Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.94 KB, 7 trang )

Số 12/2020 - Năm thứ mười lăm

BẢO ĐẢM NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Lê Thị Thúy Nga1
Tóm tắt: Ngun tắc suy đốn vơ tơi là một trong những ngun tắc quan trọng trong tố tụng
hình sự, được thể hiện trong pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia. Suy đốn vơ tội có
ý nghĩa quan trọng vê mặt khoa học cũng như thực tiễn với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho
toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Bài viết đề cập tới thực trạng và một số giải pháp bảo đảm
nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm tiếp cận từ hoạt động nghề nghiệp của
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư.
Từ khóa: Suy đốn vơ tội, tố tụng hình sự, tranh tụng, xét xử sơ thẩm.
Nhận bài: 21/9/2020; Hoàn thành biên tập: 25/9/2020; Duyệt đăng: 21/12/2020.
Abstract: Presumption of innocence principle is one of important principles in criminal
procedure which is shown in international law and laws in different countries. This principle has
important meaning in terms of scientific aspect as well as reality with foundation role and guideline
for all activities of criminal procedure. This article mentions reality and some solutions to ensure
presumption of innocence in first-instance hearing stage approached from professional activities of
judges, prosecutors and lawyers.
Keywords: Presumption of innocence, criminal procedure, litigation, first-instance hearing.
Date of receipt: 21/9/2020; Date of revision: 25/9/2020; Date of Approval: 21/12/2020.
Để xác định được sự thật của vụ án hình sự,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm
chứng minh theo quy định tại Điều 15 Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) làm rõ những vấn đề
buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 85
BLTTHS. Theo đó, trong q trình tiến hành tố
tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án. Người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải đưa ra chứng cứ,


tài liệu, đồ vật để chứng minh mình vơ tội. Người
bị buộc tội có quyền khai báo hoặc khơng khai
báo (quyền im lặng). Đây là những nội dung cốt
lõi của nguyên tắc suy đốn vơ tội, theo triết lý đã
tồn tại từ thời cổ xưa “ai đưa ra lời buộc tội thì
người đó phải chứng minh”2. Ở phạm vi bao quát
hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một
nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối

quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và
phạm vi khơng thể chế hóa. Đó là ngun tắc suy
đốn về tính hợp pháp của hành vi, nghĩa là hành
vi của cá nhân phải luôn luôn được coi là hợp
pháp khi chưa chứng minh được điều ngược lại3.
Suy đốn vơ tội được coi là ngun tắc
“vàng”, là “nét son” trong TTHS, một thành tựu
vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ
quyền con người và chứng minh trong tố tụng
hình sự. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong
Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc
tế về Quyền chinh trị, dân sự năm 1966 của Liên
hợp quốc. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước
cung đã ghi nhận suy đốn vơ tội là nguyên tắc
cơ bản trong luật tố tụng hình sự. Ở nước ta,
ngun tắc suy đốn vơ tội được “gọi tên” trong
BLTTHS năm 2015 trên cơ sở quy định tại
Khoản 1 Điều 131 Hiến pháp năm 2013 và kế

Tiến sỹ, Giảng viên Trưởng Khoa Đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp.
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đốn vơ tội: Nét son trong tố tụng, truy cập ngày 04/6/2020.

3
Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy đốn vơ tội ở Việt Nam, Tạp chí TAND điện tử truy cập ngày 20/5/2020.
1
2


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

thừa nội dung của Điều 9 BLTTHS năm 2003.
Thực ra, đây không phải là một nguyên tắc hồn
tồn mới của luật tố tụng hình sự Việt Nam, mà
được kế thừa nội dung và quy định chính xác,
chặt chẽ hơn trong BLTTHS năm 2015. Theo
Điều 13 BLTTHS năm 2015 thì:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn
cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội khơng có tội”.
Ngun tắc suy đốn vơ tội đã được pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận và áp dụng
trong nhiều năm qua, thể hiện tính dân chủ,
khách quan của tố tụng hình sự. Mặc dù vậy, việc
áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng
hình sự nói chung, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
nói riêng, cịn có những hạn chế nhất định địi

