Nhiếp ảnh là một hoạt động sáng tạo, nó bị chi phối bởi quy luật
nội dung và hình thức
Mặc dầu kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong nhiếp ảnh, nhưng ngh
ệ
thuật nhiếp ảnh là m
ột sản phẩm đặc biệt của trí tuệ mang một nội dung
nhất định trong một hình thức phù hợp.
Nghệ thuật nhiếp ảnh là m
ột hoạt động sáng tạo nằm trong đội ngũ
nghệ thuật tạo hình, nên nó ch
ịu sự chi phối của những quy luật chung
xác định nên nội dung và hình th
ức của tác phẩm nghệ thuật. Trong
ảnh nghệ thuật cũng như trong các lo
ại văn học nghệ thuật khác. Hội
họa, điêu khác, đ
ồ họa…, quy luật chung đó mang lại những nét độc
đáo khác nhau, làm cho nội dung và hình th
ức của nhunữg nghệ thuật
khác. Thật vậy có nh
ững nghệ thuật rất gần nhau, đều thuộc lĩnh vực
nghệ thuật thị giác như nhiếp ảnh và hội họa: cả hai nghệ thuật này đ
ều
đưa các vật thể từ không gian ba chiều lên mặt phẳng hai chiều và c
ũng
đều chịu sự phi phối của những luật chung như luật phối cảnh, đư
ờng
chân trời, điểm vô cực.v.v…. Nhưng rõ ràng nội dung và hình th
ức của
hai loại nghệ thuật tạo hình này hoàn toàn khác nhau. Vì th
ế không thể
đưa tieu chuẩn của hội hoạ để đánh giá tác phẩm nhiếp ảnh, ngư
ợc lại
không thể mang tiêu chuẩn nghệ thuật nhiếp ảnh để phê bình tác ph
ẩm
tranh vẽ. Trong nhiều bài vi
ết, một số tác giả do không nhận thức đầy
đủ thường khen “bức ảnh đẹp như tranh”. Rõ ràng đây là một lời ch
ê
bai hơn là một lời khen. Chúng ta biết rằng hội họa càng ti
ến gần đến
nhiếp ảnh, thì không còn là hội hoạ nữa. Ngư
ợc lại nghệ thuật nhiếp
ảnh càng tiệm cận với hội hoạ thì không còn là nhi
ếp ảnh nữa. Bởi nó
đã đánh mất tính hiện thực, một trong những tính chất cơ b
ản nhất của
nhiếp ảnh. Mỗi loại hình nghệ thuật cần phải tìm cho mình m
ột con
đường đi mà vẫn mang đầy đủ đặc tính cơ bản của mình. Tất nhi
ên
trong quá trình phát triển có học tập, bổ sung cho nhau, để l
àm cho
công nghệ của mình ngày càng một phong phú cả về nội dung lẫn h
ình
thức.
Nội dung tác phẩm nghệ thuật không chỉ là đối tượng mô tả, hay là đ
ề
tài như nhiều nhà lý luận thường nói mà chính là lượng tư tư
ởng mang
chất thơ có trong tác phẩm đó. Còn hình thức của tác phẩm là s
ự thể
hiện nội dung thực tế qua nguyên liệu chính của loại hình ngh
ệ thuật
đó. Nói cách khác hình thức của tác phẩm nghệ thuật là h
ệ thống tín
hieụe khác nhau dùng để thu nhận, thể hiện và truyền đạt cho ngư
ời
xem (nếu là nghệ thuật tạo hình), người nghe, ngư
ời đọc (văn học)
lượng nội dung đáng tin cậy mà nó chứa đựng. Qua phân tích, ta c
àng
thấy rõ mỗi loại hình nghệ thuật đều có một hình thức mang chất th
ơ
riêng biệt. Nhiệm vụ của nhà nhiếp ảnh là phải xác định cho đư
ợc nội
dung của tác phẩm, để từ đó có hình thức thể hiện phù hợp.
