nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 02/2007 57
ThS. Nguyễn Thị Thuỷ *
1. t vn
Trc li bo him núi chung v bo
him ti sn núi riờng ang l vn ỏng
ngi khụng ch ca ngnh bo him m cũn
l vn quan tõm ca ton xó hi. Cỏc
hnh vi trc li ny ó gõy thit hi ỏng k
cho cỏc doanh nghip bo him, nhng
ngi tham gia bo him v nh hng n
ton xó hi. Nu cỏc hnh vi trc li trong
bo him núi chung v bo him ti sn núi
riờng khụng c ngn chn kp thi s dn
n trt t k cng ca xó hi b phỏ v,
nh hng n s phỏt trin lnh mnh ca
th trng bo him núi chung v bo him
ti sn núi riờng. Bi vit ny xin nờu v
phõn tớch cỏc hnh vi trc li trong bo
him ti sn.
2. Khỏi nim trc li bo him ti sn
Kinh doanh bo him l hot ng ca
doanh nghip bo him nhm mc ớch sinh
li, theo ú doanh nghip bo him chp
nhn ri ro ca ngi c bo him trờn
c s bờn mua bo him úng phớ bo him
doanh nghip bo him tr tin bo him
cho ngi th hng hoc bi thng cho
ngi c bo him khi xy ra s kin bo
him.
(1)
Cũn bo him ti sn l loi hỡnh
bo him, theo ú, doanh nghip bo him
tin hnh thu phớ bo him ca bờn mua bo
him v cam kt bi thng cho bờn c
bo him khi ti sn mua bo him gp ri
ro trong phm vi bo him dn n tn tht.
Vi khỏi nim trờn, hot ng kinh
doanh bo him c thc hin trờn c s
doanh nghip bo him chp nhn ri ro ca
ngi c bo him i li h c
quyn thu nhng khon phớ nht nh t
ngi mua bo him. Khi doanh nghip bo
him thu phớ ca bờn mua bo him cng
ng ngha vi vic doanh nghip bo him
s phi gỏnh chu mt mc trỏch nhim i
vi ngi c bo him tng ng mc
phớ bo him ó thu. õy l yu t chng
minh quan h kinh doanh bo him l quan
h xó hi mang tớnh cht song v, quyn li
bờn ny cng chớnh l ngha v ca bờn kia
v ngc li. thit lp nờn quan h mang
tớnh hp tỏc, tng tr ny, bờn mua bo
him v doanh nghip bo him phi tuõn
th cam kt khụng c c ý thc hin
nhng hnh vi cú th gõy thit hi cho phớa
i tỏc. Nh vy, hnh vi la di nhm gõy
thit hi cho phớa bờn kia t c
nhng quyn li ti chớnh nht nh trong
quan h bo him cú th b coi l vic kim
li bt hp phỏp.
Theo quy nh ti Thụng t s
31/2004/TT-BTC ca B ti chớnh hng dn
thc hin Ngh nh s 118/N/2004/CP
*
Gi
ng
vi
ờ
n Khoa lu
t
th
ng m
i
Trng i hc Lut thnh ph H Chớ Minh
nghiªn cøu - trao ®æi
58 t¹p chÝ luËt häc sè 02/
2007
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa
dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất
chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường
bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết
khiếu nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến trục
lợi bảo hiểm là phải nói đến hành vi của tổ
chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý
nhằm thu lợi bất chính. Tổ chức, cá nhân
được đề cập trong khái niệm trục lợi bảo
hiểm trên đây có thể là bên mua bảo hiểm,
bên được bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo
hiểm, thậm chí có thể là hành vi gian lận
trong bảo hiểm của đại lí bảo hiểm và
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Cho dù là
tổ chức, cá nhân nào đi chăng nữa nhưng
muốn thực hiện được hành vi trục lợi bảo
hiểm thì các chủ thể này cũng phải tham gia
vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định:
Trục lợi bảo hiểm là hành vi kiếm lời bất
hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan
hệ kinh doanh bảo hiểm.