hỏi tiếp tục hồn thiện các quy định pháp luật tố
tụng hình sự cho phù hợp và nâng cao chất
lượng, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ
những người tiến hành tố tụng, người bào chữa,
bảo vệ cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự
trong vụ án.
1. Thực trạng áp dụng ngun tắc suy
đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Trong thời gian vừa qua, các cơ quan tiến
hành tố tụng đã có nhiều nỗ lực giải quyết các vụ
án theo đúng quy định pháp luật, tránh oan sai.
Theo đó, cơ quan điều tra đã tích cực chấn chinh
khắc phục tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều
tra; Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ hơn việc bắt
người, khởi tố, điều tra, bảo đảm truy tố đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật; Tòa án nhân dân
đã chú trọng hơn trong công tác xét xử, đảm bảo
hoạt động tranh tụng tại phiên tịa. Bên cạnh đó,
trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của luật sư cũng
4

ngày càng được nâng cao góp phần vào việc bảo
đảm thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội. Nhìn
chung, cơng tác xét xử các vụ án hình sự trong
những năm qua cơ bản đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh tụng tại
phiên tòa tiếp tục được chú trong theo hướng
thực chất, hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đã
đạt được, thực tiễn xét xử vụ án hình sự cũng cho

thấy cịn có những biểu hiện vi phạm ngun tắc
suy đốn vơ tội từ phía các chủ thể như thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư. Cụ thể là:
- Từ phía thẩm phán: Trong một số trường
hợp, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn tạm giam chưa đúng. Việc Tòa án thay
đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam không nhiều dù
một số trường hợp việc tạm giam trong giai đoạn
xét xử không thật sự cần thiết. Tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm, thẩm phán chủ tọa phiên tịa chưa
làm tốt thủ tục bắt đầu phiên tịa, vẫn có tư tưởng
coi đây là một thủ tục hành chính, mặc dù nó rất
quan trọng khi xác định tuổi, nghề nghiệp, nơi
cư trú, tiền án, tiền sự, ngày bắt, ngày tha, hỗn
phiên tịa hay xét xử… Khi xét hỏi, Hội đồng xét
xử đơi khi cịn hỏi mang tính chất “mớm cung”,
áp đặt, thể hiện định hướng buộc tội.
Ví dụ: Có phiên tòa chủ tọa phiên tòa hỏi bị
cáo nhiều lần theo hướng xác định bị cáo đã
phạm tội như: “Bị cáo có ân hận khơng?”,
“Chắc là bị cáo khơng thấy chứ xe số tự động
thấy thì đánh lái sang phải sẽ không đụng rồi”,
“Bằng lái bị cáo học ở đâu, bằng lái của bị cáo
học hồn tồn chứ khơng phải mua, đúng khơng?
Có sát hạch hồn tồn, đúng khơng?”, “Chắc
chắn bị cáo khơng nói ra nhưng tơi nghĩ là bị cáo
rất khổ tâm vì bị cáo cũng có con nhỏ, cũng có
gia đình mất đi một người cha rất đau khổ”4.
- Từ phía kiểm sát viên: Tại phiên tịa, vẫn
cịn trường hợp kiểm sát viên chỉ quan tâm đến

việc buộc tội, không chú trọng đúng mức đến
việc gỡ tội cũng như đến việc phát hiện kịp thời
những vi phạm của Toà án và những người tham
gia tố tụng khác để đề ra yêu cầu khắc phục hoặc

Thanh Tùng, Không được xét hỏi “mớm cung”, />

Số 12/2020 - Năm thứ mười lăm

tuy có phát hiện vi phạm nhưng do nể nang, ngại
va chạm, né tránh không yêu cầu khắc phục,
không kháng nghị, kiến nghị...5. Trong phần
tranh luận, cịn xảy ra tình trạng kiểm sát viên ít
chú ý đến phát biểu của người bào chữa, ý kiến
của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Trong một số vụ án, lời bào chữa của luật sư có
những nội dung mâu thuẫn với quan điểm truy
tố của Viện kiểm sát nhưng kiểm sát viên không
tranh luận làm rõ sự thật khách quan của vụ án,
chưa tập trung vào những vấn đề đang còn nhiều
ý kiến khác nhau để đưa ra chứng cứ, lập luận cụ
thể mà nêu chung chung và khẳng định là có đủ
căn cứ buộc tội như cáo trạng truy tố. Với chế độ
thủ trưởng của Viện kiểm sát, kiểm sát viên ngoài
việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn
phải tuân thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm
sát theo quy chế ngành kiểm sát. Mặc dù Điều
319 BLTTHS quy định “Kiểm sát viên rút quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên
tòa”; Điều 320 BLTTHS quy định “ Sau khi kết

