chiến lược (2011 -
2015), đề ra các mục tiêu phấn đấu chủ yếu : Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5
năm 2011 – 2015: 7,5 – 8%/năm; năm 2015 GDP bình quân đầu người 2.100
USD, gấp 1,7 lần năm 2010, năng suất lao động gấpo 1,5 lần năm 2010; kim
2

ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm
2020 cân bằng được xuất nhập khẩu; tốc độ tăng dân số dưới 1%.
Phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 0- 2020 phải góp phần quan trọng th
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được xác định trong (dự thảo)
các văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu trên. Đồng thời, việc xác định các mục tiêu
phát triển xnka phải phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ tới, phù
hợp với năng lực phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy, việc nghiên cứu
chuyên đề khoa học nàynhằm cung cấp cơ sở khoa học cho viẹc xác định các mục
tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020 là rất cần thiết.
Nội dung chuyên đề được trình bày trong 3 phần:
I Triển vọng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020
II Các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020
III Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu chiến
lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020.
Dưới đây là nội dung chuyên đề.




















3

I TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐẾN NĂM 2020
1. Bối cảnh thế giới và khu vực trong 5 – 10 năm tới tác động đến xuất
nhập khẩu của Việt Nam.
- Quốc tế hoá mọi mặt của đời sống quốc tế sẽ tiếp tục tiến triển nhưng sẽ
có những điều chỉnh về hướng và lĩnh vực qui mô hoạt động kinh tế toàn cầu bị
giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, sẽ phục hồi. Lộ trình thúc
đẩy tự do hoá thương mại có thể bị chậm lại một cách tương đối. Chủ nghĩa bảo
hộ đang trỗi dậy, các rào cản thương mại mới ngày càng tinh vi; nhưng ít có khả

năng đảo ngược được qui trình tự do hoá thương mại.
- Trên thế giới, bên cạnh xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng có lợi
tiếp tục chiếm ưu thế là là tiền đề để phát triển xuất nhập khẩu của quốc gia thì
nguy cơ xảy ra chiến tranh năng lượng, chạy đua hạt nhân, các xung đột sắc tộc,
tôn giáo, lãnh thổ, tranh giành về tài nguyên, khủng bố quốc tế… có thể gia tăng.
Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường trở thành thách thức ngày càng lớn.
Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về qui mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Các tập
đoàn kinh tế xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Sau cuộc khủng hoảng tài
chính và suy toái kinh tế toàn cầu vừa qua, các nước đang đẩy mạnh tái cấu trúc
nền kinh tế theo hướng gắn chặt phát triển kinh tế tri thức với phát triển “kinh tế
xanh”, chú trọng chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, thương mại dịch
vụ sẽ được chú trọng phát triển hơn thương mại hàng hóa. Song song với toàn cầu
hoá chủ nghĩa khu vực sẽ phát triển mạnh h ơn nhiều khả năng trào lưu các nước
đẩy mạnh liên kết khu vực v à song phương, đặc biệt l à b ùng nổ các thoả thuận tự
do hoá thương mại song phương CBFFTA.
Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu
thay đổi nhanh với sự xuất hiện của các liên kết mới, độ rủi ro và bất định của nền
kinh tế thế giới còn rất lớn. Cấu hình của nền kinh tế và thương mại thế giới đang
khác trước, sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu đang làm cho quan hệ trao
đổi thương mại quốc tế ngày càng khác với truyền thống.
- Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh rất nhanh, thế lực ảnh hưởng ngày càng
lớn, đang sử dụng công cụ tiền tệ để gia tăng áp lực đối với các nền kinh tế khác…
4

sẽ tác động mạnh đến kinh tế và thương mại toàn cầu. Tình hình đó sẽ làm tăng áp
lực về nhiều mặt đối với Việt Nam về kinh tế, thương mại, chủ quyền ở Biển
Đông, an ninh quốc gia, an toàn sức khỏe…
- Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hình
thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn, hội nhập khu vực sâu hơn.
Các nước ASEAN đang nỗ lực thúc đẩy liên kết nội khối để hoàn thành xây dựng

cộng đồng kinh tế (ACE) vào năm 2015, tiến tới xây dựng Cộng đồng chung theo
Hiến chương ASEAN. Mặt khác, ASEAN đang nỗ lực đóng vai trò chủ động tăng
cường liên kết khu vực Đông Á mở rộng. Đang định hình cấu trúc liên kết mới tại
khu vực, với vai trò trung tâm của ASEAN. Cục diện liên kết quốc tế mới tại khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương đang hình thành, với phạm vi và hình thức đa
dạng: TPP, FTA Đông Á, FTA Đông Á mở rộng, AEFTA… phản ánh động thái
và mức độ tranh giành ảnh hưởng, tranh giành thị trường của các nước lớn tại khu
vực này sẽ ngày càng quyết liệt trong thời kỳ tới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách
thức lớn đối với nước ta trong phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới.
- Kinh tế thế giới sau kỳ suy thoái hiện nay
1
, sẽ phục hồi và bước vào kỳ
tăng trưởng mới sau năm 2012, có thể sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong các
năm 2016 – 2017 để chuyển sang kỳ suy thoái mới vào những năm tiếp theo. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế thế giới bình quân năm của giai đoạn 2011 – 2015 rất có
thể sẽ thấp hơn giai đoạn 2016 – 2020. Theo đa số các dự báo, kinh tế thế giới sẽ
phục hồi từ sau năm 2010 và sẽ cần 4 – 5 năm để đạt được tốc độ tăng trưởng 3 –
4%/năm. Các nền kinh tế mới nổi, các nền kinh tế ASEAN và Châu Á nói chung
sẽ phục hồi nhanh hơn, bước vào thời kỳ tăng trưởng sớm hơn các khu vực khác.
Nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ có thể phục hồi rõ nét từ năm 2012 để bước vào thời kỳ
tăng trưởng mới, nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng mức trung bình của
thế giới. Các nền kinh tế EU và Nhật Bản sẽ phục hồi rất chậm, tốc độ tăng trưởng
GDP trong kỳ tăng trưởng sẽ thấp hơn rất nhiều khu vực khác. Khu vực động lực
của tăng trưởng kinh tế thế giới thời kỳ đến năm 2020 sẽ là các nền kinh tế mới
nổi Châu Á và ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ.

1
Do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008, tụt đáy
trong anwm 2009 (tăng trưởng -5,3%), vượt đáy trong năm 2010 (theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc về tình hình và
triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 thì tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 chỉ 2,4%. Theo IMF thì tỉ lệ tăng