Còn trục lợi bảo hiểm tài sản là việc các
bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản
nhằm thực hiện các hành vi lừa dối để được
hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra mình
không được hưởng hoặc hưởng lợi lớn hơn
quyền lợi tài chính mà mình được hưởng.
Với khái niệm trên đây, hành vi trục lợi
bảo hiểm có thể có từ những chủ thể tham
gia vào quan hệ bảo hiểm. Tuy nhiên, bài
viết này chỉ đi sâu phân tích các hành vi
trục lợi từ phía người mua bảo hiểm (người
được bảo hiểm).
Các dấu hiệu để nhận dạng một hành vi
trục lợi bảo hiểm nói chung và trục lợi bảo
hiểm tài sản nói riêng là:
- Có hành vi lừa dối. Hành vi lừa dối là hành
vi của một chủ thể đưa ra những thông tin hoặc
bằng chứng để người khác tin rằng những
thông tin, bằng chứng này là đúng sự thật.
- Mục đích của các chủ thể khi đưa ra
các thông tin, bằng chứng để được hưởng
một quyền lợi mà lẽ ra mình không được
hưởng hoặc được hưởng lợi lớn hơn quyền
lợi tài chính mà mình được hưởng.
- Sự hưởng lợi này đã làm ảnh hưởng
đến quyền lợi tài chính của các chủ thể khác.
3. Các hành vi trục lợi trong bảo hiểm
tài sản
a. Tài sản đã tổn thất mới mua bảo hiểm
Một trong những nguyên tắc của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm
là doanh nghiệp
bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho những rủi
ro khách quan và mang tính ngẫu nhiên xảy
ra đối với bên mua bảo hiểm. Tham gia vào
hoạt động bảo hiểm thương mại, mục đích
của bên mua bảo hiểm là nhằm chuyển giao
rủi ro về mặt tài chính từ mình sang doanh
nghiệp bảo hiểm, trên cơ sở đó, tránh tổn
thất xảy ra đối với họ khi đối tượng bảo
hiểm gặp rủi ro. Bảo hiểm tài sản là hoạt
động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận
thông qua việc các doanh nghiệp bảo hiểm
tạo lập quỹ bảo hiểm từ phí bảo hiểm và sử
dụng để chi trả cho những trường hợp thuộc
trách nhiệm bảo hiểm. Do vậy, tại thời điểm
giao kết hợp đồng, rủi ro đối với tài sản bảo
nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 02/2007 59
him phi cha xy ra.
xỏc nh s kin bo him lm phỏt
sinh trỏch nhim ca doanh nghip bo
him trong quan h bo him ti sn phi
cn c vo 2 yu t:
Th nht, ti thi im giao kt hp
ng bo him, ri ro c bo him phi
cha phỏt sinh. Nu ti thi im giao kt
hp ng bo him, ri ro c bo him
ang xy ra thỡ bờn mua bo him phi
khụng bit c v vic ú.
Th hai, ti sn mua bo him vn cũn tn
ti ti thi im giao kt hp ng bo him.
S d, trong quan h bo him ti sn,
doanh nghip bo him phi lu ý n cỏc
yu t trờn khi tin hnh giao kt hp ng
bo him, bi vỡ, mt trong nhng c
trng ca bo him núi chung v bo him
ti sn núi riờng l yu t ri ro phi cha
xy ra ti thi im giao kt hp ng, nu
ri ro ó xy ra ri thỡ khụng cũn l i
tng ca hot ng kinh doanh bo him
na. Do vy, khụng mt doanh nghip bo
him no li chp nhn gỏnh chu tn tht
cho bờn mua bo him khi bit chc ri ro
ó xy ra i vi ti sn bo him. Ngoi ra,
trong bo him ti sn, c doanh
nghip bo him chp nhn bo him thỡ
bờn mua bo him phi cú li ớch bo him.
