Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thực trạng chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại viện sức khỏe tâm thần bệnh viện bạch mai năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.32 KB, 61 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THÀNH ĐẠT

THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CHĂM SĨC NGƯỜI BỆNH
TÂM THẦN PHÂN LIỆT TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN
BỆNH VIỆN BẠCH MAI

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2021


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THÀNH ĐẠT
THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN
PHÂN LIỆT TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN BỆNH VIỆN
BẠCH MAI

Chuyên ngành: Điều dưỡng tâm thần
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
TS.BSCKII: NGUYỄN VĂN DŨNG

NAM ĐỊNH - 2021


i



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học trình học tập và hồn thành chun đề tốt nghiệp
tơi nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, gia đình
và bạn bè
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau
đại học cùng các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã nhiệt
tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn đến ban Ban Lãnh đạo Viện và quý đồng
nghiệp Viện Sức Khỏe Tâm Thần đã giúp đỡ, chia sẻ cho tôi những kinh
nghiệm quý báu trong thời gian tôi học tập và làm chuyên đề.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sỹ - BSCKII Nguyễn Văn Dũng Viện
Sức Khỏe Tâm Thần đã giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tơi thực
hiện và hồn thành chun đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người bệnh, gia đình người bệnh đã
thơng cảm tạo điều kiện cho tơi được thăm khám tiếp xúc, lắng nghe và thực
hiện nghiêm túc những lời khuyên dành cho họ.
Tôi xin được cảm ơn các bạn trong lớp Chuyên khoa I, khóa 8 đã cùng
vai sát cánh với tơi để hồn thành tốt chuyên đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
HỌC VIÊN

NGUYỄN THỊ THÀNH ĐẠT


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Thành Đạt, học viên lớp Điều dưỡng chuyên khoa I
khoá 8, Trường Đại học Điều Dưỡng Nam Định, xin cam đoan:

1. Đây là chuyên đề do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS.BS CKII. Nguyễn Văn Dũng.
2. Cơng trình này không trùng lập với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các thông tin trong chun đề là hồn tồn chính xác, trung thực và
khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nghiên cứu.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 08 năm 2021
Học viên

Nguyễn Thị Thành Đạt


iii

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
MỤC LỤC.................................................................................................... iii
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 3
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH ......................................... 28
2.1. Khái quát Viện Sức Khỏe Tâm Thần quốc gia ....................................... 28
2.2. Nghiên cứu một trường hợp bệnh cụ thể: ............................................... 34
2.3. Một số ưu điểm và tồn tại ...................................................................... 41
CHƯƠNG 3: BÀN LUẬN .......................................................................... 44
3.1. Bàn luận kết quả chăm sóc người bệnh .................................................. 44
3.2. Nguyên nhân của các tồn tại .................................................................. 45

3.3. Đề xuất giải pháp ................................................................................... 46
KẾT LUẬN ................................................................................................. 49
ĐỀ XUẤT .................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO


iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AG

Ảo giác

DSM

Manual of Mental Disorders

ETP

Ergotherapeute (Cán bộ liệu pháp)

HT

Hoang tưởng

ICD -10

Bẳng phân loại quốc tế lần thứ 10 nam 1992

NB


Người bệnh

NVYT

Nhân viên y tế

TTPL

Tâm thần phân liệt

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tâm thần phân liệt (TTPL) là một rối loạn tâm thần nghiêm trọng, khá
phổ biến ở các nước trên thế giới với tỷ lệ khoảng 0,3-0,5% dân số, biểu hiện
lâm sàng đa dạng, gây ra do sự tương tác của các nhân tố di truyền, môi
trường và các yếu tố trong q trình phát triển, có khuynh hướng tiến triển
mãn tính [17]. Trong báo cáo “gánh nặng bệnh tật toàn cầu” năm 2004 của Tổ
chức Y tế Thế giới, TTPL là nguyên nhân đứng hàng thứ sáu gây tàn tật ở các
nước đang phát triển [51].
TTPL là một rối loạn tâm thần nặng nếu không được điều trị thỏa đáng
sẽ tiến triển đến mãn tính, các tác động ảnh hưởng của nó có thể được chia
thành 3 cấp độ: thứ nhất, bản thân người bệnh phải chịu tác động; thứ hai,
người chăm sóc và hoặc gia đình đối với gánh nặng chăm sóc đi kèm với
trách nhiệm chuyển người bệnh từ điều trị nội trú sang điều trị ngoại trú; và

