Mở bài
Bước sang thế kỷ 21 một thế kỷ có thể nói có những bước phát triển vơ cùng
to lớn. Khơng chỉ có ý nghĩa với nước ta mà có ý nghĩa đối với cả thế giới. Ngay
sau khi ra nhập WTO nước ta chính thức bước vào một sân chơi mới. Một sân chơi
mà dường như chúng ta không phải là đối thủ của họ. Thương mại quốc tế, hội
nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi mỗi nước cần phải mở rộng mối quan hệ. Hội nhập về
tất cả các lĩnh vực, tất cả các ngành hàng. Tuy nhiên khơng phải vì vậy mà chúng
ta qn mất, xem nhẹ thị trường nội địa. Bởi thị trường nội địa có thể được coi như
bàn đạp, một nền tảng giúp các doanh nghiệp nước ta có thể phát triển trên các thị
trường nước ngoài. Một trong những ngành hàng được nhà nước ta hiện nay rất
quan tâm đó là Dược Phẩm. Khơng chỉ với tính chất là một ngành hàng trong số
các ngành hàng khác trong nền kinh tế mà Dược Phẩm nó cịn là một ngành hàng
đặc biệt liên quan đến các chính sách an sinh xã hội của một quốc gia. Nói đến
Dược Phẩm hầu hết mọi người đều nghĩ đến sản phẩm ngoại. Bởi hiện nay trên thị
trường hầu hết ở các bệnh viện, phòng khám tư đều giới thiệu, bán các loại thuốc
ngoại. Đây có thể là một bất lợi lớn cho các hãng thuốc nội bởi sự khơng thơng
dụng đối với thị trường. Đó cũng chính là khó khăn lớn của hoạt động thương mại
nội địa của ngành Dược. Một vấn đề đặt ra là: vậy phải làm thế nào để phát triển
được thương mại nội địa cho ngành Dược Phẩm. Dưới đây nhóm chúng tơi sẽ đề
cập tới thực trạng hoạt động thương mại nội địa của ngành Dược từ đó đưa ra các
chiến lược và chính sách cũng như giải pháp nhằm phát triển thương mại nội địa
ngành Dược.
1. Lý luận
1.1 Hoạt động thương mại nội địa của ngành dược
1.1 .1 Thực trạng ngành Dược Việt Nam
Tính đến hết năm 2008 số lượng doanh nghiệp nước ngoài đăng ký là 438
đơn vị, tăng 68 đơn vị doanh nghiệp so với năm 2007 (370 doanh nghiệp). Hiện
các doanh nghiệp Ấn Độ, Hàn Quốc chiếm 34,5% tổng số doanh nghiệp đăng ký.
Trị giá nhập khẩu thuốc năm 2008 đạt 923.288 triệu USD (tăng 13,8% so với
2007). Trong năm 2008 do sự biến động mạnh về tỷ giá ngoại tệ nên ảnh hưởng
nhiều tới hoạt động nhập khẩu thuốc.Tổng số sổ đăng ký thuốc nước ngồi cịn
hiệu lực là 10.339 sổ đăng ký; các hoạt chất đã đăng ký gần 900 hoạt chất; các hợp
chất có nhiều sổ đăng ký chủ yếu là kháng sinh , kháng viêm; 20 hoạt chất có nhiều
sổ đăng ký chiếm 19% tổng số sổ đăng ký. Trong năm 2008, có 2.300 thuốc nước
ngồi được cấp sổ đăng ký; các thuốc đăng ký nhiều là kháng sinh, kháng viêm;
một số hoạt chất đăng ký nhiều trong năm là Glimepiride, Metformin,
Rabeprazole.
Tính đến 31/12/2008, tồn quốc có 37 dự án đầu tư vào lĩnh vực dược.
Trong năm 2008 có 1 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào sản xuất thuốc. Số dự
án đã triển khai hoạt động là 25 dự án. 32 dự án với tổng số vốn là 282.6 triêu
USD, 192.9 triệu USD là 25 dự án đã hoạt động. 22 nhà máy dược phẩm FDI đầu
tư vào 40 dây chuyền sản xuất thuốc (trên tổng số 230 dây chuyền của các nhà máy
GMP). Trị giá thuốc sản xuất của các nhà máy dược phẩm FDI chiếm khoảng 22%
tổng trị giá thuốc sản xuất của các nhà máy dược phẩm trong cả nước.
Ngành dược Việt Nam đã thu được những kết quả rất đáng ghi nhận trên hầu
hết các mặt của cơng tác chăm sóc dược (pharmaceutical care). Số liệu báo cáo cho
thấy, năm 2008 thuốc sản xuất trong nước đạt 715,435 triệu USD, chiếm 50,2% giá
trị tiền thuốc sử dụng và tăng 19,16% so với năm 2007, đã góp phần tăng tiền
thuốc bình quân đầu người lên 16,45 USD/năm. Thuốc sản xuất trong nước đang
hướng tới những nhóm thuốc có tỷ lệ sử dụng cao, thuốc chuyên khoa (như : thuốc
tim mạch, tiểu đường, thần kinh, nội tiết, ...) Các dạng bào chế cũng được phát
triển hơn (như : thuốc tác dụng có kiểm sốt, thuốc tiêm đơng khơ, thuốc sủi
bọt, ...)