thúc việc xét hỏi, kiểm sát viên trình bày luận tội,
nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội thì phải rút
tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị
cáo không phạm tội” nhưng trong thực tiễn xét
xử, việc kiểm sát viên rút một phần hoặc tồn bộ
quyết định truy tố rất ít khi xảy ra. Nếu thấy
không đủ căn cứ buộc tội, Kiểm sát viên sẽ căn
cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 280 BLTTHS
để đề nghị Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung
mặc dù đây là quy định về trả hồ sơ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử. Nếu Tòa án chấp nhận đề
nghị này, trả hồ sơ lại cho Viện kiểm sát thì
Viện kiểm sát sẽ đình chỉ vụ án nếu thấy không
đủ chứng cứ buộc tội thay vì theo đúng quy
định là Tịa án xét xử và ra bản án tuyên bố bị
cáo không phạm tội.
- Từ phía luật sư: Luật sư, với tư cách là
người bào chữa cho người bị buộc tội, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
tại Điều 73 BLTTHS. Tại phiên tòa, một số
trường hợp, luật sư chưa tập trung xét hỏi nhằm

làm rõ chứng cứ có lợi cho thân chủ, đặc biệt là
các chứng cứ chứng minh thân chủ khơng phạm
tội; cịn có biểu hiện “xi chiều” theo quan điểm
buộc tội của Viện kiểm sát, chỉ xét hỏi nhằm làm
rõ một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Những biểu hiện vi phạm ngun tắc suy
đốn vô tội như nêu trên do nhiều nguyên nhân
khác nhau, từ bất cập của các quy định pháp luật

đến ý thức, năng lực của những người tiến hành
tố tụng. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là từ
quan niệm, thói quen giải quyết vụ án trên cơ sở
“án tại hồ sơ”, chưa chú ý đến các chứng cứ, lời
khai tại phiên tòa, ý kiến của luật sư bào chưa.
Mặc dù BLTTHS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
nhằm đề cao tính dân chủ, minh bạch, khách
quan trong hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng nhưng nhiều người tiến hành tố tụng vẫn
cịn tư tưởng ln nhìn bị can, bị cáo là người
phạm tội. Bên cạnh đó, những sai sót từ giai đoạn
điều tra, việc điều tra không khách quan đã gây
khơng ít khó khăn cho hoạt động xét xử.
2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1. Hồn thiện quy định pháp luật tố tụng
hình sự
Để bảo đảm thực hiện ngun tắc suy đốn
vơ tội, cần hoàn thiện đồng bộ các quy định và
bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của tố tụng
hình sự. Việc sửa đổi các quy định của BLTTHS
nhằm bảo đảm ngun tắc suy đốn vơ tội trong
giai đoạn xét xử cần theo định hướng bảo đảm
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đặc biệt là
tạm giam vừa phù hợp vừa được kiểm soát chặt
chẽ; tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào
chữa tại phiên tòa. Một số gợi ý sửa đổi các quy
định của BLTTHS hiện hành theo định hướng
này như sau:

Thứ nhất, sửa đổi Điều 13 về nguyên tắc suy
đốn vơ tội cho chính xác. Đoạn 2 Điều 13
BLTTHS quy định “Khi không đủ và không thể
làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình

Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tịa
xét xử sơ thâm án hình sự tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học
5


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội là không có tội”. Điều luật
dùng chữ “và” trong đoạn 2 là khơng chính xác
vì khơng đủ căn cứ buộc tội phải đồng nghĩa với
“không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội”. Do đó,
chỉ cần khơng đủ căn cứ buộc tội thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội khơng có tội.
Thứ hai, sửa đổi quy định về thẩm quyền áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam trong
giai đoạn xét xử.
Theo quy định tại Điều 45 BLTTHS, Thẩm
phán được quyền ra các quyết định áp dụng biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ biện
pháp tạm giam. Việc quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thuộc thẩm