Bất luận loại hình nghệ thuật nào, bao giờ nội dung đều được h
ình
thành bởi sự kết hợp cái khách quan với cái chủ quan (cái tư duy c
ủa
tác giả), tức là giữa cái nhận thức được với cái đã đánh giá, gi
ữa đức
tính mẫn cảm và vốn sống của nhà nghệ sĩ. Điều này không th
ể hiện
trong ảnh tư liệu, ảnh khoa học, ảnh dịch vụ… Nó chỉ thể hiện rất r
õ
trong ảnh nghệ thuật. Vì ảnh thời sự, tài li
ệu, khoa học, dịch vụ… cốt
làm sao cho cái khách quan (th
ế giới hiện thực), không bị cái chủ quan
*cái tôi của tác giả) chi phối.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của các loại hình ngh
ệ thuật
khác nhau là hoàn toàn khác nhau. Ch
ẳng hạn trong âm nhạc: nội dung
chủ quan được ưu tiên tuyệt đối. Ngư
ợc lại thế giới khách quan (khách
thể) không đư
ợc mô tả trực tiếp trong âm nhạc. Trong lĩnh vực văn
học, nội dung khách quan phát triển không ngừng qua nhiều thể lo
ại
như thơ, văn xuôi, truyện kể, tuỳ bút, tiểu thuyết.v.v… Nhưng toàn b
ộ
hiện thực khách quan không đư
ợc giới thiệu trực tiếp trong lĩnh vực
văn học mà chính nằm trong ngôn ngữ mà nhà văn s
ử dụng để mô tả
thế giới. Còn hội hoạ tái hiện thực không qua hình tượng nằm trên m
ặt
phẳng hai chiều, ai cũng có thể nhìn thấy. Nhưng hình tượng n
ày, có
những lúc tưởng rằng đây là sự ghi chép tuyệt đối trung thành v
ới các
dodói tượng khách quan. Nhưng thực ra các đối tư
ợng thực tế khách
quan đó, luôn bị chi phối bởi chủ quan của nhà h
ọa sĩ. Nói cách khác
nó bị chi phối bởi sự tưởng tượng, sự tư duy của anh ta, làm cho hi
ện
thực khách quan không còn như nguyên mẫu.
Đối với nhiếp ảnh nghệ thuật, trong nội dung hình tư
ợng bao giờ cái
khách quan cũng được đặt lên trên cái ch
ủ quan. Trong ảnh nghệ thuật
cái khách quan và cái chủ quan là một thể thống nhất.
Cũng như các ngành ngh
ệ thuật khác, trong ảnh nghệ thuật sự thống
nhất hai mặt của nội dung. Cái khách quan và cái chủ quan – là m
ột
việc làm bắt buộc và rất cần thiết. Nhưng trong nhi
ếp ảnh nghệ thuật
mối tương quan giữa đối tượng (hiện thực) và ý đ
ồ thể hiện của tác giả
khác với các loại hình nghệ thuật khác:
Trong âm nhạc, hiện thực khách quan được phản ánh đến mức dư
ờng
như đã bị cái chủ quan của nhạc sĩ thay thế hoàn toàn, ngư
ời nghe chỉ
còn nhận biết một cách mơ hồ cuộc sống con người. Ngư
ợc lại, trong
nhiếp ảnh sự bay bổng về nghệ thuật của nhà nhi
ếp ảnh bị giới hạn
trong pạhm vi mà đối tượng cho phép. Nghĩa là đối tư
ợng thể hiện có
bao chất thưo, thì nhà nhiếp ảnh chỉ có thể thể hiện bấy nhiêu chất thơ.
Khác với nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ… nhiếp ảnh không cần tưởng tư
ợng
xem nhân vật của mi nhf sẽ như thế nào, bối cảnh, môi trư
ờng sẽ ra
sao… Vẫn biết rằng những yếu tố này góp phần biểu hiện tư tư
ởng,
tình cảm, nội tâm c
ủa tác giả (ngoại trừ cảnh lắp ghép, xử lỹ phầm
m
ềm photoshop). Nói cách khác ý đồ biểu hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh,
nhà nghệ sĩ tìm ngay trong cu
ộc sống, trong hiện thựuc khách quan
những hiện tượng nào, những sự kiện nào, những khoảnh khắc n
ào
biểu hiện được tư tưởng, tình cảm và thái độ của họ đối với thế giới.
Cũng khác với họa sĩ, nhà văn, nh
ạc sĩ… nhiếp ảnh nẩy sinh ý đồ sáng
tác không phải vì yếu tố nội tại thuộc chủ quan của nhà nhiếp ảnh m
à
luôn luôn do những cái bên ngoài, thuộc khách quan tác đ
ộng. Ý đồ
sáng tác của nhà nhiếp ảnh không định trước, mà phụ thuộc vào đ
ối
tượng khi anh ta tìm thấy sự kiện, sự vật hấp dẫn đến mức độ nào, ch
ứ
không phụ thuộc hoàn toàn vào trạng thái, tâm hồn n
ào mà anh ta
muốn biểu hiện lúc đó. Nói cách khác nhiếp ảnh đi sáng tác trư
ớc hết
không phải do cảm xúc mà do tư tưởng. Ngư
ợc lại trong văn học, hội
hoạ, âm nhạc… , người nghệ sĩ sáng tác trước hết không phải do “t
ư
tưởng thúc bách” mà do cảm xúc.