trưởng dưới 2,5% thì được định nghĩa là suy thoái kinh tế thế giới.
5

- Thị trường hàng hóa thế giới đang có dấu hiệu tăng giá trở lại, rất có thể sẽ
hình thành mặt bằng giá mới trong các năm 2012 – 2014. Giá cả hàng hóa thế giới
co nhiều khả năng sẽ tăng bình quân 2-3%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020. Xu
hướng phát triển “năng lượng sạch” và “tiêu dùng sạch” tiếp tục gia tăng, sẽ tác
động mạnh đến thương mại thế giới.
- Tăng trưởng thương mại thế giới sẽ tiếp tục có quan hệ đồng biến với tốc
độ phục hồi và gắn liền với kỳ tăng trưởng của kinh tế thế giới, có thể sẽ đạt tốc
độ tăng trưởng cao nhất trong các năm 2015 – 2017. Khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương tiếp tục là khu vực động lực chính của tăng trưởng thương mại toàn cầu
thời kỳ tới 2020 Vai trò động lực của Trung Quốc trong tăng trưởng thương mại
toàn cầu có thể sẽ giảm xuống tương đối trong thời kỳ tới, do nước này sẽ phải
giảm nhịp độ xuất khẩu để tăng nhịp độ nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và đang
điều chính Chiến lược thị trường hướng mạnh vào khai thác thị trường Trung
Quốc mở rộng (bao gồm cả Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao). Hoa Kỳ đang nỗ lực
tăng cường xuất khẩu hàng hóa để đạt mục tiêu kỳ vọng đến năm 2015 tăng kim
ngạch xuất khẩu gấp 2 lần năm 2010, đồng thời phải giảm nhịp độ tăng trưởng
kim ngạch nhập khẩu hàng hóa để giải quyết sự thâm hụt của cán cân vãng lai, sẽ
là nhân tố quan trọng tác động mạnh đến thương mại toàn cầu. Các nước Đông
Bắc Á và LB Nga tiếp tục thực hiện chính sách hướng Nam mạnh mẽ, sẽ tác động
mạnh đến dòng hàng hóa trao đổi giữa khu vực này với ASEAN. EU sẽ chú trọng
tăng cường xuất khẩu dịch vụ, tăng cường trao đổi thương mại với các nước
ASEAN và Ấn Độ, là nhân tố quan trọng tác động đến cán cân thanh toán vãng lai
của các nước này. Trung Quốc tiếp tục là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến thương
mại khu vực, nhất là khu vực ASEAN. Từ thành công trong cuộc điều chỉnh Chiến
lược thị trường lần thứ ba từ Tây sang Đông (sau khi Trung Quốc gia nhập WTO)
nhằm thu hút nguồn tài nguyên phong phú của các nước Phương Đông cho tăng
trưởng “nóng” và đảm bảo an ninh năng lượng

2
, hiện nay Trung Quốc đang thực
hiện cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ tư, với trọng tâm là hướng vào
kích cầu tiêu dùng trong nước, phát triển thị trường trong nước. Sau 30 năm cải
cách và mở cửa (1978 – 2009), tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chủ yếu do

2
Tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc đã tăng từ 55,5% trong
năm 2001 lên 63,3% trong năm 2006 và 57,5% trong năm 2009; tỉ trọng của thị trường Châu Phi tăng từ 2% lên
3,9% và 7,1% trong thời gian tương ứng.
6

hai động lực chính là đầu tư và xuất siêu; trong thời kỳ tới, tăng trưởng c ủa Trung
Quốc sẽ chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ và tiêu dùng.
2. Vị thế những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển xuất nhập
khẩu thời kỳ tới năm 2020
1. Tình hình chính trị - xã hội mang tính ổn định cao, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế đang ngày càng được nâng lên cùng với tiến trình hội
nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới
Diện mạo của đất nước đang có nhiều thay đổi, thế là lực của đất nước đang
ngày càng vững mạnh thêm; độc lập dân tộc, chủ quyền và quyền lợi quốc gia
trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế được đảm bảo. Việt Nam đang
hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng trong Liên Hợp Quốc, trong ASEAN
và các tổ chức quốc tế khác, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên
trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ký kết, tham gia gần 12 nghìn điều ước
quốc tế song phương và đa phương, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170
nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 170 nước và vùng lãnh
thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương , 54 Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần, 52 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư; thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài của trên 800 công ty từ trên 70 nước và vùng lãnh thổ; tranh thủ ODA
của trên 45 nước và tổ chức tài chính quốc tế, của trên 350 tổ chức phi Chính
phủ… Hiện Việt Nam đang đảm nhận chức trách chủ tịch ASEAN và chủ tích
HĐBALHQ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011 – đang dự thảo) đã đề ra mục tiêu: “từ nay đến giữa thế
kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng XHCN”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu này
là tiếp tục: “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; trong quá trình đó, phải giải
quyết tốt “mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế…”
2. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm đang
phát triển có thu nhập trung bình nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp trên cả
7

cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, tiếp tục là điểm bất lợi trong tham
gia FTA thời kỳ tới
Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1200
USD. Hệ số co dãn giảm nghèo đang tiếp tục có xu hướng giảm xuống (từ 0,28
trong các năm 2000 – 2004 xuống 0,14 trong các năm 2007-2008 và khoảng 0,12
năm 2010). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (dự thảo) đã đề ra
mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3000 – 3200 USD,
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm
khoảng 85% trong GDP, giá rị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong
GDP, giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% giá trị sản xuất
công nghiệp, chỉ số phát triển con người (HID) đạt nhóm trung bình cao của thế
giới, lao động qua đào tạo chiếm 70% tổng số lao động, thu nhập thực tế của dân
cư gấp 3,5 lần so với năm 2010, với tốc độ tăng dân số cố định 1,1%.
3. Qui mô và vị trí, vai trò của nền kinh tế Việt Nam trong kinh tế toàn

cầu đang ngày càng nâng lên, nhưng khả năng giành lợi thế cạnh tranh theo
qui mô kinh tế khi mở rộng xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới vẫn còn nhiều
hạn chế
Đến năm 2010, GDP của Việt Nam đã đạt khoảng 108 tỉ USD, với tốc độ
tăng trưởng bình quân 7-8%/năm, đến năm 2020, GDP của nền kinh tế sẽ đạt
khoảng 225 – 230 tỉ USD, nâng tỉ lệ đóng góp của Việt Nam trong GDP toàn cầu
từ mức 0,25% trong giai đoạn 1996 – 2000 và 0,32% trong thời kỳ 2001 – 2010
lên khoảng 0,38 – 0,40% vào năm 2020. Điều đó phản ánh qui mô và đóng góp
của Việt Nam vào qui mô kinh tế toàn cầu có xu hướng ngày càng tăng. Mặt khác,
Việt Nam có vị trí ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu khi thứ hạng
về tăng trưởng GDP của ta trong Bảng xếp hạng tăng trưởng GDP toàn cầu có xu
hướng ngày càng cao (theo WB và UNIDO, trong bảng xếp hạng các nền kinh tế
thế giới, trong thời kỳ 1986-2006, Việt Nam đã thay đổi được 17 bậc, từ vị trí thứ
95 lên vị trí thứ 78).
Việt Nam có vai trò đóng góp ngày càng tăng đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (tỉ
8

trọng giá trị tăng toàn ngành công nghiệp (MVA) của Việt Nam trong tổng MVA
của toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã tăng từ 0,4% năm 1995 lên 0,7%
năm 2005 và ước khoảng 0,9% năm 2010). Tuy thu nhập của người dân Việt Nam
từ tăng trưởng công nghiệp còn khá thấp so với mức trung bình của các nước đang
phát triển nhưng đang dần được nâng lên. Năm 2006, chỉ số MVA/ đầu người của
Việt Nam đã đạt 113 USD, bằng 24,7% mức trung bình của các nước đang phát
triển (456 USD), dự ước, đến năm 2020, chỉ số MVA/ đầu người của Việt Nam sẽ
đạt khoảng 135 USD (công nghiệp chiếm khoảng 55% GDP, dân số khoảng gần
97 triệu người).
Việt Nam có vị thế ngày càng cao trong việc cung cấp các sản phẩm thiết
yếu cho thị trường thế giới, đóng góp ngày càng lớn vào đảm bảo an ninh lương
thực và an ninh năng lượng toàn cầu. Đến nay, nhóm hàng chế biến XK của ta đã