thứ ba, xã hội nói chung chịu ảnh hưởng từ các lần nhập viện và hỗ trợ tâm lý
xã hội cũng như tài chính kéo dài. TTPL mang lại các hậu quả như thất
nghiệp, bạo lực, nhập viện, bệnh kết hợp, vô gia cư và tử vong sớm [57].
Theo tổ chức nghiên cứu về bệnh tật toàn cầu (2013), TTPL được xếp hạng
trong số 25 nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật trên toàn thế giới trong
năm 2013. Tổng chi phí chăm sóc sức khỏe, chiếm từ 7% đến 12% tổng sản
phẩm quốc dân (GNP). Ở Mỹ, gánh nặng kinh tế của TTPL chi phí tới hơn 60
tỷ USD mỗi năm[6]
Người chăm sóc bệnh nhân TTPL phải đối mặt với các mức độ gánh
nặng chăm sóc và stress gia tăng. Người chăm sóc khơng những phải quản lý
những hành vi rối loạn của người bệnh mà bản thân họ cũng là đối tượng của
các hành vi kích động từ phía người bệnh. Các gánh nặng này đều tác động
tiêu cực đến tồn bộ gia đình nói chung, và người chăm sóc nói riêng [7].
Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển vượt bậc của hóa dược
với nhiều thuốc mới ra đời, đã có nhiều nghiên cứu tập trung điều trị các


2
triệu chứng của người bệnh và vào chất lượng cuộc sống của người bệnh,
nhưng ít có nghiên cứu tìm hiểu về gánh nặng của người chăm sóc. Cho
đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào về gánh nặng
chăm sóc của người chăm sóc bệnh nhân TTPL ở Việt Nam.
Chính vì vậy chúng tơi tiến hành nghiên cứu chuyên đề này: “Thực
trạng chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại Viện Sức Khỏe Tâm
Thần Bệnh Viện Bạch Mai năm 2021”, nhằm mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại Viện
Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai năm 2021
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh tâm
thần phân liệt tại Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai



3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm tâm thần phân liệt
TTPL là một rối loạn tâm thần nặng, có suy hướng tiến triến đến mãn
tính, biểu hiện lâm sàng với các triệu chứng đa dạng và khiến cho người bệnh
suy yếu dần, ảnh hưởng đến hầu như tất cả các khía cạnh của các hoạt động
tâm thần, bao gồm tri giác, cảm xúc, nhận thức, tư duy và hành vi, các triệu
chứng có biểu hiện ở những mức độ khác nhau làm rối loạn các chức năng
hoạt động xã hội. TTPL thường có tiến triển từ từ hay tái phát, làm cho người
bệnh dần dần tách khỏi cuộc sống bên ngoài, thu dần vào thế giới bên trong,
làm cho tình cảm trở nên khô lạnh dần, khả năng làm việc và học tập ngày
một giảm sút, có những hành vi, ý nghĩ dị kỳ khó hiểu [23]. TTPL thường
khởi phát ở lứa tuổi từ 18 đến 40 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh của nam giới thường
cao hơn so với nữ giới. Tỷ lệ hiện mắc của TTPL khoảng 0,3 – 0,5% dân số,
tỷ lệ mới mắc mỗi năm là khoảng 1,5/10000 người. Trong báo cáo “gánh
nặng bệnh tật toàn cầu” năm 2004 của Tổ chức Y tế Thế giới, TTPL là
nguyên nhân đứng hàng thứ sáu gây tàn tật ở các nước đang phát triển. Và
đây là một trong 25 bệnh đứng hàng đầu gây tỷ lệ tàn tật lớn nhất cho bệnh
nhân [51,64]
1.1.2. Vài nét lịch sử nghiên cứu bệnh Tâm thần phân liệt
Năm 1911, P.E. Bleuler (Thụy Sĩ) phát hiện ra các nét cơ bản nhất của
bệnh chính là tính phân liệt trong hoạt động tâm thần. Đó là sự khơng hồ
hợp, khơng thống nhất, sự chia cắt các mặt hoạt động tâm thần. Theo tác
giả TTPL không phải là một bệnh mà là một nhóm bệnh kết hợp giữa các
triệu chứng tâm thần. [4,6]
Năm 1937, qua nghiên cứu hậu sử, G. Langfeldt chia TTPL ra