Hệ thống sản xuất, kiểm tra chất lượng, tồn trữ bảo quản, lưu thông phân
phối thuốc không ngừng được tiêu chuẩn hoá theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) và tiêu chuẩn quốc tế, tính đến tháng 3/2009 đã có 92 doanh nghiệp
đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP); 92 đơn vị đạt tiêu chuẩn GLP;
110 đơn vị đạt GSP; việc triển khai áp dụng GDP, GPP từ tháng 01 năm 2007 bước
đầu đạt những kết quả, đặc biệt trong việc thay đổi nhận thức của các đối tượng là
nhà quản lý, người hành nghề và người tiêu dùng. Theo báo cáo của 04 thành phố:
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ và 33 tỉnh triển khai thực
hiện GPP, tính đến 31.3.2009:
- Có 444/8.434 nhà thuốc đạt GPP, bằng 5,3%
- Trong đó nhà thuốc bệnh viện là 140/406 đạt GPP, bằng 34%
- Có 15 doanh nghiệp tổ chức chuỗi nhà thuóc
Với chiến lược áp dụng đồng bộ 5 G.Ps theo quan điểm Quản lý chất lượng
toàn diện (Total Quality Management) kết quả được thể hiện rõ nhất qua tỷ lệ
thuốc giả, thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng không ngừng giảm trong những
năm qua và duy trì ở một tỷ lệ rất thấp, cụ thể năm 2008, tỷ lệ thuốc giả là 0,095%,
thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng là 2,94%. Tổng số quầy bán lẻ thuốc đạt 35
518 điểm, góp phần bảm đảm cung ứng thường xun thuốc phịng chữa bệnh cho
người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Trong năm 2008 giá thuốc được kiểm tra, kiểm soát và tương đối ổn định,
khơng có sự tăng giá đột biến, bất hợp lý. Đây cũng là điểm nổi bật trong công tác
chỉ đạo, điều hành về giá thuốc. Chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm, y tế năm 2008
là 9,43% nếu so sánh với chỉ số giá tiêu dùng chung của xã hội CPI là 47,71%
(giảm hơn so với năm 2007 là 55%, năm 2006 là 65%) và vẫn tiếp tục đứng 7/10
về chỉ số giá của các nhóm hàng chủ yếu.Tổng kết cơng tác y tế năm 2008, cơng
tác bình ổn giá thuốc được xếp là một trong 10 sự kiện ngành y tế.
1.1.2 Hoạt động thương mại nội địa của ngành dược nói chung
Hiện tại, năng lực của ngành dược Việt Nam đang ở cấp độ 2,5-3 theo đánh
giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tức là có khả năng sản xuất một số thuốc
gốc (Generic) và xuất khẩu một số dược phẩm. Các doanh nghiệp (DN) dược hiện
nay vẫn chủ yếu đầu tư sản xuất các loại thuốc thông thường, đơn giản, chưa chú ý
đầu tư sản xuất các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị hay các dạng bào chế đặc biệt.
Điều này được thể hiện qua các con số: 51% dây chuyền sản xuất dược ở nước ta
hiện nay là sản xuất thuốc viên thông thường; 15% dây chuyền sản xuất thuốc
kem, mỡ dùng ngoài; 10% sản xuất thuốc nang mềm; 8% sản xuất thuốc nước; 7%
sản xuất thuốc tiêm; 5% sản xuất thuốc nhỏ mắt... Thống kê của Cục Quản lý dược
cho thấy hiện nay, thuốc sản xuất trong nước bảo đảm được 48,3% giá trị thị
trường thuốc (khoảng 652/1.563 hoạt chất), vì vậy sức cạnh tranh rất thấp.
Trong khi đó, hệ thống phân phối của ngành dược cũng đang tồn tại quá
nhiều yếu kém. Nhiều doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu trực tiếp dược phẩm
nhưng chủ yếu là nhập khẩu ủy thác để hưởng phí ủy thác hay nhập các thuốc bán
chạy kiếm lời mà khơng chú trọng đến mơ hình bệnh tật, dẫn tới cạnh tranh không
lành mạnh.
Năng lực cạnh tranh yếu, thiếu hiểu biết các quy định về sở hữu trí tuệ; thiếu
vốn, kỹ thuật cơng nghệ... là những bất lợi của ngành dược VN khi hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Các DN phải đối mặt trực tiếp với DN nước ngoài trên một
sân chơi bình đẳng khi hầu hết các “hàng rào” thuế quan bị hạ thấp. Không dừng
lại ở việc giảm thuế mà các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm nước ngoài ở
Việt Nam còn được phép trực tiếp xuất nhập khẩu dược phẩm từ ngày 1-1-2009.