Li ớch ny phi l li ớch hp phỏp, tc l
phi c phỏp lut tha nhn. Tt c
nhng li ớch khụng hp phỏp c to ra
t nhng hnh vi b phỏp lut nghiờm cm
hoc nhng li ớch c to ra trỏi ngc
vi li ớch chung ca xó hi u khụng
c coi l li ớch bo him. Vớ d, mt
ngi mua bo him cho ti sn do mỡnh
trm cp m cú hay ch hng mua bo him
hng húa vn chuyn cho nhng mt hng
cm Nhng i tng trờn, nu c mua
bo him thỡ hp ng bo him s khụng
cú giỏ tr phỏp lớ k t thi im giao kt.
Li ớch trong bo him ti sn cũn phi
l li ớch xỏc nh c ti thi im giao
kt hp ng. Li ớch xỏc nh l li ớch
hin cú khụng phi do suy oỏn ch quan.
Mt ngi mua bo him cho ti sn m
khụng chng minh c li ớch mỡnh mua
bo him l li ớch cú tht thỡ doanh nghip
bo him khụng th cú c s cp bo
him, do vy khụng th hỡnh thnh nờn
quan h bo him ti sn c. Li ớch hp
phỏp v xỏc nh trong bo him ti sn cũn
c hiu l ti thi im giao kt hp
ng, quyn li ti chớnh ca bờn mua bo
him (bờn c bo him) vi ti sn vn
c duy trỡ, cú ngha l bờn mua bo him
vn cú quyn s hu hoc s dng (trong
trng hp c ch s hu ti sn y
quyn qun lớ ti sn) i vi ti sn ú.
Nh vy, nu ti thi im mua bo
him, i tng bo him (ti sn) khụng
cũn tn ti thỡ bờn mua bo him khụng cũn
li ớch i vi ti sn v nh vy thỡ khụng
th giao kt hp ng bo him. Tuy nhiờn,
trờn thc t, cú rt nhiu trng hp, ti sn
ó b tn tht, bờn mua bo him mi tin
hnh mua bo him cho ti sn, hnh vi ny
gi l trc li bt hp phỏp. S d chỳng ta
gi õy l hnh vi trc li bt hp phỏp vỡ
nghiªn cøu - trao ®æi
60 t¹p chÝ luËt häc sè 02/
2007
các lí do sau:
Thứ nhất, tại thời điểm giao kết hợp
đồng bảo hiểm, rủi ro đã xảy ra đối với tài
sản bảo hiểm, tức là không thể có cơ sở làm
phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh
nghiệp bảo hiểm nhưng bên mua bảo hiểm
vẫn yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh
chịu rủi ro cho mình. Điều đó có nghĩa là họ
cố tình gian lận để tạo lập nên một quan hệ
bảo hiểm nhằm hưởng lợi từ quan hệ này.
Thứ hai, khi tiến hành mua bảo hiểm
cho tài sản, bên mua bảo hiểm không có
quyền lợi đối với tài sản đó nữa, bởi vì tài
sản đó không còn tồn tại ở thời điểm giao
kết hợp đồng.
Như vậy, khi một người không còn
quyền lợi đối với tài sản mà yêu cầu một
người khác phải đứng ra cam kết chi trả
những tổn thất liên quan đến tài sản đó cho
mình là hành vi lừa đảo.
b. Trục lợi bảo hiểm thông qua việc
mua bảo hiểm trùng cho tài sản
Bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản
là trường hợp bên mua mua bảo hiểm cho
cùng một tài sản với cùng điều kiện và sự
kiện bảo hiểm tại hai hoặc nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm.
(2)
Theo quy định của Luật
kinh doanh bảo hiểm, trong trường hợp các
bên (bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm) giao kết hợp đồng bảo hiểm
trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi
doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách
nhiệm bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo
hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo
hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua
bảo hiểm đã giao kết. Như vậy, pháp luật
không cấm các bên tham gia quan hệ bảo
hiểm tài sản giao kết hợp đồng bảo hiểm
trùng, điều này là phù hợp với nguyên tắc
thực hiện quyền sở hữu được quy định
trong Bộ luật dân sự. Đó là chủ sở hữu được
toàn quyền định đoạt các vấn đề liên quan
đến tài sản.