chiếm 0,28% thị phần toàn cầu, các nhóm hàng thô và sơ chế chiếm 0,72% (riêng
điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ tiêu chiếm 45%, cà phê chiếm 16-18%, cao su
thiên nhiên chiếm 8-10%, chè chiếm 5-6%, thuỷ sản chiếm 4-5%, đồ gỗ chiếm 2-
3%). Cùng với việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thị phần của ta trong
tổng khối lượng XK lương thực (gạo) toàn cầu có xu hướng ngày càng cao, thời
kỳ 2001 – 2010 chiếm khoảng 16-18%, phản ánh mức độ đóng góp của Việt Nam
vào việc đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu rất lớn (chỉ sau Thái Lan). An ninh
năng lượng được đảm bảo và mức độ đóng góp của Việt Nam vào việc đảm bảo
an ninh năng lượng toàn cầu đang ngày một nâng lên (thời kỳ 1996 – 2005 ta
chiếm tỉ trọng 0,19% giá trị tổng sản lượng điện toàn cầu, giai đoạn 2006 – 2010
chỉ số này là khoảng 0,30%). Thị phần của hãng hàng không quốc gia Việt Nam
trên thị trường vận tải hàng không toàn cầu cũng ngày càng tăng, từ 0,67% năm
2007 lên chiếm khoảng 0,85% năm 2010 và dự báo sẽ chiếm trên 1% sau năm
2015 (đến nay, so với mức bình quân trong khu vực, năng suất lao động bằng
42%, qui mô đội bay bằng 46%, thị phần chiếm 3,6% các nước đang phát triển).
Tỉ trọng kim ngạch XK dịch vụ du lịch của ta trong tổng kim ngạch XK dịch vụ
du lịch toàn cầu tăng dần từ 0,21% năm 2006 lên 0,27% năm 2010 và dự ước sẽ
đạt khoảng 0,60% vào năm 2020.
Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam đang tăng nhanh từ khoảng 20 tỉ USD
năm 2001 lên 37 tỉ USD năm 2006 và khoảng 49 tỉ USD năm 2009. Dự ước, qui
9

mô thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt khoảng 55 – 56 tỉ USD trong năm 2010 và
sẽ đạt trên 110 tỉ USD vào năm 2020 (tăng trưởng khoảng 20%/năm). Qui mô thị
trường bán lẻ Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhanh do nhiều yếu tố, trước hết là do qui
mô dân số (đến nay tổng dân số đạt 87 triệu người, xếp thứ 13 trong 208 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới, dự thảo chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2011 –
2020 đề ra mục tiêu tăng dân số bình quân 1,1%/năm, đến năm 2020 qui mô dân
số của Việt Nam sẽ ở mức 97 triệu người). Thu nhập của dân cư đang tăng lên và
tỉ lệ quĩ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao so với các

nước trong khu vực (trên 70% của Việt Nam so với 55,9% của Singapore , 58,2%
của Maylayxia, 67,7% của Thái Lan…), tốc độ tiêu dùng tăng cao hơn nhiều lần
so với tốc độ tăng dân số (tỉ lệ này thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 1,4%; dự
ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 1,1%), tốc độ tiêu dùng của dân cư tăng
cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP (thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 7,4%, dự
ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 7,0%)… cũng là nguyên nhân hàng đầu
dẫn đến thị trường bán lẻ Việt Nam tăng trưởng nhanh. Mức độ hấp dẫn và nhu
cầu đầu tư về phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại ở Việt Nam đang đứng hàng đầu
thế giới.
4. Mức độ thâm dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động đến môi trường
sinh thái của kinh tế còn cao, tiếp tục đặt ra những thách thức lớn đối với phát
triển xuất khẩu bền vững của Việt Nam trong dài hạn.
Tỉ lệ khai thác năng lượng/GNP của Việt Nam đang có xu hướng tăng
nhanh từ 4-8% trong giai đoạn 1990-1998 lên 9-12% trong giai đoạn 2000 -2004
và 15-22% trong giai đoạn 2005 - 2010
3
(chỉ số này của Ấn Độ trong thời kỳ 1990
– 2008 chỉ dao động ở mức 3-4%). Tỉ lệ mức tiết kiệm năng lượng của Việt Nam
4

thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế giới, của khu vực (thời kỳ 1990 –
2005 mức tiết kiệm điện bình quân của Việt Nam là -3,4%, của Trung Quốc là
+3,3%). Tuy tỉ trọng lượng khí thải công nghiệp của Việt Nam trong tổng lượng
khí thải công nghiệp toàn cầu còn rất nhỏ (do qui mô ngành công nghiệp còn nhỏ

3
Khai thác năng lượng bằng sản lượng khai thác thực tế (gồm dầu thô, khí đốt và than) x đơn giá khai thác –
Nguồn: WDI
4
Mức tiết kiệm năng lượng là mức chênh lệch giữa tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp so với tốc độ tăng về

tiêu thụ điện của toàn ngành công nghiệp
10

bé) nhưng tỉ lệ giữa lượng khí thải so với giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp
đang rất cao, phản ánh tác động đến môi trường sinh thái của tăng trưởng công
nghiệp đang rất lớn. Tình trạng yếu kém đó chưa thể khắc phục và cải thiện được
nhiều trong ngắn và trung hạn, làm hạn chế sự đóng góp của Việt Nam vào mục
tiêu phát triển bền vững toàn cầu.
5. Qui mô, mức độ tham gia trao đổi và phân công lao động quốc tế của
nền kinh tế nước ta ngày càng sâu rộng, độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn
nhưng mức độ phụ thuộc vào thị trường thế giới ngày càng nhiều, độ co giãn về
cung thấp nên rủi ro ngày càng tăng khi mở rộng xuất nhập khẩu trong điều
kiện tự do hoá ngày càng cao. Đóng góp của Việt Nam vào tăng trưởng thương
mại toàn cầu tuy còn nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng lên. Tỉ trọng giá trị
thương mại quốc tế của Việt Nam trong tổng giá trị thương mại toàn cầu ngày
càng tăng (đến năm 2008 thương mại hàng hóa đã chiếm 0,45%, thương mại dịch
vụ chiếm 0,28%, riêng XK hàng hóa chiếm 0,39%, XK dịch vụ chiếm 0,2% trong
tổng XK toàn cầu). Tỉ lệ khối lượng tiền tệ chuyển dịch giữa Việt Nam với thế
giới không liên quan đến thương mại so với GDP có xu hướng tăng nhanh (năm
2008 đạt 24,8%), qui mô kinh tế tượng trưng ngày càng lớn (năm 2008 bằng 0,25
lần qui mô kinh tế thực so với chỉ số này của toàn cầu là trên 3,5 lần). Độ mở của
nền kinh tế ngày càng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu vươn ra đầu
tư phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia (thời kỳ 1989-2008, tổng vốn
danh nghĩa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bằng 0,68% GDP, vốn thực hiện bằng
0,19% GDP). Đóng góp của khu vực FDI đối với nền kinh tế quốc dân có xu
hướng ngày càng lớn (đến năm 2008, khu vực FDI chiếm 41% vốn đầu tư xã hội,
gần 20% GDP, 45% GTSX công nghiệp, 57% tổng kim ngạch XK, 31% tổng kim
ngạch nhập khẩu, 20% tổng số doanh nghiệp tham gia XK và 15,5% tổng số
doanh nghiệp tham gia nhập khẩu), phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế ngày
càng phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa có vai trò ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh
tế, tỉ lệ giữa tổng giá trị thương mại quốc tế so với GDP ngày càng tăng (giai đoạn
2008 – 2010 bằng khoảng 155%, riêng XK bằng 75-76%) phản ánh mức độ phụ
thuộc và tác động của thị trường thế giới đối với nền kinh tế có xu hướng ngày
càng tăng, mức độ rủi ro ngày càng lớn.
11