quyền của Chánh án, Phó Chánh án (điểm a,
Khoản 2 Điều 44 BLTTHS). Quy định này theo
chúng tôi không thật là phù hợp, hạn chế quyền
của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, thẩm phán xét thấy không cần
thiết phải thay đổi biện pháp ngăn chặn để áp
dụng biện pháp tạm giam thì cũng khơng thể giải
quyết kịp thời mà phải đề nghị Chánh án hoặc
Phó Chánh án quyết định. Để việc áp dụng biện
pháp tạm giam được kịp thời, đúng căn cứ, bảo
đảm phù hợp giữa người có điều kiện đánh giá về
các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam và người
có quyền quyết định áp dụng biện pháp này,
chúng tôi đề xuất quy định thẩm quyền của Thẩm
phán được phân cơng chủ tọa phiên tịa trong
việc áp dụng biện pháp tạm giam đồng thời với
việc tăng cường kiểm tra, giám sát phát hiện vi
phạm trong việc áp dụng biện pháp tạm giam của
chủ thể này.
Thứ ba, sửa đổi các quy định về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa.
Điều 73 BLTTHS quy định về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa. Theo đó, người
bào chữa có 14 quyền. Tuy nhiên, có một số quy
định chưa rõ ràng hoặc chưa đầy đủ ảnh hưởng
tới việc thực hiện quyền của luật sư. Cụ thể là:
- Điểm k, Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy

định người bào chữa có quyền “Đề nghị cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng

cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại
tài sản”. Như vậy, Luật sư có quyền đề nghị cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giám định,
định giá tài sản lần đầu không? Thực tế, các luật
sư bào chữa vẫn thực hiện quyền yêu cầu giám
định, định giá tài sản lần đầu nhưng trên cơ sở căn
cứ vào điểm g Khoản 1 Điều 73 BLTTHS “Đề
nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định
tại Bộ luật này….”, trong đó hoạt động tố tụng
bao gồm cả giám định, định giá lần đầu, giám
định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Theo chúng tôi, cần sửa đổi điểm k Khoản 1 Điều
73 BLTTHS theo hướng người bào chữa có
quyền “Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thu thập chứng cứ, giám định, giám định
bổ sung, giám định lại, định giá, định giá lại tài
sản”.
- Điểm h Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy
định luật sư có quyền “thu thập chứng cứ”. Đây
được coi là điểm mới của BLTTHS, nhằm bảo
đảm cho người bào chữa thực hiện tốt hơn việc
bảo chữa cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, gần
như chưa có những biện pháp bảo đảm cho người
bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ nên
sự phối hợp của những cơ quan, cá nhân có liên
quan chủ yếu xuất phát từ quan hệ cá nhân của
luật sư. Thực tế, khi luật sư đề nghị tiếp xúc, trao
đổi với bị hại, người làm chứng, người khác biết
về vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp tài liệu, đồ vật, rất nhiều trường hợp

người được đề nghị từ chối. Điều này có thể xuất
phát từ nhiều ngun nhân như khơng tin tưởng
luật sư, không muốn cung cấp, ngại mất thời
gian, ngại gặp rắc rối và quan trọng là khơng có
bất kỳ chế tài, ràng buộc nào đối với họ về trách
nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật cho luật
sư. Do đặc thù nghề nghiệp, luật sư đơn phương
thực hiện các hoạt động nghề nghiệp nhằm bảo
vệ quyền lợi cho thân chủ nên thường gặp khó
khăn, bất lợi hơn trong việc tiếp cận, phát hiện và
thu thập các chứng cứ liên quan để phục vụ cho
quá trình bào chữa. Về vấn đề này, PGS.TS. Trần
Văn Độ chia sẻ: “Nếu người làm chứng từ chối