(3)
Quy định bảo hiểm trùng trong Luật kinh
doanh bảo hiểm xuất phát từ nhu cầu bảo vệ
tài sản của chủ sở hữu. Cụ thể, do phí bảo
hiểm trong bảo hiểm tài sản chiếm tỉ lệ rất
nhỏ trên tổng giá trị tài sản nên chủ tài sản
có thể tuỳ vào khả năng tài chính của mình
mà có thể mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều
doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng
điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm dàn trải
rủi ro. Trong trường hợp một trong các
doanh nghiệp bảo hiểm mà chủ tài sản mua
bảo hiểm bị phá sản thì người được bảo hiểm
vẫn đảm bảo được quyền lợi tài chính của
mình tại các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại.
Tuy nhiên, pháp luật chỉ thừa nhận hành vi
mua bảo hiểm trùng đối với tài sản nhằm
mục đích dàn trải rủi ro chứ không cho phép
việc lợi dụng quy định này để kiếm lợi bất
hợp pháp. Cụ thể, nếu bên mua bảo hiểm
tiến hành mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều
doanh nghiệp bảo hiểm rồi hoàn tất hồ sơ để
yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm thực
hiện nghĩa vụ bồi thường theo cam kết thì
trách nhiệm bồi thường của các doanh
nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt
hại thực tế của tài sản.
(4)
Trong bảo hiểm
trùng, bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 02/2007 61
thông báo cho các doanh nghiệp bảo hiểm
cùng tiến hành bảo hiểm cho tài sản về việc
bảo hiểm trùng. Trường hợp, bên mua bảo
hiểm không thông báo cho các doanh nghiệp
bảo hiểm có liên quan về việc bên mua bảo
hiểm cùng lúc mua bảo hiểm cho tài sản tại
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau thì
có thể coi đây là hành vi lừa dối.
Như vậy, nếu trên thực tế, bên mua mua
bảo hiểm cho một tài sản tại nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng một
điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm để
được hưởng số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị
của tài sản là hành vi trục lợi bảo hiểm.
Khía cạnh trục lợi của hình thức này thể
hiện, người được bảo hiểm cố tình che giấu
doanh nghiệp bảo hiểm việc tài sản đã được
mua bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm
khác với cùng điều khoản và sự kiện bảo
hiểm trước khi giao kết hợp đồng với doanh
nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, để khẳng định
đây là hành vi trục lợi bảo hiểm còn căn cứ
vào mục đích của việc không cung cấp
thông tin này từ phía bên mua bảo hiểm là
nhằm được hưởng quyền lợi tài chính lớn
hơn giá trị tài sản mà mình đang sở hữu.
c. Khai tăng giá trị của tài sản bảo hiểm
Trong bảo hiểm tài sản chỉ có bên mua
bảo hiểm (chủ sở hữu tài sản) là biết rõ nhất
những yếu tố liên quan đến tài sản. Vì vậy,
đối với những tài sản để định giá được yêu
cầu trình độ kĩ thuật cao, chi phí định giá
lớn thì thông thường doanh nghiệp bảo
hiểm căn cứ vào giá trị của tài sản mà bên
mua bảo hiểm khai báo để cấp bảo hiểm.
Trong trường hợp này, khi có tổn thất xảy
ra doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ vào số
tiền bảo hiểm để bồi thường.
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp,
bên mua bảo hiểm đã lợi dụng quy định này
để khai tăng giá trị của tài sản bảo hiểm
nhằm mục đích trục lợi. Theo quy định của
Luật kinh doanh bảo hiểm,
(5)
trường hợp
bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm lớn
hơn giá thị trường của tài sản thì hợp đồng
bảo hiểm này được gọi là hợp đồng bảo
hiểm trên giá trị. Mặc dù khoản 1 Điều 42
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định doanh
nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài
sản trên giá trị nhưng tại khoản 2 Điều 42
lại đưa ra hướng xử lí “trong trường hợp
hợp đồng bảo hiểm trên giá trị được giao
kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho
bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng
tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá
giá thị trường của tài sản được bảo hiểm
sau khi trừ các chi phí hợp lí có liên quan”.