Tình hình dự trữ quốc tế đang dần được cải thiện (năm 2008 – 2010 dự trữ
quốc tế ở mức bằng 20% GDP), nợ nước ngoài vẫn đang trong tầm kiểm soát
nhưng tỉ lệ tổng dư nợ nước ngoài so với GDP đang có xu hướng tăng cao (năm
2007 đã là 27%) để lại gánh nặng cho nền kinh tế - xã hội trong dài hạn. Do phần
lớn vay nợ nước ngoài là ODA, được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, mà việc
sử dụng nguồn vốn này đang bị thất thoát, tham nhũng… nên sẽ ảnh hưởng đến
các mục tiêu phát triển dài hạn khác, gây bất bình trong dư luận xã hội. Tình hình
cán cân vãng lai chưa có dấu hiệu được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai so với GDP vẫn đang ở mức cao (thời kỳ 2000 – 2010 là 10,8%,
riêng năm 2008 là 11,8%), khả năng tài trợ của nền kinh tế cho thâm hụt cán cân
thương mại ngày càng trở nên mong manh hơn, đe dạo đến cán cân thanh toán
tổng thể của nền kinh tế. Tình hình đó phản ánh nền kinh tế vẫn đang có xu hướng
tiêu dùng ngày càng nhiều hơn tài sản của nước ngoài.
6. Sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đối với nền kinh tế
ngày càng lớn, trong khi mức độ phụ thuộc vào các nguồn lực nước ngoài của
nền kinh tế có xu hướng ngày càng cao, có quan hệ đồng biến với một số thách
thức kinh tế vĩ mô trong ngắn và trung hạn nhất là đối với cán cân thương mại
Việt Nam tự do hoá sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế.
Các TNCs đang tác động ngày càng tăng đến thị trường trong nước qua
kênh FDI. Đặc biệt hệ thống bán lẻ hiện đại (khâu có giá trị gia tăng cao, thị
trường bán lẻ Việt Nam có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới) ở các đô thị lớn
Việt Nam đang có nguy cơ bị các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài thao
túng, chi phối. Trong giai đoạn 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng bán lẻ của khu

vực FDI tăng khoảng 46%/năm, thị phần bán lẻ của khu vực này tăng từ 4%/năm
2006 lên chiếm 10% trong năm 2010, các tập đoàn phân phối nước ngoài tuy chỉ
chiếm 10% số siêu thị, trung tâm thương mại nhưng đang chiếm khoảng 50% khối
lượng hàng hóa lưu thông qua hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam.
Các TNCs đang tác động mạnh đến cả thị trường đàu vào và thị trường đầu
ra của các doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước. Các TNCs
cũng tác động và chi phối ngày càng nhiều đến xuất nhập khẩu và tình trạng nhập
siêu của Việt Nam. Đối với xuất khẩu, các doanh nghiệp của ta với tiềm lực hạn
chế chưa thể cạnh tranh trực diện với các TNCs ở các thị trường XK có sức mua
12

lớn, ổn định (EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản…) nên khoảng 80% hàng XK của ta phải
xuất giá FOB, hiệu quả và doanh thu XK thấp so với hàng hóa cùng loại của các
nước khác. Với chiến lược “khoá” thị trường thế giới và tăng cướng thương mại
nội bộ, các TNCs đang chi phối thị trường toàn cầu, khiến một số mặt hàng XK
chủ lực của ta chiếm tới 20-50% thị phần nguồn cung toàn cầu (điều nhân, hồ tiêu,
cà phê, gạo…) nhưng chưa có tác động đáng kể nào đến cung – cầu, giá cả trên thị
trường thế giới để tăng hiệu quả XK. Đối với nhập khẩu, phần lớn các công ty
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (FDI) là các công ty chi nhánh con, cháu, chắt
của các TNCs lớn trên thế giới. Do xu hướng của các TNCs là chuyển mạnh đầu
tư vào các ngành kỹ thuật cao, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính, bảo
hiểm, logistics, dịch vụ phân phối…), nên tác động chuyển dịch có tính “dây
chuyền” qua các công ty con, cháu qua con đường FDI chuyển giao các thiết bị
công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Điều đó, một mặt làm tăng kim ngạch nhập khẩu
máy móc thiết bị, phụ kiện, phụ tùng thay thế vào Việt Nam; mặt khác, ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của hàng
XK chậm được nâng lên (các doanh nghiệp FDI đang chiếm gần 60% kim ngạch
XK)
Do các TNCs ngày càng sử dụng các phương pháp kinh doanh quốc tế của
đầu tư không có quyền sở hữu cổ phần, như: uỷ thác, gia công, hợp đồng tiêu thụ,

chuyển nhượng kỹ thuật, nhượng quyền thương mại… cũng đã phần nào tác động
có tính dẫn dắt nhu cầu của thị trường Việt Nam hướng đến tiêu thụ sản phẩm của
các TNCs ở các công ty chi nhánh nước ngoài sản xuất thông qua con đường nhập
khẩu vào Việt Nam (kể cả dưới hình thức tài trợ cho nhập khẩu). Điều đó làm tăng
nhập khẩu hàng ngoại, tăng nhập siêu và gây bất lợi cho cán cân vãng lai của ta.
Sự hình thành và phát triển các mạng sản xuất khu vực, mạng sản xuất toàn
cầu dưới sự chi phối của các TNCs đang và sẽ tác động mang tính điều chỉnh cơ
cấu một số ngành công nghiệp và cán cân thương mại của Việt Nam theo kênh
FDI. Các TNCs khi đầu tư vào Việt Nam thì các cơ sở sản xuất của họ ở một số
nước trong khu vực (Thái Lan. Maylayxia, Trung Quốc…) là nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, linh kiện để thực hiện các công đoạn chế tạo, gia công, lắp ráp
tiếp theo tại Việt Nam. Vì thế, khi FDI vài Việt Nam ngày càng tăng thì nhập khẩu
các mặt hàng chất dẻo nguyên liệu, linh kiện ô tô, xe máy, máy móc, thiết bị, dụng
13

cụ, phụ tùng, vải sợi, nguyên phụ liệu dệt may và da giày… từ các nước kể trên
cũng sẽ tăng theo để làm đầu vào cho các nhà máy sản xuất có vốn FDI tại Việt
Nam. Khi nước ta chưa phát triển được các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ các
ngành sản xuất chính thì nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng này vẫn tăng cao. Đặc
biệt, khi thương mại khu vực ngày càng tự do hơn, Việt Nam cắt giảm thuế quan
sâu hơn từ sau năm 2010 theo các cam kết FTA…, các dòng chảy thương mại gặp
ít rào cản hơn, việc nhập khẩu các mặt hàng nêu trên thuận lợi hơn thì tính bức
thiết phải mở thêm các cơ sở công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam của các tập đoàn đa
quốc gia cũng giảm xuống. Điều đó sẽ là một nguyên nhân quan trọng của sự tiếp
tục chậm trễ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ của ta thời kỳ tới.
Là chủ thể chính xây dựng và lãnh đạo các chuỗi giá trị toàn cầu, các TNCs
sẽ có tác động bất lợi đến việc nâng cấp trình độ sản xuất, gia công và tái cấu trúc
các ngành sản xuất công nghiệp ở Việt Nam khi điều kiện thương mại ngày càng
tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA. Xu hướng chung là các TNCs tập trung
vào các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu như: nghiên