Số 12/2020 - Năm thứ mười lăm

trả lời thì người bào chữa biết làm sao? Trong
khi các cơ quan tố tụng hỏi thì họ bắt buộc có
nghĩa vụ trả lời. Như vậy là chưa bình đẳng” và
“Nếu mở rộng quyền cho luật sư hỏi, đồng thời
quy định người làm chứng có nghĩa vụ phải trả
lời thì cũng là một kênh thuận lợi để đảm bảo
tính khách quan, tồn diện”6. Theo chúng tôi,
những cơ chế hỗ trợ cho luật sư thực hiện quyền
thu thập chứng cứ là cần thiết để quyền của luật
sư không chỉ là những “mỹ từ” trong luật.
Các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương
cũng cần nghiên cứu, ban hành văn bản quy định
cụ thể việc Luật sư tham gia tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án nói chung và trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng
nhằm bảo đảm để Luật sư thực hiện đúng, đủ và
thuận lợi các quy định của pháp luật hình sự, góp
phần bảo đảm cơng tác điều tra, truy tố xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ tư, sửa đổi các quy định nhằm tăng
cường hiệu quả tranh tụng trong xét xử.
Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
thể hiện sự thừa nhận quy luật tất yếu khách quan
là tính tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có lợi
ích đối lập nhau trong tố tụng hình sự: bên buộc
tội và bên bào chữa (gỡ tội). Nguyên tắc tranh
tụng có những nội dung cốt lõi như sự bình đẳng
giữa những người có thẩm quyền tố tụng và
những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra
chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để
làm rõ sự thật khách quan của vụ án; bảo đảm sự
độc lập của Tòa án với vai trò là chủ thể tạo điều
kiện cho những chủ thể tranh tụng là Kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham
gia tố tụng khác tranh tụng bình đẳng; bản án,
quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa… Bảo đảm tranh tụng

thực chất và hiệu quả cũng là bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đốn vơ tội. Theo đó, cần có
những tiền đề pháp lý nhất định đảm đảm nguyên
tắc tranh tụng như sự thừa nhận tư cách “các bên

tranh tụng” giữa các chủ thể thực hiện chức năng
buộc tội, chức năng bào chữa và đảm bảo sự bình
đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể này; đảm
bảo sự độc lập của Tòa án với tư cách là chủ thể
thực hiện chức năng xét xử, “mọi yếu tố làm ảnh
hưởng đến tính độc lập của Tịa án phải được loại
bỏ” và “khơng thể để lẫn lộn giữa chức năng
buộc tội với chức năng xét xử”7. Theo định
hướng này, cần sửa đổi các quy định BLTTHS
như:
- Sửa đổi quy định về phân định các chủ thể
theo chức năng tố tụng thành các nhóm chủ thể
buộc tội, các chủ thể bào chữa. Tòa án và các chủ
thể tố tụng khác thay vì theo vị thế tố tụng (người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng) như
hiện nay. Việc thay đổi cơ cấu của BLTTHS về chủ
thể tố tụng hình sự như nêu trên là tiền đề để quy
định về địa vị pháp lý của mỗi nhóm chủ thể tố
tụng hình sự phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc
tranh tụng.
- Sửa đổi nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và
xử lý vụ án hình sự (Điều 18) theo hướng bỏ quy
định về trách nhiệm khởi tố vụ án của Tịa án.
Mặc dù có ý kiến cho rằng việc quy định Tịa án
có quyền khởi tố vụ án khơng đồng nghĩa với
việc Tịa án thực hiện chức năng buộc tội vì “nếu
chỉ dừng ở việc khởi tố vụ án thì chức năng buộc
tội cũng chưa bắt đầu”8 song theo quan điểm của
chúng tôi khởi tố vụ án là hoạt động nhằm khởi
động tiến trình tố tụng hình sự, là trình tự cần

thiết về mặt tố tụng và gắn bó chặt chẽ với việc
thực hiện các hoạt động tiếp theo thuộc phạm vi
của chức năng buộc tội như khởi tố bị can, điều
tra vụ án. Quy định Tịa án có thẩm quyền khởi

6
Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ, truy cập ngày 4/5/2020.
7
Nguyễn Hoàng Thịnh (2018), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2018, bài viết trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày 2/10/2019.
8
Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.22.