Với những cam kết cần phải thực hiện, cùng với tiềm năng to lớn của thị trường
(doanh số 1,432 tỷ USD vào năm 2005), nhiều chuyên gia dự đoán trong thời gian
đầu các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tập trung vào phát triển hệ thống phân phối
dược phẩm ở Việt Nam. Và như vậy, ngành dược Việt Nam phải đối mặt với nguy
cơ mất thị phần, thị trường do năng lực cạnh tranh thấp.
Tăng giá và thao túng của một số DN và đại lý trong ngành dược, để cho
thấy sự yếu kém của ngành thương mại nội địa. Các hãng dược phẩm trong nước
và nước ngồi thơng qua những đại lý phân phối đã "thống trị" mặt bằng giá thuốc
ở Việt Nam một khoảng thời gian khá lâu. Sự tăng giá liên tục dược phẩm đã ảnh
hưởng rất lớn đến người tiêu dùng, nhất là người lao động thu nhập trung bình và
thấp. Cơ quan quản lý Nhà nước cũng như những tổng công ty nhà nước 90, 91 đã
không chủ động tham gia vào thị trường thuốc chữa bệnh để ổn định giá cả và điều
này làm giảm lòng tin của người tiêu dùng đối với hệ thống quản lý Nhà nước
Hiện nay, ngành dược Việt Nam còn thiếu định hướng và đang phải đối mặt
với hàng loạt thách thức. Mặc dù nước ta là một quốc gia có nguồn dược liệu đa
dạng và phong phú cả về số lượng, chất lượng, chủng loại nhưng vẫn chưa được
khai thác tốt để đáp ứng nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, mạng lưới cung ứng, phân
phối dược phẩm vẫn mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp và chưa được tiêu
chuẩn hóa nên chưa đóng vai trị chủ đạo để bình ổn thị trường thuốc trong nước cả
về nguồn cung cấp, cũng như giá cả...
2. Thực trạng
2.1 Nhóm mơi trường tác động
2.1.1 Nhóm mơi trường vĩ mơ
Mơi trường vĩ mơ bao gồm những khía cạnh gì?
Mơi trường vĩ mơ: các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội..
2.1.1.1 Chính trị
Có vẻ nếu ai đó mới nghe thì thấy hơi lạ, thậm chí nghi ngờ. Nhưng khơng
phải mà thực sự chính trị cũng có ảnh hưởng tới hoạt động thương mại nội địa của
ngành dược. Bởi vì sao? Vì ngành Dược thực chất cũng chỉ là một ngành, một bộ
phần của nền kinh tế. Mà kinh tế chịu ảnh hưởng rất nhiều từ chính trị. Do vậy mà
ngành Dược cũng không thể nào nằm ngồi sự phụ thuộc đó. Ngày nay, trong bất
cứ ngành hàng nào, muốn có điều kiện phát triển một cách sâu rộng, mạnh mẽ thì
một yếu tố quan trong là sự ổn định chính trị của quốc gia đó. Nếu chính trị quốc
gia đó khơng ổn định, thử hỏi sao mà nên kinh tế có thể phát triển một cách bình
thường được.
Chính trị và luật pháp thường đi liền với nhau vì: Luật pháp chính là cơng cụ
để nhà nước quản lý, điều chỉnh mọi mối quan hệ trên thị trường cũng như trong
đời sống hàng ngày. Do vậy mà luật pháp cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình hình
kinh doanh Dược Phẩm trên thị trường nội địa. Khi luật pháp quy định ưu đãi đối
với kinh doanh Dược phẩm thì ngành dược có điều kiện phát triển hơn. Cịn ngược
lại, nếu luật pháp có những quy định gây khó dẽ cho hoạt động kinh doanh Dược
phẩm thì chắc chắn sự phát triển của ngành dược phẩm có sự khó khăn hơn.
2.1.1.2 Kinh tế
Nói đến kinh tế người ta nói đến sự rộng lớn về quy mơ, đa dạng về hình
thức và phong phú về chủng loại. Một nền kinh tế gọi là nền kinh tế phát triển khi
cơ cấu kinh tê: Dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất(trên 60%), sau đó đến công nghiệp
và cuối cùng là nông nghiệp(dưới 10%). Trong nền kinh tế có rất nhiều ngành nghề
khác nhau, nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Có các ngành: dệt may, công
nghiệp chế biên, dịch vụ, Dược phẩm …….
Nền kinh tế được coi như môi trường sống của các ngành hàng đó. Mơi
trường sống có tốt, có trong lành thì các thực thể bên trong mơi trường đó mới có
thể phát triển một cách bình thường và nhanh chóng được. Đối với ngành Dược
cũng vậy: nền kinh tế có phát triển một cách ổn định thì ngành Dược mới có thể
phát triển một cách thuận lợi dễ dàng được.