cứu, thiết kế sáng tạo (công nghiệp), tạo ra giống mới và qui trình sản xuất tiên
tiến (nông nghiệp), marketing và phân phối (thương mại)… sau đó chuyển giao
cho các doanh nghiệp ở các nước có trình độ thấp hơn (theo con đường FDI hoặc
chuyển giao kỹ thuật) thực hiện các khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn, như: sản
xuất, chế biến, gia công lắp ráp… Theo cách thức đó, các TNCs vừa giữ được vai
trò lãnh đạo, chi phối các chuỗi giá trị toàn cầu, vừa tạo ra mạng lưới sản xuất
rộng khắp toàn cầu để bòn rút tài nguyên, sức lao động rẻ của các nước có trình độ
phát triển thấp. Vì thế, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nỗ lực tận dụng các
điều kiện thuận lợi của các FTA mang lại để tham gia sâu hơn vào các nấc thang
cao hơn trong các chuỗ+i giá trị toàn cầu, vào các khâu tạo ra giá rị gia tăng cao
hơn nêu trên, thay vì chỉ sản xuất, gia công lắp ráp như hiện nay, thì nguy cơ rơi
vào “bẫy chi phí lao động thấp” và đứng ở vịtrí thấp trong bậc thang chuỗi giá trị
toàn cầu là khó tránh khỏi, nguy cơ Việt Nam có thể tụt hậu xa hơn khi tham gia
ngày càng nhiều các FTA khu vực và song phương.
Các cách thức nêu trên sẽ tăng lên cùng với tình trạng nếu nền kinh tế Việt
Nam vẫn tiếp tục phụ thuộc năng nề vào bên ngoài về công nghệ sản xuất, về máy
móc thiết bị và các nguyên liệu cơ bản. Thực tế cho thấy, mức độ phụ thuộc của
14

nền kinh tế vào bên ngoài về nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công
nghệ ngày càng lớn, nhất là sau khi gia nhập WTO và thực hiện các FTA đã ký kết
(trong cả giai đoạn 2006 – 2008, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này chiếm 70%
tổng KNNK và bằng 57% GDP, riêng năm 2006, các chỉ số này là 56,4% KNNK
và bằng 48,8% GDP, năm 2008 tăng lên 74,7% và bằng 65,1% GDP). Mức độ phụ
thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài nặng nế nhất trong thời kỳ tới vẫn là nhiên
liệu (giảm dần từ 95% trong năm 2010 xuống khoảng 70-80% trong thời kỳ sau
năm 2015), công nghệ (khoảng 90%), máy móc thiết bị (70-80%), nguyên phụ liệu
một số ngành công nghiệp (sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng
70 -80%, sản phẩm dệt may và giày da khoảng 65 – 75%, sản phẩm nhựa 50 –
60%, hoá chất khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 40 – 50%, thức ăn chăn nuôi

khoảng 60 -70%, nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh khoảng 70 – 80%). Đây
cũng là những ngành sản phẩm bị tác động nhiều nhất khi tự do hoá sâu hơn vào
theo các cam kết WTO và cam kết FTA, và cũng rất nhạy cảm với những biến
động của tình hình thị trường thế giới.
7. Chất lượng tăng trưởng thấp, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics
chậm phát triển, chi phí đầu vào và đầu ra của nền kinh tế cao làm hạn chế khả
năng tận dụng những cơ hội phát hiện mới do hội nhập quốc tế mở ra, tiếp tục
là một bất lợi lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam khi tự do hoá
ngày càng sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế.
Chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả kinh tế và nội năng của nền kinh tế
chậm được nâng lên sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế
trong cạnh tranh với các đối tác trong các FTA mà Việt Nam tham gia thời kỳ tới.
Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 1990 – 2010, yếu tố
năng suất lao động
5
mới chỉ đóng góp khoảng 30% còn yếu tố vốn đóng góp 50%
và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20% (các chỉ số tương ứng của Ấn Độ là
36%, 40% và 324%). Chỉ số tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh
tế vẫn đang có xu hướng giảm xuống (từ 4,31%/năm trong giai đoạn 1991- 1995
xuống 2,56%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000 và còn 1,7% giai đoạn 2001 –
2008). Chỉ số MVA/GO của ngành công nghiệp và VA/doanh thu của thương mại
trong nước cũng đang có xu hướng giảm (chỉ số MVA/GO giảm từ 38,4% năm

5
Năng suất lao động: GDP thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc – Nguồn số liệu: EIU
15

2000 xuống 24,8% năm 2008 và 21% năm 2009, chỉ số VA/doanh thu của thương
mại trong nước thời kỳ 2001 – 2010 không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở
mức 24-29%)

6

Mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn đang chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư,
nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp. Hệ số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai
đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 2007, 6,55 trong năm 2008 và xấp xỉ 7,0
trong năm 2009, cao hơn gấp hai lần các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công
nghiệp hoá tương tự như Việt Nam hiện nay
7

XK đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng
mô hình tăng trưởng XK của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên
liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập
khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn
chung là hiệu quả thấp. Do kết cấu hạ tầng phát triển thương mại và dịch vụ
logistics chưa phát triển nên hàng XK của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực
tiếp sang thị trường Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng sang Hông Kông,
Singapore. Chi phí XK cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007,
chi phí XK của Việt Nam là 701 USD/container 20ft, mức trung bình của khu vực
là 500 USD, của Thái Lan 848 USD, của Trung Quốc là 335 USD, Maylayxia là
481 USD, Hồng Kông là 435 USD…)
8
. Do dịch vụ vận tải biển chưa phát triển
nên các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam mới chiếm khoảng 22 – 24% thị
phần vận tải hàng hóa XK và khoảng 18 – 20% thị phần vận tải hàng hóa nhập
khẩu của Việt Nam. Dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất, nhập khẩu và các dịch vụ hỗ
trợ khác mới hình thành nên chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển (trong 3 năm
2005 – 2007, Việt Nam phải chi trả 6 tỉ USD cho nước ngoài về chi phí bảo hiểm
và vận tải hàng hóa XNK, chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ cùng giai đoạn và là yếu
tố chính làm thâm hụt cán cân dịch vụ của ta). Cơ cấu XK chậm chuyển dịch theo
hướng hiện đại, đến giai đoạn 2008 – 2010, nhóm hàng chế biến XK mới chiếm


6
- MVA/GO: Tỉ lệ giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp so với giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp.
- VA/Doanh thu của thương mại trong nước: Tỉ lệ giá trị gia tăng so với tổng mức LCHHBLXH.
7
Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1961-1980 là 3,0, của Đài Loan cùng thời kỳ là 2,7; của Indonexia, Maylayxia
và Thái Lan trong giai đoạn 1981- 1985 lần lượt là: 3,7 , 4,4 và 4,1; của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006
là 4,0
8
Chi phí XK bao gồm: chi phí giấy tờ, hành chính, bỗ dỡ, lưu kho, vận chuyển đường bộ cho 1 container 20 ft –
Nguồn: Doiry Business 2007, WB.
16