HỌC VIỆN TƯ PHÁP

tố vụ án vừa là sự chồng lấn giữa chức năng buộc
tội và chức năng xét xử vừa dễ dẫn tới những
định kiến, thiếu khách quan, vi phạm ngun tắc
suy đốn vơ tội khi Tịa án xét xử chính vụ án mà
mình đã khởi tố trước đó. Vì vậy, cần bỏ quy
định về trách nhiệm và thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự của Tịa án theo quy định tại các Điều
18, 154 BLTTHS. Để tránh bỏ lọt tội phạm, chỉ
nên quy định trong quá trình xét xử nếu phát hiện
việc bỏ lọt tội phạm thì Tồ án kiến nghị để Viện
kiểm sát và cơ quan điều tra khởi tố vụ án.
- Sửa đổi nguyên tắc xác định sự thật vụ án
(Điều 15): Điều 15 BLTTHS quy định trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà chưa phân
biệt được trách nhiệm chứng minh của mỗi cơ
quan trên cơ sở chức năng tố tụng hình sự. Các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo
quy định của BLTTHS năm 2015 gồm cả chủ thể
thực hiện chức năng buộc tội (cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, Viện kiểm sát) và chủ thể thực
hiện chức năng xét xử (Tòa án). Việc quy định
trách nhiệm của tất cả các cơ quan này như nhau
trong chứng minh tội phạm là chưa hợp lý, có thể
ảnh hưởng tới tính khách quan của Tịa án khi ra
bản án và quyết của mình. Để bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng, cần sửa đổi nguyên tắc xác định
sự thật vụ án theo hướng phân biệt rõ ràng hơn
trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự
của các chủ thể trong tố tụng hình sự phù hợp với
chức năng tố tụng theo đó chủ thể buộc tội (Cơ
quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát)
chứng minh tội phạm phục vụ việc buộc tội, Tòa
án chứng minh sự thật vụ án làm cơ sở cho việc
đưa ra phán quyết về vụ án.
- Sửa đổi quy định về trường hợp Kiểm sát
viên rút quyết định truy tố tại phiên tòa: Theo
nguyên tắc chỉ khi có buộc tội mới có gỡ tội (bào
chữa) và xét xử; khi khơng cịn sự buộc tội thì
việc bào chữa và xét xử cũng khơng cịn. Nếu
Viện kiểm sát rút quyết định truy tố kể cả trước
và trong phiên tồ thì tồ án phải đình chỉ xét xử

đối với bị cáo hoặc đối với hành vi đó bởi lẽ khi

Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với một
bị cáo nghĩa là chấm dứt việc buộc tội đối với bị
cáo đó và khi chức năng buộc tội khơng cịn thì
sẽ khơng cịn cơ sở làm phát sinh tranh tụng giữa
các bên, khơng cịn cơ sở cho sự tồn tại của chức
năng bào chữa và chức năng xét xử. Vì vậy, Điều
325 BLTTHS năm 2015 cần được sửa đổi theo
hướng nếu Viện kiểm sát rút một phần quyết định
truy tố thì Tịa án chỉ xét xử phần quyết định truy
tố không bị rút; nếu Viện kiểm sát rút tồn bộ
quyết định truy tố thì Tịa án phải đình chỉ việc
xét xử. Ngồi ra, theo Điều 319 BLTTHS, sau
khi kêt thuc viêc xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút
một phần hoăc tồn bộ quyết định truy tố hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn. Các Điều 321, 325
BLTTHS cũng quy định việc Kiểm sát viên “kết
luận về tội nhẹ hơn”. Như vậy, tại phiên tòa Kiểm
sát viên có quyền kết luận về tội bằng với tội đã
ra quyết định truy tố không? Theo quy định tại
điểm c Khoản 1 Điều 266 BLTTHS thì kiểm sát
viên có quyền này, nhưng các quy định về hoạt
động của Kiểm sát viên tại phiên tịa lại chưa đề
cập tới. Do đó, cần sửa đổi các quy định tương
ứng cho phù hợp, thống nhất.
2.2. Các giải pháp khác
Những biểu hiện vi phạm ngun tắc suy
đốn vơ tội chủ yếu xuất phát từ tâm lý “án tại hồ
sơ” và định kiến buộc tội của những người tiến

hành tố tụng cũng như sự hạn chế về năng lực,
trình độ, ý thức nghề nghiệp của luật sư khi bào
chữa cho bị cáo. Do đó, việc nâng cao trình độ,
ý thức trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán, luật sư là giải pháp quan trọng.
Một số giải pháp cụ thể như sau:
- Quy định cụ thể và thực hiện nghiêm túc
chế độ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp
vụ cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Để
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho thẩm phán,
kiểm sát viên, luật sư đạt hiệu quả, có thể chú
trọng một số giải pháp như:
+ Đổi mới hoạt động đào tạo nghề nghiệp
cho thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư thơng qua
việc xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn
giáo trình, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên bảo đảm tính chuẩn mực, thực tế; chuẩn đầu