Chính quy định thiếu thống nhất giữa khoản
1 và khoản 2 Điều 42 Luật kinh doanh bảo
hiểm đã dẫn đến việc bên mua bảo hiểm
thường cố tình khai tăng giá trị tài sản khi
mua bảo hiểm để hưởng lợi bất hợp pháp.
Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do pháp luật
chưa có biện pháp chế tài trong trường hợp
bên mua bảo hiểm cố ý giao kết hợp đồng
bảo hiểm trên giá trị. Hơn nữa, việc thừa
nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm tài
sản trên giá trị do lỗi vô ý đã giúp cho bên
nghiªn cøu - trao ®æi
62 t¹p chÝ luËt häc sè 02/
2007
mua bảo hiểm có thể thực hiện được hành
vi lừa đảo của mình.
(6)
Cụ thể, trên thực tế,
để xác định được bên mua bảo hiểm giao
kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị do lỗi cố
ý hay vô ý là rất khó khăn, hiện tại pháp
luật kinh doanh bảo hiểm cũng chưa đưa ra
được những tiêu chí để phân biệt thế nào là
giao kết do lỗi cố ý và thế nào là giao kết do
vô ý. Vì vậy, kết luận về vấn đề này chỉ
mang tính chủ quan mà thôi.
Khía cạnh trục lợi của hành vi này thể
hiện: Bên mua bảo hiểm cố tình yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu thay
mình những tổn thất lớn hơn tổn thất thực tế
xảy ra. Phần chênh lệch mà bên mua bảo
hiểm được hưởng (giữa số tiền bảo hiểm mà
doanh nghiệp bảo hiểm chi trả với tổn thất
thực tế) là không có căn cứ hợp pháp hay
còn gọi là sự hưởng lợi bất hợp pháp.
d. Tự hủy hoại tài sản để nhận bảo hiểm
Cơ sở để hình thành quyền lợi bảo hiểm
trong bảo hiểm tài sản là quyền sở hữu của
bên mua bảo hiểm đối với tài sản. Như vậy,
về mặt pháp lí, trong thời gian mua bảo
hiểm, tài sản bảo hiểm vẫn thuộc quyền sở
hữu của bên mua bảo hiểm. Để bảo vệ
quyền sở hữu của chủ tài sản, Bộ luật dân
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định quyền sở hữu của cá
nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp
luật công nhận và bảo vệ, không ai có thể bị
hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền
sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu
có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kì người
nào có hành vi xâm phạm quyền sỡ hữu của
mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn
cứ pháp luật.
(7)
Như vậy, khi tạo ra tài sản
một cách hợp pháp, chủ sở hữu tài sản được
quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền sở
hữu của mình đối với tài sản.
Xét ở góc độ lí luận, không ai lại hủy
hoại chính tài sản mà mình đang có quyền
lợi về tài chính đối với nó, bởi vì, tổ chức,
cá nhân khi yêu cầu Nhà nước chứng nhận
quyền sở hữu của họ đối với tài sản thì bản
thân họ phải có nhu cầu bảo vệ những lợi
ích liên quan đến tài sản. Khi chủ sở hữu tài
sản tham gia vào quan hệ bảo hiểm nhằm
mục đích hoán chuyển rủi ro của mình đối
với tài sản sang cho doanh nghiệp bảo hiểm
thì không có lí do gì họ lại cố tình tạo ra rủi
ro đối với tài sản mà họ đang sở hữu.
Trên thực tế, có một nguyên tắc chung
của bảo hiểm thương mại liên quan đến vấn
đề này đó là nguyên tắc hợp tác vì mục tiêu
bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, bên mua
bảo hiểm phải có trách nhiệm bảo vệ tài sản
bảo hiểm như là chưa hề mua bảo hiểm.