58-59% (Trung Quốc năm 2000 đã đạt 92%, Hàn Quốc năm 1986 đã đạt 96%),
nhóm hàng thô và sơ chế vẫn chiếm 41 – 42%, nên độ co giãn về cung với thị
trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động
của thị trường thế giới. Trong điều kiện tự do hoá ngày càng cao thì mức độ rủi ro
và tổn thương của ta sẽ càng lớn (XK sang ASEAN + 6 trong năm 2009 là một
minh chứng). Một số ngành hàng nông thuỷ sản và công nghiệp chế biến tuy đã có
sự tham gia và các mạng sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng mô hình
tổng quát vẫn là: qui mô lớn, mức độ thấp và hiệu quả thấp. Nhóm hàng công
nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ, phát triển theo
định hướng XK, chiếm tới 43% - 45% giá trị tổng sản lượng công nghiệp nhưng
chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp và đang có xu hướng
giảm xuống (năm 2000 là 30%, năm 2007 chỉ còn chiếm 23%, năm 2009 còn
khoảng 21%), hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, phụ thuộc nặng nề vào
nguyên liệu nước ngoài và chậm thích ứng với những biến động của thị trường
thế giới.
8. Năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu
thời kỳ tới năm 2020 đang có những trở ngại lớn từ nội bộ nền kinh tế hiện

nay, tiềm ẩn những thách thức đối với sự phát triển dài hạn xuất nhập khẩu
của Việt Nam.
Trước hết, đó là tình trạng, trình độ công nghệ thấp, lệ thuộc vào công nghệ
nước ngoài, mất cân đối cung – cầu và cơ cấu công nghệ ngày càng tăng. Máy
móc thiết bị và công nghệ là yếu tố chính tạo ra năng suất lao động và hình thành
sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng đang trong điều kiện 90% công nghệ đáp ứng
nhu cầu trong nước phải nhập khẩu thì tỉ trọng của nhóm hàng này trong tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa là đang có xu hướng giảm mạnh (từ 31,4% năm 2000
xuống 14,7% năm 2006, 17% năm 2008 và 2009). Tốc độ đổi mới máy móc thiết
bị chưa đạt yêu cầu phát triển (ước đạt dưới 10%), tỉ lệ đầu tư cho R&D trong
doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1% - 0,2%, các ngành công
nghệ cao và công nghệ mũi nhọn tỉ lệ này cũng chỉ đạt 0,2 – 0,25% (tỉ lệ này của
Ấn Độ năm 2002 đã đạt5%, của Hàn Quốc năm 2000 là 10%). Trong cấu trúc
nhập khẩu, tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm 15,0 -
16,0% (chỉ số tương ứng của Trung Quốc là 37 – 39%), công nghệ trung-cao
17

chiếm 21%, còn lại là công nghệ thấp và trung-thấp chiếm 63%. Trong cấu trúc
XK, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8% (chỉ số tương
ứng của Trung Quốc là 42 – 43%), công nghệ trung-cao chiếm khoảng 4%, công
nghệ trung-thấp chiếm 30% và công nghệ thấp 57%
9
.
Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ
và siêu nhỏ (vốn bình quân của các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế chỉ
khoảng 6 tỉ đồng/DN), hiện đang thiếu những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh,
có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hiện đã có khoảng 500 nghìn
doanh nghiệp với trên 44 nghìn doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại
quốc tế, nhưng chỉ có trên 70 tập đoàn kinh tế và tổng công ty, công ty Nhà nước
(100% vốn Nhà nước hoặc vốn Nhà nước chiếm cổ phẩn trên 50%) cùng khoảng

200 doanh nghiệp FDI có qui mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng ở trong và ngoài
nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Còn lại, tuyệt đại đa số là những doanh
nghiệp nhỏ và vừa, khả năng cạnh tranh quốc tế còn rất yếu. Phần lớn là các doanh
nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào phân khúc sản xuất, gia
công lắp ráp – tức là các khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá
trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát
triển, tiêu thụ… là những khâu mang lại giá trị gia tăng cao. Tham gia vào các
mạng sản xuất , các chuỗi giá trị toàn cầu chưa phải là phương thức chủ yếu để tìm
kiếm giá trị gia tăng cao của các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam để phát triển kinh doanh ngoài biên
giới quốc gia mới ở giai đoạn khởi đầu, khả năng tận dụng những cơ hội phát triển
mới do toàn cầu hóa, hội nhập mở ra của doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế.
9. Lợi thế cạnh tranh “động” của nền kinh tế trong cạnh tranh xuất
khẩu toàn cầu thời kỳ tới tiếp tục phải vượt qua những trở ngại về chất lượng
nguồn nhân lực, chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ, về môi trường
cạnh tranh quốc gia và một số vấn đề an sinh xã hội v.v…

9
Trong giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ trung – cao (-
6,5% để tăng nhập khẩu công nghệ trung – thấp (+7,4%). Từ năm 1997 đến năm 2003, tỉ lệ XK hàng côn nghệ cao
của Việt Nam chỉ nâng được từ 3% lên 6%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (các chỉ số tương ứng
của Indonexia là 10,5% và 14%, của Trung Quốc là 12,8% và 27,6%, của Thái Lan là 31% và 30%, của Hàn Quốc
là 27% và 32%, của Singapore là 58% và 57%, của Maylayxia là 49% và 59%.
18

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức là một phương hướng cơ bản đã được xác định trong các văn kiện Đại hội
IX, X và dự thảo văn kiện Đại hội XI của Đảng. Thế nhưng, đến nay, chất lượng
đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực rất thấp, chậm được cải thiện; mất cân đối
cung – cầu lao động, cơ cấu lao động theo trình độ kỹ thuật và theo vùng; thiếu lao

động có tay nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Đến nay, lao động có tay nghề chỉ
chiếm khoảng gần 30% tổng số lao động làm việc, trong đó, lực lượng lao động
được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm gần 6%. Chất lượng đào tạo ở
các trường Đại học chưa đạt chuẩn quốc tế, giảng viên các trường Đại học của
Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế
10
. Gần 50% sinh viên
ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. Trong khi đó, tỉ lệ
ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam tăng liên tục và cao hơn
hầu hết các nước trong khu vực. Đến giữa năm 2009, của nước có 2,6 triệu người
có trình độ đại học (chiếm 4,5% lao động cả nước), trong đó có 18 nghìn tiến sĩ,
hơn 6 nghìn phó giáo sư và giáo sư nhưng số bản quyền sáng chế và số chuyên gia
kỹ thuật của Việt Nam tăng rất chậm
11
. Tình trạng kém ngoại ngữ (nhất là tiếng
Anh) của số đông người lao động, kể cả giảng viên các trường đại học, các Viện
nghiên cứu , các cơ quan hành chính sự nghiệp… chậm được nâng lên, tiếp tục là
trở lực lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới.
Về mặt thể chế, hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên, nhưng chưa
đáp ứng kịp yêu cầu quản lý, điều tiết nền kinh tế - xã hội trong bối cảnh có nhiều
biến động của tình hình trong nước và quốc tế khi nước ta hội nhập quốc tế và tự
do hoá ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ nhìn
chung còn thấp hơn so với các nước trong khu vực
12
.

10
Trong năm 2006, với 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkom của Thái Lan đăng được 744 công
trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong khi đó, với 3,360 giảng viên của hai trường Đại học Quốc
gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình – Nguồn: Chỉ số trích dẫn khoa học

mở rộng – Web of Scienoe, Thompson Corp.
11
- Năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký được 2 bản quyền với tổ chức WIPO
- Trong thời kỳ 1987 – 1997, tỉ lệ số chuyên gia kỹ thuật/100.000 dân của Việt Nam là 61 người so với 2.318
người của Singapore, 454 người của Trung Quốc; năm 1988 số bằng sáng chế/1triệu dân của Việt Nam 0,1 so với
8,0 của Singapore, 1,0 của Trung Quốc.
12
Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (năm 2007) đã đánh giá chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ 212
nước và vùng lãnh thổ, trên 6 tiêu chí: Hiệu năng của Chính phủ, chất lượng chính sách và hoạt động điều tiết,
thượng tôn pháp luật, tham nhũng, tiếng nói và trách nhiệm giải trình, ổn định chính trị. Ngoại trừ tiêu chí về ổn
định chính trị, điểm của Việt Nam về 5 tiêu chí còn lại đều thấp hơn so với các nước Đông Á và ASEAN 6, trừ
19