Trong nền kinh tế ảnh hưởng mang tính tồn cầu đó là những cuộc khủng
hoảng, suy thoái. Hầu hết khi thế giới xảy ra khủng hoảng các quốc gia đều chịu
ảnh hưởng. Quốc gia nào hội nhập càng sâu càng ảnh hưởng nặng. Khủng hoảng
ảnh hưởng đến nền kinh tế nên đương nhiên cũng sẽ ảnh hưởng đến từng ngành
hàng, dịch vụ. Vì thế khi nền kinh tế bị khủng hoảng ngành dược ít nhiếu cũng
chịu ảnh hưởng.
2.1.1.3 Xã hội.
Xã hội bao gồm những vấn đề gì? Xã hội: con người, nền văn hố, đặc điểm
nhân khẩu học, dân số, tập qn thói quen……
Nếu như chính trị và kinh tế nó làm cho người nghe khó hình dung ra được đối
tượng tác động của là ngành Dược thì xã hội lại giúp cho ta có thể hình dung ra
được ngay. bởi vì sao? Đó là vì nhắc đến xã hội ta nghĩ ngay đến con người. Mà
ngành dược lại là một ngành đặc thù phục vụ như cầu tối quan trọng của con người
đó chính là nhu cầu chữa bệnh, tăng cường sức khoẻ………
Chính vì đổi tượng tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành Dược là
các vấn đề xã hội.
Chính vì vậy chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của xã hội cũng sẽ làm cho ngành Dược
có sự thay đổi lớn. Ví Dụ: khi bùng phát một đại dịch nào đó: H1N1, cảm
cúm……..
Làm cho cầu về loại thuốc đặc trị bệnh đó tăng đột biến.
Cũng như vậy, khi người dân có thói quen dùng sản phẩm của hãng nào đó,
họ đã tin tưởng thì rất ít khi, hay rất khó khăn làm cho họ thay đổi thói quen của
mình. Ví dụ, hiện nay thói quen sính hàng ngoại của người dân đã rất phổ
biến.Thay đổi thói quen đó là một điều hết sức cần thiết. Nó sẽ có tác dụng rất
mạnh mẽ thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển, đưa nền kinh tế nước ta ngày
càng phát triển, phát triển cao hơn về quy mô, đa dạng hơn về phương thức, cũng
như phong phú hơn về chủng loại mặt hàng.
2.1.2 Nhóm mơi trường ngành
Mơi trường ngành là gì? Mơi trường ngành có thể coi đó chính là mơi trường
nội tại. Như vậy, nói đến ảnh hưởng của môi trường ngành Dược đến hoạt động
thương mại nội địa của ngành Dược cũng chính là ta đi xem xét bản thân ngành
Dược đã tác động thế nào đến hoạt động thương mại ngành Dược.
Ta lấy ngay một ví dụ cụ thể, bản thân mỗi chúng ta có ảnh hưởng gì đến
tương lai của chúng ta. Đương nhiên là ta đóng vai trị quyết định. Bởi khi bản thân
ta muốn ta tốt hơn, có tương lai sáng hơn thì khi đó ta sẽ có sự phấn đấu, quyết tâm
và tự mình vạch ra những mục tiêu, định hướng, con đường bước đi có thể đưa ta
đến mục tiêu đã đề ra. Ngành Dược cũng vậy, ngoài những ảnh hưởng bên ngồi
tác động đến q trình phát triển thì một nhân tố có thể coi là mang tình quyết định
đến sự thành cơng hay khơng đó là bản thân ngành Dược. Không ai hiểu bản thân
mình bằng mình cả. Chỉ có mình mới hiểu rõ, nhược điểm và ưu điểm của mình, từ
đó mình sẽ có những định hướng, mục tiêu phù hợp với khả năng của mình hơn.
Chỉ có ngành Dược mới biết được, mình đang yếu gì, mạnh gì, cần phát triển đẩy
mạnh gì, hạn chế gì?
Trong mỗi cá nhân ta cũng vậy, nếu ta” biết mình là ai” thì ta sẽ đưa ra được
nhưng mục tiêu phù hợp, phù hợp với khả năng, năng lực, sở thích, mong muốn,
phù hợp với điều kiện sẵn có.
Ngành dược khi đưa ra những chính sách, chiến lược, mục tiêu phát triển phù hợp
thì đã nắm giữ được tới 50% thắng lợi.
Nói tóm lại trong phần ảnh hưởng của môi trường đến sự phát triển của ngành
Dược: có hai mơi trường cụ thể: mơi trường vĩ mơ, mơi trường ngành.
Mỗi mơi trường lại có những ảnh hưởng nhất định. Mơi trường nào cũng có những
ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của ngành dược. Do đó, trong q trình muốn đưa
ngành Dược phát triển địi hỏi các nhà lãnh đạo cần phải chú ý nhiều đến tình hình
thực trạng, đặc điểm của hai mơi trường nêu trên.