Quán triệt nguyên tắc này, Luật kinh doanh
bảo hiểm đã quy định một trong những nghĩa
vụ của bên mua bảo hiểm là trong suốt quá
trình mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải
áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn
thất xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
(8)
Khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài
sản, mục đích mà bên mua bảo hiểm nhằm
đạt được là yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
bảo vệ quyền lợi vật chất của mình trước
những rủi ro bất ngờ. Như vậy, không có lí
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 02/2007 63
do gì một người vừa yêu cầu người khác
bảo vệ quyền lợi tài chính của mình đối với
tài sản lại cố tình hủy hoại chính tài sản mà
mình yêu cầu bảo vệ. Nếu một người sau
khi mua bảo hiểm cho tài sản rồi cố tình
hủy hoại tài sản đó thì chắc chắn không
ngoài mục đích để được hưởng một số tiền
lớn hơn giá trị của tài sản từ doanh nghiệp
bảo hiểm. Để thực hiện được mục đích trục
lợi bằng việc cố ý gây tổn thất đối với tài
sản bảo hiểm với mục đích được nhận tiền
bảo hiểm từ doanh nghiệp bảo hiểm, kẻ trục
lợi thường vạch ra kế hoạch từ trước, chuẩn
bị rất chu đáo. Đây là hình thức trục lợi
nghiêm trọng nhất và khó phát hiện nhất,
bởi vì, bên mua bảo hiểm khi lựa chọn hình
thức trục lợi kiểu này thường là những
người am hiểu về kĩ thuật nghiệp vụ bảo
hiểm.
(9)
Cách thức sử dụng để trục lợi trong
trường hợp này thường khá tinh vi, gây
nhiều khó khăn đối với việc điều tra của các
cơ quan liên quan khi tổn thất xảy ra. Ý đồ
trục lợi của hình thức này thường nảy sinh
trước khi người mua bảo hiểm tham gia bảo
hiểm, quy mô trục lợi lớn, số tiền gian lận,
trục lợi rất cao. Hình thức trục lợi này
thường được thực hiện bằng việc người chủ
tài sản sau khi mua bảo hiểm cho tài sản sẽ
tháo rời các bộ phận của tài sản (như máy
móc, thiết bị có giá trị) để thay thế vào đó
những bộ phận tài sản kém giá trị hơn, sau
đó sẽ cố ý phá hủy tài sản. Đương nhiên,
sau khi tài sản được phá hủy, bên mua bảo
hiểm sẽ hoàn tất các thủ tục để được bồi
thường bảo hiểm và dĩ nhiên kẻ trục lợi vẫn
nhận tiền bồi thường tương ứng với các bộ
phận, máy móc, thiết bị có giá trị. Chẳng
hạn, chủ tàu biển sau khi đã mua bảo hiểm
cho con tàu đã tháo dỡ hết trang thiết bị,
máy móc trên tàu rồi thay thế bằng các thiết
bị khác kém giá trị hơn, sau đó đánh chìm
con tàu để được hưởng số tiền bảo hiểm.
đ. Khai tăng số tiền tổn thất trong vụ tai nạn
Một trong những nguyên tắc cơ bản của
bảo hiểm tài sản là bồi thường. Có một từ
điển đã định nghĩa “bồi thường” là “sự bảo
vệ hoặc bảo đảm cho thiệt hại hoặc tổn thất
phát sinh từ trách nhiệm pháp lí”.
(10)
Chúng
ta có thể coi ý tưởng này như là một cơ chế
mà doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để cung
cấp khoản bồi thường tài chính với mục đích
khôi phục tình trạng tài chính ban đầu cho
người được bảo hiểm sau khi tổn thất xảy ra.
Về nguyên tắc, khi rủi ro được bảo hiểm
xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi
thường cho người được bảo hiểm những tổn
thất thực tế, có nghĩa là tài sản bảo hiểm bị
tổn thất bao nhiêu sẽ được bồi thường bấy
nhiêu. Tuy nhiên, nếu có tổn thất thì mới
bồi thường, không được bồi thường ít hơn
tổn thất (trừ trường hợp bên mua bảo hiểm
chỉ bảo hiểm một phần giá trị của tài sản).
Ngược lại, trong trường hợp dù rủi ro bảo
hiểm xảy ra nhưng tài sản bảo hiểm không
bị tổn thất thì không được bồi thường.