Trong hai năm vừa qua, Chính phủ đã có sự nỗ lực vượt bậc trong nâng cao
chất lượng quản trị quốc gia, chống đỡ có hiệu quả những tác động bất lợi của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta
(đảm bảo tốc độ tăng trưởng 5,1%, là mức tăng trưởng cao so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới). Tuy thế, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu sẽ còn tác động bất lợi đến sự phát triển của đất nước trong ngắn và
trung hạn,tiếp tục là thách thức lớn đối với khả năng quản trị quốc gia của Chính
phủ, nhất là trong điều kiện nước ta tiếp tục tự do hoá sâu hơn theo các cam kết
FTA. Một trong những khó khăn, thách thức lớn đối với năng lực quản trị quốc gia
của Chính phủ trong điều kiện có sự mở rộng tham gia các FTA và thực hiện tự do
hoá sâu hơn theo các cam kết FTA đã ký kết thời kỳ tới là việc xây dựng và nâng
cao hiệu quả sử dụng các hàng rào trong thương mại. Trong đó, cấp bách nhất là
xây dựng và sử dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT), và các biện pháp vệ sinh dịch
tễ (SPS), các biện pháp tự vệ trong thương mại, biện pháp chống bán phá giá hàng
nhập khẩu vào thị trường nước ta… nhằm nâng cao hiệu năng của Chính phủ
trong quản lý nhập khẩu khi tự do hoá ngày càng sâu hơn thao các điều kiện WTO
và các FTA

13
đã và sẽ tham gia.
Môi trường cạnh tranh quốc gia tuy đã được từng bước hoàn thiện, nhưng
vẫn còn những yếu tố bất cập, chậm được khắc phục
14
. Các yếu tố nền tảng của
tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu quả và sáng tạo của năng lực cạnh tranh quốc gia
chậm được tạo lập, ảnh hưởng đến tiến tính dài hạn của sự phát triển. Cùng với
chất lượng giáo dục đào tạo chậm được nâng lên, thị trường khoa học công nghệ
chậm hình thành và phát triển, hiệu quả thị trường lao động và thị trường hàng hóa
chưa cao, độ sâu của thị trường tiền tệ và trình độ phát triển của thị trường tài
chính chậm được nâng lên. Mặt khác, mức độ sẵn sàng về mặt công nghệ chưa

Indonexia – Nguồn: Tầm quan trọng của quản trị quốc gia 1996 – 2006” tư liệu nghiên cứu số 4280 của WB, tháng
7/2007.
13
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết Chính phủ các nước khi đẩy mạnh sự tham gia các FTA đều đã cơ bản
xây dựng được các hàng rào kỹ thuật trong thương mại và các rào cản thương mại khác một cách khá đòng bộ, có
chiều sâu. Trong khi,đối với nước ta, mặc dù đã gia nhập WTO và tham gia 6 FTA khu vực, nhưng cho đến nay,
mới bước đầu xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại, kết quả còn rất khiêm tốn, hiệu năng sử dụng chưa
cao.
14
Sau khi gia nhập WTO, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam theo đánh giá của WEF trong: “Báo
cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009” chưa có sự cải thiện trong Bảng xếp hạng: năm 2007 xếp hạng 68/131
nền kinh tế, năm 2008 xếp hạng 70/134, và năm 2009 xếp hạng 75/133 nền kinh tế.
20

cao, trình độ quản lý doanh nghiệp tiến tiến và khả năng sáng tạo chậm được nâng
cao, chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp… tiếp tục là những yếu tố
làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh “động” của quốc gia trong phát triển xuất

khẩu thời kỳ tới.
3. Dự báo triển vọng thị trường và thương mại thế giới thời kỳ tới 2020
3.1 Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới:
Năm 2010, theo dự ước của một số trung tâm dự báo, tăng trưởng GDP toàn
cầu có thể đạt 2,7 – 2,8%
15
(đạt khoảng 59.560 tỷ USD), giá cả hàng hoá đã
chững lại và một số mặt hàng nguyên nhiên liệu đã có dấu hiệu tăng giá trở lại.
Trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt khoảng 2,0 – 2,5%; kinh tế EU tăng
trưởng khoảng 0,8 – 0,9%; kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khoảng 1,4%; tốc độ
tăng trưởng kinh tế chung của châu Á (trừ Nhật Bản) có thể đạt 7,0 – 7,1%; châu
Mỹ La tinh, Trung Đông và châu Phi tăng trưởng 3 – 4%; các nền kinh tế mới nổi
châu Âu tăng trưởng khoảng 1,7 – 1,8%. Tuy nhiên, theo báo cáo “Tình hình và
triển vọng kinh tế thế giới năm 2010” do Liên Hợp quốc công bố thì dự tính năm
2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ là 2,4%.
Trong 5 năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước châu Á nhanh
nhất thế giới, bình quân 7 – 8%/năm, gấp 3 lần tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu.
Với vai trò là “trung tâm của thế giới mới nổi” châu Á sẽ là động lực tăng trưởng
kinh tế thế giới trong thapạ kỷ tới, dự tính đến năm 2020 tổng lượng kinh tế của
nhóm các nền kinh tế mới nổi đang phát triển sẽ chiếm 50% GDP toàn cầu. Trong
20 năm tới, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ vượt mức bình
quân 9%/năm, các nước châu Á khác ước khoảng 7,5%/năm, đến năm 2030, châu
Á sẽ chiếm khoảng 505 GDP toàn cầu
16

3.2. Triển vọng thị trường và thương mại thế giới
- Thương mại thế giới sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của thương
mại dịch vụ, tỷ trọng của thương mại hàng hoá sẽ giảm tương đối. Sẽ có sự
chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng của các nền kinh tế mới nổi và đang


15
Theo ÍH Global Insinght
16
Theo Tạp chí “Forbes” của Nhật Bản soó tháng 5/2008 dẫn tới dự báo của Lý Quang Diệu (tác giả của “Trung
tâm kinh tế thế giới châu Á”)
21

phát triển trong cả hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ
trong khi thị trường các nền kinh tế phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản đang trở
nên bão hoà. Mặc dù các nền kinh tế phát triển vẫn có khả năng tiêu thụ một lượng
hàng hoá lớn nhưng xu hướng tiêu dùng, đầu tư, sản xuất sẽ chuyển dần sang các
thị trường mới nổi và đang phát triển có khả năng sinh lời cao.
- Các nước phát triển sẽ đẩy mạnh xuất khẩu để tái cân bằng các cân đối vĩ
mô và sẽ hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng không cần thiết. Chính quyền
của Tổng thống Obama đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 tăng gấp đôi kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá và đang thúc đẩy đàm phán ký kết Hiệp định đối tác kinh tế
chiến lược xuyên Thái Bình Dương với ý đồ sử dụng công cụ này để điều chỉnh
chiến lược thị trường thực hiện mục tiêu đó. EC đang thúc đẩy chiến lược FTA
hướng Đông để đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ sang khu vực châu Á, nhất là Ấn Độ,
ASEAN và Trung Quốc.
Các nền kinh tế mới nổi sẽ nhập khẩu nhiều hơn đeer đáp ứng nhu cầu trong
nước. Đặc biệt, Trung Quốc sẽ gia tăng sức hút các luông nguyên nhiên vật liệu,
tài nguyên khoáng sản để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng cao ở mức bình quân
9%/năm, tạo hiệu ứng mạnh đối với giá cả hàng nguyên nhiên vật liệu thế giới.
- Về cơ cấu hàng hoá XNK.
+ Nhóm hàng cơ khí, chế biến, chế tạo công nghệ cao, hàng hoá thông
minh sẽ lfa những mặt hàng xuất khẩu chủ chố của các nước phát triển. Đây cũng
chính là nhóm hàng mà các nước đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi có nhu
cầu nhập khẩu để đẩy nhanh CNH, HĐH. Nhóm dòng sản phẩm công nghệ cao
khác, với mức giá giảm tương đối sẽ được kích thích xuất khẩu. Một số nước đang