2.2 Thành tựu
2.2.1 Thị trường ngành dược liên tục tăng
Tiêu chuẩn sống của người Việt Nam ngày càng tăng đã làm tăng nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ. Cụ thể, nhu cầu tiêu dùng thuốc trên đầu người tăng từ 6USD
năm 2001 lên 16,45 USD năm 2008 và dự kiến đạt 25USD vào năm 2015. Tổng
nhu cầu tiêu dùng thuốc năm 2008 đạt 1,426 tỷ USD, tanwg 25,4% so với mức
1,136 tỷ USD năm 2007. Ngành dược Việt Nam đạt mức tăng trưởng 2 con số,
trung bình 20-29%/năm trong giai đoạn 2003-2008.
2.2.2 Các công ty sản xuất trong nước không ngừng mở rộng.
Năm 2008, giá trị sản xuất thuốc trong nước tăng 19,1% so với năm 2007,
đạt 0,715 tỷ USD tương đương 50,2% tổng nhu cầu tiêu thụ. Theo quy định của Bộ
y tế, tất cả các nhà máy sản xuất thuốc đều phải đạt tiêu chuẩn WHO GMP trước
ngày 1/1/2010. Vì thế các nhà sản xuất dược phẩm trong nước đã liên tục đầu tư để
nâng cấp xây dựng nhà máy cũng như cơ sở sản xuất. Tới cuối năm 2008, có 89
nhà máy đã đạt tiêu chuẩn WHO GMP, bao gồm 67 nhà máy có vốn đầu tư trong
nước và 22 nhà máy có vốn đầu tư nước ngồi.
2.2.3 Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào ngành dược ngày càng tăng.
Trong năm 2008, có 68 cơng ty dược nước ngồi đăng ký hoạt động, nâng
tổng số cơng ty dược nước ngồi ở Việt Nam lên 438 cơng ty. Các nhà máy sản
xuất thuốc có vốn đầu tư nước ngoài đã đầu tư 40 dây chuyền sản xuất mới bên
cạnh 230 dây chuyền sản suất cũ .
Năng lực sản xuất của các nhà máy này chiếm khoảng 22% tổng năng lực sản xuất
thuốc trong nước. Các doanh nghiệp nước ngồi hoạt động trong ngành dược gồm
có: Ấn Độ (98 doanh nghiệp, tương đương 22,4%), Hàn Quốc (45 doanh nghiệp,
tương đương 10,3%), Trung Quốc (41 doanh nghiệp, tương đương 9,4%)...
2.2.4 Hệ thống phân phối - lợi thế của các cơng ty trong nước
Theo cam kết gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đang dần dần tự do hóa
ngành dược. Đặc biệt, các cơng ty có vốn đầu tư nước ngoài được phép nhập khẩu
thuốc trực tiếp từ ngày 1/1/2009. Tuy nhiên, họ chưa được phép phân phối thuốc
tại Việt Nam. Vì thế, hệ thống phân phối là một lợi thế của các công ty trong nước.
2.2.5 Kế hoạch đầy tham vọng thúc đẩy nguồn cung cấp trong nước
Theo lộ trình phát triển ngành dược của Cục Quản lý dược Việt Nam tới
năm 2015, nguồn cung dược phẩm ở Việt Nam đạt 40% trong năm 2007, 60%
trong năm 2010 và 80% vào năm 2015.
Như đã đề cập ở trên, nguồn cung trong nước hiện đạt 50,2% nhu cầu cả
nước (năm 2008). Ngoài ra, thu nhập đầu người tăng cho phép người dân tăng chi
tiêu vào dược phẩm. Với những thuận lợi từ kênh phân phối, hiểu biết sâu về thị
trường cũng như nhu cầu khách hàng nội địa, các nhà sản xuất thuốc trong nước sẽ
tiếp tục chiếm lĩnh thị trường.
2.3 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nganh Dược cũng có một số yếu
điểm cần được khắc phục.
Chưa có một hệ thống phân phối có tính ổn định và vững chắc đảm bảo sự
liên kết chặt chẽ giữa sản xuất với thương mại và người tiêu dùng.Các cửa
hàng bán thuốc đều nằm trong các quầy thuốc tư đi cùng với dịch vụ khám
chữa bệnh tư, bên cạnh đó thuốc được cung cấp phần lớn ở các bệnh viện.
Do vậy hệ thống phân phối thuốc chưa có một quy hoạch nhất định làm cho
việc quản lý kinh doanh thuốc của nhà nước cũng gặp tương đối nhiều khó
khăn. hệ thống phân phối trong nước cịn yếu kém, chưa được tổ chức căn
cơ nên dễ bị tổn thương, xáo trộn khi có những biến động trên thị trường thế
giới. Vai trò tổ chức và định hướng phát triển thị trường của các doanh
nghiệp nhà nước chưa rõ, chưa tạo được chỗ dựa để từ đó phát triển mạnh
mẽ thị trường nội địa, góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, chủ
động hội nhập và mở cửa nền kinh tế, nhất là mở cửa lĩnh vực phân phối
hàng hoá sắp tới.