Trong nhiếp ảnh nghệ thuật, nội dung khách quan đư
ợc biểu hiện ở giai
đoạn đầu, tức giai đoạn chụp. Giai đoạn hai, còn gọi là giai đoạn l
àm
hậu kỳ, tức là giai đoạn làm ra tấm ảnh. Ở thời điểm này có s
ự thay đổi
về chất. Như chúng ta điều biết tấm phim âm là ghi lại mối t
ương quan
giữa tư tưởng do chính nhà nghệ sĩa xây dựng nên, tức là kho
ảnh khắc
trong quá trình tồn tại của đối tượng mà tác giả đã phát hi
ện ra khi lựa
chọn bối cảnh, bố cục, đư
ờng nét, ánh sáng, phạm vi thể hiện… cho
tấm ảnh. Nhưng từ tấm phim làm ra tấm ảnh là nh
ằm mục đích nâng
cao m
ức tối đa sức biểu hiện nghệ thuật với sự hỗ trợ tối đa của các
biện pháp kỹ thuật, kỹ xảo (ngày nay s
ử dụng phần mềm photoshop),
để phù hợp với nội dung và khuyếch trương tính tích c
ực của nội dung
như cắt cúp, xóa bỏ những chi tiết không cần thiết, làm thay đ
ổi phần
sáng tối…
Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình sáng tác không những cơ c
ấu
bên trong của nội dung nghệ thuật được thay đổi mà cả t
ương quan
giữa nội dung và hình thức cũng được thay đổi theo. Nhưng đi
ều quan
trọng sự thay đổi đó không làm m
ất đi tính hiện thực khách quan. Điều
này x
ảy ra ngay trong lúc nảy sinh ý đồ xây dựng tấm ảnh nghệ thuật.
Tức là lúc một hiện tượng cuộc sống nào đó ăn khớp với sự h
ình dung
của nhà nhiếp ảnh và thôi thúc anh ta xây dựng tác phẩm về hiện tư
ợng
đó trong hình tượng nghệ thuật. Tức là nhà nghệ sĩ coi hiện tư
ợng đó
như hình th
ức có nội dung, một thứ có sức truyền cảm. Bởi trong hiện
tượng này của cuộc sống có ý nghĩa về tư tưởng và c
ảm xúc. Ý nghĩa
đó được khám phá ra qua cái vẻ bên ngoài của nó, tức là qua cái v
ỏ vật
chất của nó, mà nhà nghệ sĩ đã nhìn thấy. Điều này không có trong
ảnh
thời sự, tư liệu và khoa học, thư
ờng không có kết cấu nghệ thuật nhất
địn h, thì giá trị nhận thức thông tin sẽ được nhấn mạnh hơn nhiều v
à
nó sẽ trở thành ảnh thời sự (tài liệu, khoa học) nghệ thuật.
Trong ảnh nghệ thuật, tiêu chuẩn lựa chọn phương pháp bi
ểu hiện bao
gồm 2 mặt có liên quan chặt chẽ với nhau. Đó là đánh giá mức độ t
ư
tưởng (cảm xúc chất thơ có trong đối tượng mô tả) và đánh giá c
ấu trúc
nghệ thuật của đối tượng, mà cấu trúc nghệ thuật chính là phương ti
ện
chứa đựng và truyền đạt ý nghĩa tinh thần của đối tượng. Đó chính l
à
mối tương quan giữa nội dung và hình thức.
Mối tương quan giữa nội dung và hình thức được biểu hiện rõ qua s
ự
phân tích một số tác phẩm sau: “G
ặp lại con sau những năm tháng bị
Mỹ - nguỵ tù đầy” của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Lâm Hồng Long, là m
ột
thành cô ng trong việc biểu hiện tình cảm của hai mẹ con người tử t
ù,
chính là nhờ phương pháp th
ể hiện qua cấu trúc nghệ thuật của tấm
ảnh, từ những mảng sáng tối, mái tóc bạc phơ của bà mẹ, nói lên d
ự
đợi chờ mong con trở về bao đêm thức trắng… Trên nét m
ặt gầy guộc,
đôi bàn tay gân guốc đủ nói lên chế độ hà khắc, dã man của Mỹ - ng
ụy
đối với tù nhân.