2 nhóm chính là bệnh TTPL chính thức tiến triển


4
không thuận lợi và loạn tâm thần dạng phân liệt tiến triển có khuynh
hướng khả quan hơn.[9]
Năm 1939, K. Schneider, một nhà tâm thần học Đức cho rằng: các triệu
chứng cơ bản của E. Bleuler xuất hiện chậm và cũng có thể gặp trong các
bệnh tâm thần khác. Ơng cũng đưa ra 11 triệu chứng, cho rằng đó là các triệu
chứng hàng đầu rất thực tiễn giúp cho chẩn đoán bệnh được khách quan và
chính xác hơn, nhưng với điều kiện đã loại trừ các căn nguyên thực tổn.
[9,17]
Năm 1966, A.V. Xnheznhepxky có quan điểm về bệnh TTPL như sau:
Bệnh TTPL tiến triển động và đa dạng khó xác định các tiêu chuẩn cố
định để chẩn doán bệnh và khái quát bằng 3 nhóm tiến triển (tiến triển liên
tục, tiến triển liên tục từng cơn và tiến triển chu kì). [9]
Sự biến chuyển và thay thế nhau giữa các hội chứng được chẩn đoán
theo 2 mặt cắt: mặt cắt ngang bao gồm các triệu chứng tâm thần hiện
tại và mặt cắt dọc bao gồm suốt quá trình tiến triển của bệnh theo thời gian.
[18]
Sự chuyển biến của 9 triệu chứng dương tính thay thế hoặc xen kẽ lẫn
nhau hoặc chồng chéo lên nhau từ nhẹ đến nặng bao gồm:
Hội chứng suy nhược thần kinh.
Các hội chứng rối loạn cảm xúc.
Hội chứng giống loạn thần kinh.
Hội chứng paranoia.
Hội chứng ảo giác.
Hội chứng paranoid.
Hội chứng paraphrenia.
Hội chứng căng trương lực.

Trạng thái cuối cùng.
Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố Bảng phân loại bệnh
Quốc tế lần thứ 10 ( ICD - 10), trong đó TTPL được xếp vào nhóm F2. [18]


5
Năm 1994, Hội Tâm thần học Mỹ đã cho ra đời bảng phân loại DSM-IVTM, trong đó TTPL được xếp vào nhóm 295.[24]
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của tâm thần phân liệt
1.1.3.1. Các triệu chứng trong bệnh tâm thần phân liệt
Các triệu chứng trong bệnh TTPL là rất đa dạng, phong phú và phức tạp,
luôn luôn biến đổi, nhưng đa số các tác giả đều thống nhất chia 2 loại triệu
chứng chung gồm: các triệu chứng âm tính và dương tính. [23]
Các triệu chứng âm tính:
Các triệu chứng âm tính là thể hiện sự tiêu hao, mất mát các hoạt động
tâm thần sẵn có và mất tính tồn vẹn, thống nhất của hoạt động tâm thần.
Theo quan điểm của P.E. Bleuler triệu chứng âm tính là nền tảng của
q trình phân liệt. Các triệu chứng âm tính gồm 2 loại chủ yếu: thiếu hoà
hợp, tự kỉ và giảm sút thế năng tâm thần.
Tính thiếu hồ hợp:
Biểu hiện bằng 5 tính chất chung: tính 2 chiều trái ngược, tính dị kì
khó hiểu, tính khó thâm nhập, tính phủ định và tính tự động. Tính thiếu hồ
hợp thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động tâm thần, nhưng rõ nét nhất là
3 mặt hoạt động chính như: tư duy, cảm xúc, hành vi tác phong. Tính tự
kỉ cũng mang tính chất như trên ở mức độ cao hơn, nổi bật là tính dị kì khó
hiểu, khó thâm nhập.
Con người tự kỉ là con người dị kì, khó thâm nhập biểu hiện đa
dạng, khi thì đạo mạo, đài các, khi thì thơ bạo. Thế giới tự kỉ là thế giới
bên trong riêng biệt của bệnh nhân hết sức kì lạ, đi vào thế giới nội tâm, vào
thế giới bên trong với các qui luật tự nhiên và xã hội đều bị đảo lộn và
người bệnh hiểu và làm những điều kì dị khơng ai có thể hiểu được.