Quan hệ bảo hiểm tài sản là quan hệ
song vụ, do vậy, nếu bên được bảo hiểm
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo
hiểm lớn hơn giá trị tổn thất thực tế thì sẽ
ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp
nghiªn cøu - trao ®æi
64 t¹p chÝ luËt häc sè 02/
2007
bảo hiểm. Cụ thể, để đảm bảo nguyên tắc
bồi thường trong bảo hiểm tài sản thì bên
được bảo hiểm không được khai tăng tổn
thất đối với tài sản bảo hiểm, bởi vì, hành vi
này sẽ có thể mang lại hệ quả là họ được
hưởng một số tiền lớn hơn tổn thất thực tế.
Như vậy, nếu bên được bảo hiểm có hành vi
khai tăng tổn thất hoặc tài sản trên thực tế
không bị hư hỏng nhưng người này vẫn kê
khai vào hồ sơ đòi chi trả bảo hiểm sẽ bị coi
là hành vi trục lợi bất hợp pháp. Sở dĩ,
chúng ta khẳng định đây là hành vi trục lợi
bảo hiểm vì các lí do:
Thứ nhất, quan hệ bảo hiểm tài sản là
quan hệ bồi thường, do vậy, pháp luật chỉ
cho phép bên được bảo hiểm yêu cầu doanh
nghiệp trả lại cho mình những gì mà mình
đã mất. Việc bên được bảo hiểm khai tăng
tổn thất đối với tài sản bảo hiểm để được
hưởng một quyền lợi vật chất nhiều hơn
những gì mình đã mất là hành vi hưởng lợi
bất hợp pháp. Trong trường hợp này, bên
được bảo hiểm đã sử dụng thủ đoạn nhằm
chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp bảo
hiểm, bởi vì, hành vi này đã dẫn đến hệ quả
là doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả một
lượng tài chính lớn hơn nghĩa vụ mà lẽ ra
mình phải gánh chịu.
Thứ hai, cơ sở làm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
trong bảo hiểm tài sản là phải có rủi ro xảy
ra đối với tài sản bảo hiểm và hệ quả của rủi
ro này là tổn thất. Rủi ro và tổn thất là hai
điều kiện cần và đủ để xác định sự kiện bảo
hiểm và chỉ khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
mới phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm. Như vậy, nếu
trường hợp mặc dù có rủi ro xảy ra (trong
phạm vi bảo hiểm) nhưng không dẫn đến hệ
quả tổn thất thì cũng không phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm từ doanh nghiệp bảo hiểm.
e. Trục lợi bảo hiểm thông qua hành vi
lập hồ sơ, hiện trường giả
Trong bảo hiểm tài sản, để có cơ sở xác
định trách nhiệm bồi thường của doanh
nghiệp bảo hiểm phải dựa trên những bằng
chứng pháp lí nhất định đó là hồ sơ, chứng
từ có xác nhận của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Việc xác nhận của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm mục đích
chứng minh sự kiện bảo hiểm xảy ra là có
thực. Trong một số trường hợp, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể cử người đến hiện
trường, nơi xảy ra tai nạn nhằm mục đích
xác định trên thực tế, nguyên nhân dẫn đến
tổn thất, hậu quả của tổn thất… để tiến hành
bồi thường cho bên được bảo hiểm. Việc
yêu cầu bên mua bảo hiểm thống kê tổn thất
thực tế, chứng minh rủi ro xảy ra trong
phạm vi bảo hiểm… trên cơ sở xác nhận
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
việc làm cần thiết và bắt buộc trong quan hệ
bảo hiểm tài sản nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các bên. Đồng thời qua việc xác
nhận này, bên mua bảo hiểm muốn chứng
minh rằng họ hoàn toàn trung thực tuyệt đối
trong việc cung cấp các thông tin về tai nạn,
tổn thất cho doanh nghiệp bảo biểm. Tất
nhiên, để được hưởng quyền lợi bảo hiểm,
những thông tin này phải có thật trên thực
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 02/2007 65
tế, tức có rủi ro trong phạm vi bảo hiểm xảy
ra và hệ quả của nó là tổn thất.