Giá thuốc còn chưa ổn định, lên xuống bất thường là một trong những
nguyên nhân làm cho chỉ số giá tăng cao.
Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, phân tán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triể
theo hướng văn minh, hiện đại. Nước ta còn thiếu các tổng kho lớn để tồn
trữ hàng hoá phục vụ bán bn và xuất khẩu, mơ hình siêu thị, trung tâm
chun cung cấp dược phẩm vẫn chưa xuất hiện nhiều, mà chủ yếu là nằm
rải rác ở các phòng khám chữa bệnh tư nhân.
Mặt khác, hoạt động quản lý thị trường còn yếu kém, nhiều bất cập, tỷ trọng
hàng lậu, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường khá cao gây ảnh
hưởng xấu đến tính cạnh tranh trên thị trưởng.
Sự phát triển của ngành Dược còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài.
Bước vào thời kỳ hội nhập, Dược phẩm còn chưa đủ tự tin, khả năng cạnh
tranh còn chưa cao.
Vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người bệnh: thiếu thuốc, thiếu bệnh
viện. Theo thống kê, có 18 bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Trung
ương và 27 sở y tế đã báo cáo nguy co thiếu 1.247 mặt hàng thuốc và 263
mặt hàng hoá chất xét nghiệm và vật tư tiêu hao.
Các doanh nghiệp mới chỉ cạnh tranh bằng giá hầu như chưa cạnh tranh
bằng thương hiệu.
Chưa có biện pháp hiệu quả khuyến khích người tiêu dùng dùng thuốc nội.
2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trên
- Do điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, việc xây dựng được một
hệ thống phân phối thuốc một cách có quy mơ. Ngồi ngun nhân khách quan
trên, cịn có cả nguyên chủ quan, mà trách nhiệm thuộc về nhà nước. Nhà nước
chưa có một phương hướng, chính sách hiệu quả để xây dựng được một hệ thống
phân phối hợp lý.
- Giá thuốc chưa ổn định vì nhiều lý do:
+ Thị trường thuốc của nước ta bị động. Cụ thể: dược phẩm nước ta nhập
khẩu tới 60%, nguyên dược liệu để sản xuất thuốc tới 90% nhập từ nước ngoài. Do
đó giá thuốc khó có thể ổn định được khi thuốc trên thế giới biến động. Tóm lại,
biến động của thị trường thuốc trong nước phụ thuộc vào biến động của thị trường
tân dược thế giới.
+ Do việc áp đặt một tỷ lệ lợi nhuận nhất định của ngành dược đối với các
doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm.
- Vẫn còn nhiều bất cập: hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Một
trong những ngun nhân chính đó là do hoạt động quản lý thị trường của nước ta
đặc biệt trong lĩnh vực dược phẩm còn kém: kém về chất lượng, số lượng, trình độ
chun mơn cũng như thiếu về kinh nghiệm.
- Hầu hết các doanh nghiệp chưa có cái nhìn chính xác về sức mạnh cạnh
tranh của Thương hiệu. Các doanh nghiệp đều nghĩ rằng để cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác là giảm giá, bởi giá ảnh hưởng trực tiếp đến cầu người tiêu
dùng. Nhưng đó chỉ là một trong những nhân tố ảnh hưởng. Trong thời kỳ hội
nhập, kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng cao. Do
vậy vấn đề người tiêu dùng quan tâm nhiều hiện nay là chất lượng của sản phẩm.
Thương hiệu tạo nên niềm tin cho người tiêu dùng. Để tạo nên thương hiệu thì
trước hết doanh nghiệp phải khẳng định chất lượng của sản phẩm mình cung cấp.
- Khi số dân ngày càng tăng thì nhu cầu khám chữa bệnh cũng tăng theo đó.
Ngồi ra nếu trước kia khi thu nhập của người thấp thì họ chỉ có nhu cầu đi bệnh
viện, khám chữa bệnh ngày nay khi đời sống họ nâng cao, nhu cầu nâng cao sức
khoẻ, tăng giá trị cuộc sống khi đó nhu cầu khám chữa bệnh, khám theo định kỳ,
nhu cầu về các loại thuốc chống lão hố, làm đẹp, phịng ngừa các loại
bệnh…….Do vậy để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đó địi hỏi ngành Dược cũng
phải có những bước phát triển nhất định.
- người dân nước ta thường xính đồ ngoại, ln có tư tưởng thuốc ngoại tốt
hơn. Một trong những ngun nhân chính đó chính là do đơn thuốc của các bác sĩ.
Hầu hết trong các đơn thuốc các bác sĩ thường thiên về các loại thuốc ngoại. Một
nguyên nhân cơ bản vì các DN trong nước chỉ mới sản xuất đa phần là những loại
thuốc thơng thường, cịn những loại thuốc biệt dược hay thuốc đặc trị thì vẫn chưa
có nhiều.