Số 12/2020 - Năm thứ mười lăm

ra của chương trình đáp ứng dược đòi hỏi của
thực tiễn nghề nghiệp;
+ Nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo
lại, bồi dưỡng thường xuyên thẩm phán, kiểm
sát viên, luật sư trong đó đặc biệt lưu ý việc xây
dựng các chương trình bồi dưỡng, tập huấn
theo chuyên đề. Nếu như đào tạo cơ bản ban
đầu tạo nền tảng về kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên,

luật sư thì bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên
là hoạt động nhằm giúp đội ngũ cán bộ này cập
nhật kiến thức, kinh nghiệm trong suốt quá
trình hành nghề để đáp ứng kịp thời những yêu
cầu mới của thực tiễn nghề nghiệp. Một số lớp
bồi dưỡng được tổ chức gần đây đã đạt được
chất lượng, hiệu quả tốt; những kinh nghiệm
trong xây dựng chương trình và tổ chức bồi
dưỡng cần được nhân rộng trong thời gian sắp
tới. Ví dụ: Trong năm 2017 và năm 2018, Học
viện Tư pháp, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội tổ chức 04 lớp bồi dưỡng về kỹ
năng tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội
với các chuyên đề như: Kỹ năng chuẩn bị tham
gia phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự của kiểm
sát viên; Kỹ năng sử dụng tư duy logic trong
hoạt động tranh tụng; Kỹ năng xét hỏi; Kỹ năng
xây dựng bản luận tội; Kỹ năng đối đáp tranh
luận của kiểm sát viên tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Tại các lớp bồi dưỡng này,
học viên không chỉ nghe giảng viên thuyết trình
mà trực tiếp nghiên cứu, xử lý các hồ sơ tình
huống là những vụ án có thật được biên tập phù
hợp với mục tiêu của mỗi bài học; trực tiếp
tham gia đóng vai kiểm sát viên và tranh tụng
với các thẩm phán, luật sư giàu kinh nghiệm
đang thực tế hành nghề. Phương pháp bồi
dưỡng này đã giúp học viên chủ động tích lũy

được các kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp
và có những trải nghiệm khi tự mình giải quyết
các tình huống thực tế trong quá trình tranh tụng
tại phiên tịa.
- Giảm bớt áp lực cơng việc đối với thẩm
phán, kiểm sát viên; bảo đảm cho thẩm phán,

kiểm sát viên có đủ thời gian vật chất để chuyên
tâm nghiên cứu, giải quyết vụ án; cần giải quyết
tình trạng thiếu thẩm phán, thiếu kiểm sát viên
hoặc quy định không phù hợp về biên chế thẩm
phán, kiểm sát viên; bảo đảm chế độ tiền lương,
các điều kiện, phương tiện làm việc để thẩm
phán, kiểm sát viên yên tâm công tác.
- Bản thân các thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sư phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình
độ nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp
luật hình sự, đúc rút kinh nghiệm trong thực tiễn
xét xử, rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng nói;
thường xuyên rèn luyện bản lĩnh, đạo đức, lương
tâm nghề nghiệp, nêu cao tinh thần bảo vệ công
lý, thượng tôn pháp luật, thận trọng và tỉ mỉ trong
giải quyết vụ án./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Suy đốn vơ
tội: Nét son trong tố tụng, truy cập ngày 4/6/2020.
2. Đinh Thế Hưng, Bảo đảm nguyên tắc suy
đốn vơ tội ở Việt Nam - Tạp chí TAND điện tử
truy cập ngày 20/5/2020.
3. Tranh cãi việc luật sư thu thập chứng cứ,

truy cập ngày 4/5/2020.
4. Thanh Tùng, Khơng được xét hỏi “mớm
cung”, />5. Nguyễn Hồng Thịnh (2018), Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm tại Điều
26 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2018, bài viết
trên website tapchitoaan.vn, truy cập ngày
2/10/2019.
6. Trần Thị Hương (2018), Chất lượng tranh
tụng của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự
tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học.
7. Đặng Văn Phượng (2016), Chức năng
buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.



×