Rõ ràng giá trị nghệ thuật của bức ảnh này không chỉ là
ở chỗ ghi lại
một cách giản đơn cuộc hội ngộ của hai mẹ con người tử tù, mà giá tr
ị
đích thực của nó là ở chỗ ghi lại được trạng thái, tâm lý của cả mẹ v
à
con “vui trong nước mắt”, chính là nhờ kết cấu nghệ thuật c
àng nhân
sâu tâm lý tình cảm của nhân v
ật. Nói một cách khác giá trị nghệ thuật
của tấm ảnh không chỉ là ghi lại đựơc tr
ạng thái, tâm lý của mỗi nhân
vật mà chính là ở chỗ mỗi loại tâm lý của từng nhân vật đã tìm đư
ợc
biểu hiện nghệ thuật mạnh mẽ, đầy đủ và chính xác.
Có một loại diễn đạt nội dung thông qua hình th
ức nghệ thuật phức tạp.
Sự phức tạp ở đây là v
ề kết cấu nghệ thuật, chứ không phải phức tạp về
quan điểm sáng tác. Trong nhiếp ảnh nghệ thuật, lối diễn đạt này gọi l
à
sự đối lập mang tính nghệ thuật. Loại ảnh nghệ thuật này thườn
g trong
ảnh có 2 đối tượng. Sự đối lập về vị trí của hai đối tư
ợng ấy mang ý
nghĩa nội dung, cũng như về tư tưởng và c
ảm xúc. Chính nhờ sự đối
lập có tính nghệ thuật mà tấm ảnh gây cho người xem ấn tư
ợng mạnh
như tác phẩm “O du kích nhỏ” của Phan Thoan, “K
éo xác máy bay
Mỹ” của Quang Văn, “Từ Thần sấm xuống xe trâu” của Văn Bảo.
Ngoài ra còn có một cách xây dựng hình th
ức nghệ thuật trong ảnh
nghệ thụât là cách b
ố cục có nhịp điệu. Đối với những tấm ảnh đối
tượng mô tả có nhiều bộ phận, có nhiều chi tiết có liên quan m
ật thiết
với nhau, liên kết với nhau một cách có nhịp điệu, tạo nên s
ự chặt chẽ
bên trong và sự hài hòa về cấu trúc bên ngoài.
Đối với nhiêp ảnh, lối bố cục có nhịp điệu mang tính độc đáo ri
êng,
không phải bản thân ảnh tạo ra được nhịp điệu. Nh
ịp điệu đó sẵn có
trong tựu nhiên. Vấn đề quan trọng là nhà nhiếp ảnh phát hiện ra đư
ợc
và đánh giá đư
ợc nhịp điệu đó. Chẳng hạn bức ảnh chụp những chú
chim sâu đậu rải rác trên những sợi dây thép, tạo ra như nh
ững nốt
nhạc, rất có nhịp điệu.
Ba phương pháp thể hịên trên không phải tách bạch nhau mà quy
ện
vào nhau, bổ sung cho nhau.
Tóm lại trong ảnh nghệ thuật sự thống nhất giữa nội dung và hình th
ức
chính là sự thống nhất giữa ý nghĩa tư tưởng – cảm xúc – chất thơ v
ới
kết cấu nghệ thuật của hình tượng.
Đối với ảnh nghệ thuật, sự thay đổi tương quan giữa nội dung v
à hình
thức trong suốt quá trình sáng tác. Cụ thể ở giai đoạn chụp, nhà nhi
ếp
ảnh có thể tăng cường phần nào sức biểu hiện nghệ thuật của đối tư
ợng
thông qua góc chụp, biến đổi ánh sáng, điểm nhìn… Đ
ến giai đoạn hậu
kỳ, cũng cho phép nhà nghệ sĩ nâng cao hơn nữa vai trò hình th
ức
thông qua cắt cúp, màu sắc tô đậm nhạt… Ở giai đoạn hai – giai đo
ạn
hậu kỳ - không thể coi là mục đích duy nhất, nhưng nó l
ại rất quan
trọng, giúp ta giải quyết trọn vẹn vấn đề tạo hình một cách hoàn ch
ỉnh
nhất, nhằm thổi bùng lên ở người xem sự rung động, cảm xúc và s
ự
liên tưởng.