- Vì dược phẩm trong nước cịn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới, đây
là một khó khăn trong cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài khi nước ta
bước vào hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Phương hướng phát triển
3.1 chính sách và giải pháp
3.1.1 Để phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế mũi nhọn theo hướng
CNH – HĐH.
Cần xác định định hướng đầu tư trong lĩnh vực này theo các bước cụ thể như sau:
+ Chính phủ nên tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư
vào lĩnh vực công nghiệp dược trong giai đoạn trước mắt với ưu đãi là hỗ trợ lãi
suất ưu đãi vốn vay đầu tư cho tất cả các dự án đầu tư nhà máy sản xuất dược
phẩm thay vì mới chỉ ưu đãi cho các dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh
Betalactam, dịch truyền và vaccine. Về lâu dài, Nhà nước nên có chính sách
khuyến khích phát triển cơng nghiệp hóa dược để chủ động nguồn nguyên liệu cho
sản xuất dược phẩm.
+ Bộ Y tế hạn chế nhập khẩu những mặt hàng thuốc có mà các doanh nghiệp
trong nước đã sản xuất được và có chất lượng, đồng thời chỉ đạo các bệnh viện ưu
tiên sử dụng thuốc trong nước có chất lượng được sản xuất trên các dây chuyền
GMP.
3.1.2 Các giải pháp và chính sách chủ yếu:
a) Giải pháp về quy hoạch, đổi mới công nghệ và nghiên cứu khoa học:
- Quy hoạch công nghiệp Dược theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Nâng cao năng lực sản xuất thuốc về quy mô và chất lượng,
đầu tư các dây chuyền công nghệ cao theo hướng đi tắt đón đầu. Quy hoạch và
hiện đại hố hệ thống phân phối thuốc bao gồm xuất nhập khấu, bán buôn và bán
lẻ. Phát triển mạng lưới bán lẻ, chú trọng đến vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.
- Đầu tư có trọng điểm các cơ sở sản xuất hoá chất và nguyên liệu làm
thuốc. Ưu tiên đầu tư sản xuất thuốc thiết yếu, thuốc có thế mạnh xuất khẩu, thuốc
từ dược liệu và thuốc mang tên gốc thay thế thuốc nhập khẩu; nghiên cứu sản xuất
các dạng thuốc bào chế cho trẻ em và người già. Chú trọng đầu tư phát triển dược
liệu.
- Phát triển công tác nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế và cơng
nghệ sinh học, về dược liệu, phân tích kiểm nghiệm thuốc để phục vụ sản xuất các
thuốc mới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, điều
hành sản xuất, cung ứng và sử dụng thuốc...
- Kết hợp chặt chẽ nguồn lực về con người và trang thiết bị của ngành dược
với nguồn lực của các Bộ, ngành, các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu khoa
học khác để nghiên cứu về thuốc và nguyên liệu làm thuốc, gắn quá trình nghiên
cứu với thực tiễn sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm.
b) Giải pháp về tổ chức và phát triển nguồn nhân lực:
- Củng cố và tăng cường hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về dược: Kiện
toàn Cục Quản lý Dược Việt Nam; tổ chức lại và tăng cường năng lực thanh tra
chuyên ngành dược; hoàn thiện tổ chức các phòng Quản lý dược của các Sở Y tế,
quy hoạch lại hệ thống sản xuất thuốc.
- Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực dược: tăng cường đào tạo và đào tạo lại
các loại hình cán bộ dược. Phát triển đào tạo sau đại học. Phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo nguồn cán bộ nghiên cứu có trình độ cao. Thành lập mới một số
khoa dược ở các Trường Đại học Y để đào tạo dược sĩ đại học cho các khu vực khó
khăn.
- Đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực Dược, thực hiện cử tuyển và
đào tạo theo địa chỉ để khắc phục sự mất cân đối nguồn nhân lực dược giữa các
vùng, đặc biệt chú ý bảo đảm đủ cán bộ dược cho miền núi, vùng sâu, vùng xa,
tuyến huyện và tuyến xã.
c) Giải pháp về giám sát chất lượng thuốc:
- Hiện đại hoá hệ thống bảo đảm chất lượng thuốc.
- Tổ chức lại hệ thống kiểm tra nhà nước về chất lượng thuốc. Nâng cao
năng lực các phịng kiểm nghiệm thuốc để có thể kiểm nghiệm dược phẩm lưu
thông trên thị trường.
- Tạo điều kiện và khuyến khích thành lập các cơ sở dịch vụ kiểm nghiệm
hiện đại ngoài hệ thống kiểm nghiệm nhà nước.
d) Các giải pháp về xây dựng cơ chế chính sách:
- Hồn thiện hệ thống luật pháp về quản lý dược. Xây dựng Luật Dược. Sửa
đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về dược, hệ thống
quy chế, các thường quy kỹ thuật và hệ thống tiêu chuẩn về dược. Chuẩn hoá các
hoạt động quản lý, sản xuất và cung ứng thuốc, tiến tới đạt các tiêu chuẩn quốc tế.