phát triển, thị trường mới nổi (Trung Quốc, Ấn Độ, LB Nga ) cũng sẽ có các
dòng sản phẩm thông minh xuất khẩu sang các nước cùng nhóm, thậm chí cả các
nước phát triển. Đặc biệt, thị trường hàng điện tử sẽ có tốc độ phát triển nhanh
nhất cả về sản phẩm và nâng cấp nhu cầu tiêu dùng.
+ Nhóm hàng nông lâm thủy sản vẫn là thế mạnh xuất khẩu của các nước
đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi; nhu cầu nhập khẩu của các nước phát
triển sẽ không giảm, nhất là đối với các mặt hàng họ kong sản xuất được, nhưng
nhập khẩu hoa và một số lâm sản không thiết yếu sẽ giảm sút, bù vào đó, các nền
22

kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển sẽ gia tăng nhu cầu nha nhóm hàng
này.
+ Nhóm hàng công nghiệp nhẹ có hàm lượng lao động cao như dệt may,
giày dép xuất khẩu của các nước đang phát triển sẽ không tăng trưởng mạnh,
nhưng nhu cầu nhập khẩu của một số thị trường mới nổi (Nga, Braxin, một số
nước Đông Âu ) có thể sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn. Hãng thời trang cao
cấp sẽ tăng nhanh nhu cầu nhập khẩu vào Trung Quốc, Ấn Độ để phục vụ tầng lớp
trung - thượng lưu đang tăng nhanh.
+ Nhóm hàng khoáng sản và năng lượng không thể tái tạo sẽ được nhiều
nước hạn chế xuất khẩu để tiết kiệm tài nguyên, nhu cầu nhập khẩu tăng cao (nhất
là Trung Quốc), giá cả các loại khoáng sản sẽ tăng cao.
+ Nhóm hàng năng lượng mới có thể tái tạo sẽ xuất hiện nhiều hơn trong
thương mại quốc tế, nhu cầu sử dụng năng lượng mới cũng sẽ tăng cao. Tỷt của
sản phẩm sạch, năng lượng sạch và tiêu dùng sạch sẽ tăng nhanh trên cả phương
diện nguồn hàng, thị hiếu tiêu dùng và lưu lượng hàng hoá.
4. Triển vọng nhu cầu thế giới đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam.
- Nhu cầu thế giới đối với nhóm hàng nông lầm thủy sản xuất khẩu của Việt
Nam vẫn ở mức cao, đặc biệt là nhóm hàng lương thực, thực phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao, thân thiện với môi trường (như nhóm thực phẩm đồ uống chế biến

thực phẩm chức năng. Đặc điểm chủ yếu là nhu cầu thị trường nhập khẩu có tính
phân tán cao, các nước phát triển như Nhật, EU sẽ gia tăng nhập khẩu lương thực
thực phẩm phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm chức năng có giá trị gia tăng
cao, áp dụng công nghệ cao.
- Nhu cầu nhập khẩu của các thị trường mới nổi (đặc biệt là Trung Quốc,
Nga, Braxin ) đối với nhóm hàng có hàm lượng lao động cao, công nghệ trung
bình kết hợp với lao động thủ công như: dệt may, giày dép, đồ gỗ sẽ gia tăng,
tạo lực hút mạnh đối với xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam. Sản phẩm dệt
may, giầy da, đồ gỗ cao cấp sẽ có nhu cầu tăng mạnh ỏư Nga, Trung Quốc, Đông
Âu, Úc, Braxin và các nền kinh tế mới nổi khác. Trong khi nhu cầu nhập khẩu đáp
23

ứng nhu cầu của nhóm người có thu nhập thấp ở Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc vẫn ở
mức cao do các mặt hàng này có hệ số co giãn tiêu dùng theo thu nhập thấp.
- Nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia
tăng cao (như hàng điện tử, hàng chế tạo áp dụng công nghệ cao), chủ yếu là sản
phẩm của khu vực FDI, sẽ tăng mạnh ở các thị trường mới nổi.
- Nhu cầu nhập khẩu của thế giới, đặc biệt là Trung Quốc dvongl thô,
khoáng sản thô và sơ chế của Việt Nam vẫn tăng cao, giá cả có xu hướng tăng,
nhưng ta đang hạn chế xuất khẩu. Cần tận dụng tốt cơ hội thị trường và giá cả để
nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng này, bù đắp cho phần khối lượng xuất
khẩu sụt giảm.
5. Triển vọng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ
đến năm 2015, có tính đén năm 2020
5.1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn
2020
* Dự báo xu hướng tăng trưởng XK một số mặt hàng:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu
sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm lượng xuất khẩu dầu thô và
than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tới; đặc biệt là kể từ năm

2009, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ sử
dụng nguồn dầu thô trong nước.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản
sẽ có xu hướng giảm dần do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng qui mô
nuôi, tròng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá
trị xuất khẩu.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ
công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng qui
mô sản xuất (đặc biệt là thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này), phát triển thị trường mới,
mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị tăng nhờ đổi mới công nghệ.
24

Thứ tư, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng khác sẽ có xu hướng
tăng do nhiều mặt hàng mới được phát hiện, có tiềm năng phát triển, chưa bị hạn
chế về sản xuất và thị trường.
+ Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu:
Nhóm hàng nông, lâm thủy sản giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam từ 22,5% năm 1010 xuống còn 19,0% năm 2015 và
xuống 14% vào năm 2020. Nhóm hàng khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là
dầu thô và than đá giảm mạnh từ 20,8% năm 2008 xuống còn 11,0% năm 2010 và
xuống dưới 10% giai đoạn 2011 – 2015. Riêng nhóm hàng công nghiệp và thủ
công mỹ nghệ tăng mạnh từ 58,6% năm 2008 lên 68% năm 2010 và trên 70% giai
đoạn 2011 – 2015.
* Triển vọng xuất khẩu mặt hàng:
- Nhóm nhiên liệu và khoáng sản:
+ Dầu thô: Theo dự báo, nhu cầu dầu thô thế giới thời kỳ 2011- 2020 tiếp
tục tăng, tuy nhiên giai đoạn 2011 – 2015 sẽ tăng mạnh với tốc độ khoảng
3%/năm, tương đương khoảng 2,5 triệu thùng/ngày mỗi năm; nhu cầu gia tăng
mạnh nhất ở những cường quốc công nghiệp mới như Trung Quốc, Ấn Độ, ngoài

ra nhu cầu cũng tăng mạnh ở Đông Âu, Hoa Kỳ và Tây Á. Đến năm 2015 sản
lượng dầu thô nước ta sẽ đạt khoảng 22 triệu tấn, chế biến trong nước chiếm
khoảng 70% sản lượng, xuất khẩu khoảng 6 triệu tấn.
+ Than đá: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cũng sẽ giảm dần do chủ
trương kiểm soát chặt xuất khẩu tài nguyên. Theo kế hoạch dự kiến, sản lượng
than khai thác than sẽ đạt khoảng 60 – 65 triệu tấn vào năm 2015, sử dụng trong
nước khoảng 56 triệu tấn, còn khoảng 5 triệu tấn dành cho xuất khẩu.
+ Các loại khoáng sản khác: Xuất khẩu một số loại khoáng sản khác như
quặng apatit, quặng sắt, boxit nhôm, quặng titan là rất hạn chế và cũng không
được khuyến khích, vì trữ lượng ở nước ta không nhiều, nên dành để phục vụ nhu
cầu sản xuất và phát triển kinh tế trong nước những năm tới.
Nhìn chung việc xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản có nhiều
thuận lợi về thị trường và giá cả. Tuy nhiên, sản lượng xuất khẩu sẽ ngày càng

×