Tuy nhiên, trên thực tế, bên mua bảo
hiểm đã lợi dụng quy định này trong quan
hệ bảo hiểm tài sản để hợp thực hóa những
tổn thất do mình tự đưa ra nhằm được chi
trả bảo hiểm. Cụ thể, bên mua bảo hiểm đã
sử dụng thủ đoạn đưa những tài sản cùng
loại đã bị hư hỏng từ nơi khác đến nơi xảy
ra tai nạn để chụp ảnh, lập biên bản, khám
nghiệm hiện trường nhằm chứng minh tài
sản bảo hiểm bị tổn thất, trong khi đó thật
sự là không có tổn thất xảy ra hoặc có tổn
thất nhưng ít hơn so với tài sản hư hỏng bị
thay thế. Hoặc tạo hiện trường giả giống
như dấu hiệu của việc mất cắp tài sản như
kho hàng bị phá khóa, bị cắt niêm phong
hoặc thay đổi biển số xe đã mua bảo hiểm
vào xe bị tai nạn nhưng chưa mua bảo hiểm
nhằm nhận được tiền bồi thường từ doanh
nghiệp bảo hiểm…
Các hành vi nêu trên được coi là trục lợi
bảo hiểm, bởi vì, mục đích của bên được
bảo hiểm khi thực hiện những hành vi này
là nhằm để được hưởng lợi những khoản tài
chính theo cam kết của doanh nghiệp bảo
hiểm nhưng trên thực tế thì không đủ điều
kiện để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện
cam kết này. Để hợp thức trách nhiệm bồi
thường của doanh nghiệp bảo hiểm, người
được bảo hiểm đã làm những thủ tục gian
dối nhằm mục đích tạo bằng chứng để
doanh nghiệp bảo hiểm tin rằng tổn thất xảy
ra là có thực và rủi ro dẫn đến tổn thất này
là trong phạm vi bảo hiểm.
Tóm lại, việc nhận diện các hành vi trục
lợi trong bảo hiểm tài sản có ý nghĩa rất
quan trọng, là cơ sở để giúp các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp
bảo hiểm nhanh chóng xác định được hành
vi vi phạm, có cơ chế để ngăn ngừa và xử lí
phù hợp, góp phần xây dựng và phát triển
lành mạnh thị trường bảo hiểm tài sản ở
Việt Nam./.
(1).Xem: Khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm.
(2).Xem: Khoản 2 Điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm.
(3).Xem: Điều 165 Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
(4).Xem: Khoản 2 Điều 44 Luật kinh doanh bảo hiểm.
(5).Xem: Điều 42 Luật kinh doanh bảo hiểm.
(6). Nếu viện dẫn các quy định của Luật kinh doanh
bảo hiểm và Điều 42 Luật kinh doanh bảo hiểm thì
việc bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
do lỗi cố ý, hợp đồng bảo hiểm này sẽ vô hiệu, trong
trường hợp này bên mua bảo hiểm được trả lại phí
bảo hiểm đã đóng, còn nếu xác định là do vô ý thì bên
mua bảo hiểm sẽ được bồi thường trong phạm vi giá
thị trường của tài sản. Điều đáng nói ở đây là nếu họ
cố tình giao kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị thì họ
không bị bất cứ một chế tài nào, do vậy, trong một số
trường hợp, người mua bảo hiểm đã đặt cược bằng
cách nếu bị phát hiện thì họ nhận lại phí bảo hiểm đã
đóng (vì hợp đồng bảo hiểm vô hiệu) còn nếu không
bị phát hiện thì họ có khả năng nhận được khoản tiền
bồi thường từ phía doanh nghiệp bảo hiểm lớn hơn
giá trị tài sản mà họ bị tổn thất.
(7).Xem: Khoản 1,2 Điều 169 Bộ luật dân sự năm
2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
(8).Xem: Khoản d Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm.
(9).Xem: “Gian lận, trục lợi trong bảo hiểm tài sản-
một vấn đề đáng quan ngại” của ThS. Trịnh Hữu
Hạnh - Hội bảo hiểm, đăng trên trang web
. Cập nhật ngày 8/9/2005.
(10).Xem: “Bảo hiểm - nguyên tắc và thực hành”
biên soạn Tiến sĩ Dvid Bland, Nxb. Tài chính, năm
1998, tr. 48.