- Xây đựng chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu
phát triển và đổi mới công nghệ, sản xuất nguyên liệu làm thuốc, sản xuất sản
phẩm dược xuất khẩu.
- Xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư nước ngồi vào ngành dược,
trong đó ưu tiên các dự án sản xuất nguyên 1iệu làm thuốc nhất là đối với các dự
án sử dụng công nghệ cao, cơng nghệ sinh học. Có chính sách thích hợp về đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực phân phối thuốc.
- Đa dạng hố các loại hình kinh doanh dược, đẩy nhanh q trình cổ phần
hố. Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực nghiên cứu để tạo ra sản
phẩm mới.
- Tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới, với Tổ chức Y
tế Thế giới và các tổ chức quốc tế khác. Thực hiện lộ trình hội nhập kính tế quốc tế
phù hợp với những cam kết của nước ta trong quan hệ song phương và đa phương,
từng bước hoà hợp quy chế về dược với khu vực và thế giới.
- Chỉ đạo và vận động sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả là công tác
trọng tâm và thường xuyên của ngành y tế. Hạn chế và từng bước đẩy lùi tình trạng
lạm dụng thuốc, đặc biệt là thuốc kháng sinh, corticoid, vitamin, biệt dược...
Khuyến khích sử dụng thuốc mang tên gốc (generic), thuốc sản xuất trong nước,
thuốc y học cổ truyền.
đ) Bảo đảm tài chính:
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước, các nguồn vốn hợp tác song phương và đa phương của các tổ chức phi chính
phủ, vốn đầu tư nước ngồi, vốn của các doanh nghiệp trong nước và của cộng
đồng.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung cho nhu cầu nghiên cứu khoa học
công nghệ, cho đào tạo nguồn nhân lực, phát triển tiềm năng dược liệu và công
nghiệp nguyên liệu làm thuốc, đầu tư cho các doanh nghiệp cơng ích và nâng cao
năng lực của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan kiểm nghiệm.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào khu vực sản xuất dược phẩm,
khuyến khích đầu tư những dây chuyền sản xuất có cơng nghệ hiện đại, ưu tiên cho
sản xuất nguyên liệu làm thuốc.
- Nhu cầu về đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh dược phẩm của các
doanh nghiệp được huy động từ nguồn vốn vay, vốn tự có, cổ phần hố.
Căn cứ vào kế hoạch thực hiện Chiến lược, Bộ Y tế xây dựng dự toán gửi Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, cân đối vào ngân sách hàng năm báo cáo
Chính phủ để trình Quốc hội phê duyệt.
e) Thời gian thực hiện Chiến lược:
Từ năm 2002 đến năm 2010, được chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ năm 2002 đến năm 2005;
- Giai đoạn 2: từ năm 2006 đến năm 2010.
Căn cứ vào tình hình thực tế, Bộ Y tế xây dựng kế hoạch, mục tiêu cụ thể của từng
giai đoạn, phù hợp với nội dung Chiến lược này.
3.2 cách thức tổ chức
Bản thân các doanh nghiệp dựa vào lợi thế của mình phát huy nội lực, tăng
cường hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp nước ngoài để đầu tư xây dựng các nhà
máy sản xuất dược phẩm theo tiêu chuẩn GMP, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát triển phương án sản phẩm. Đồng thời, cần đầu tư cho công tác nghiên
cứu, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật công nghệ sản xuất, chuyển nhượng bản quyền
sản xuất sản phẩm mới, đặc biệt là các mặt hàng thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc
có kỹ thuật cơng nghệ sản xuất cao để nâng cao năng lực, số lượng, chất lượng, sức
cạnh tranh và thương hiệu của dược phẩm trong nước.
Kết bài
Có thể nói trong cuộc chơi khơng cân sức này, mặc dù nước ta là nước chủ
nhà nhưng nếu q chủ quan thì việc thua cuộc là hồn tồn có thể. Bên cạnh
những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hoạt động thương mại, tạo
điều kiện cho thị trường trong nước phát triển thì các doanh nghiệp nước ta cịn có
một lợi thế vơ cùng quan trong nó có thể quyết định đến sự thành bại của doanh
nghiệp. Đó chính là sự ủng hộ của người dân. Để có thể phát triển một cách vững
vàng trên thị trường các doanh nghiệp không chỉ dựa vào bản thân mình mà cịn
phải biết tận dụng những gì mà bên ngồi đem lại cho mình. Ngành Dược cũng
khơng nằm ngồi quy luật đó. Phải biết khai thác một cách triệt để lợi thế, chọn lọc
và tổng hợp những lợi thế đó một cách khoa học như vậy mới có thể phát triển
thương mại nội địa, giành thể chủ động trên sân nhà.