Giảm sút thế năng tâm thần:
Giảm thế năng tâm thần là giảm tính năng động, tính nhiệt tình trong mọi
hoạt động tâm thần. Biểu hiện cảm xúc ngày càng cùn mịn, khơ lạnh, tư duy


6
ngày càng nghèo nàn, ý chí ngày càng suy đồi, hoạt động ngày càng yếu
đuối đi đến chỗ không thiết làm cơng việc gì.
Các triệu chứng dương tính:
Là những triệu chứng xuất hiện trong quá trình bị bệnh. Triệu chứng
dương tính rất đa dạng và phong phú, ln ln biến đổi, xuất hiện nhất thời
và mất đi hoặc thay thế bằng những triệu chứng dương tính khác.
Các triệu chứng âm tính và dương tính trong tâm thần phân liệt:
Đều biểu hiện trong các mặt hoạt động tâm thần. Mối liên quan giữa các
triệu chứng âm tính và dương tính phụ thuộc vào các thể tiến triển của bệnh
TTPL, bệnh càng nặng thì các triệu chứng âm tính càng nhiều.
Về tư duy:
Rối loạn cả về hình thức và nội dung tư duy, ngôn ngữ của người bệnh
thường sơ lược, tối nghĩa, ẩn dụ, khó hiểu và thường có những lời nói ngắt
quãng hoặc thêm từ lạ. Dòng tư duy của bệnh nhân nhanh hoặc chậm, nói
một mình hoặc khơng nói hoặc có cơn nói liên hồi hoặc nói đầu gà đi vịt,
hỗn độn hoặc nói lặp đi lặp lại.
Hai nét đặc trưng nhất của rối loạn tư duy là hội chứng tâm thần tự động
và hoang tưởng bị chi phối, những ý nghĩ và hành vi sâu kín nhất dường như
bị người khác biết hoặc đánh cắp. Người bệnh thường phàn nàn bị chi phối
bằng các máy móc như: máy vơ tuyến điện, máy ghi âm, máy điều khiển từ xa
và có trường hợp thấy mình bị chi phối bằng phép thuật hoặc thôi miên hoặc
bằng một sức mạnh siêu nhiên.
Về tri giác:
Đặc trưng nhất là ảo thanh bình phẩm hoặc thảo luận với nhau về

hành vi của bệnh nhân hoặc đe doạ, cưỡng bức hoặc ra lệnh làm những
việc nguy hiểm cho bệnh nhân và xã hội và cũng có thể gặp ảo thị, ảo khứu
hoặc ảo xúc giác nhưng hiếm hơn. Một số bệnh nhân khác gặp rối loạn cảm
giác bản thể, giải thể nhân cách hoặc biến hình bản thân như khơng có


7
tim phổi, chân tay dài ra hoặc ngắn lại và có suy nghĩ tác phong của mình
biến đổi, cái "tơi" đã biến mất.
Về cảm xúc:
Những thay đổi cảm xúc thường xuất hiện sớm, đặc trưng là cảm
xúc cùn mịn, khơ lạnh, bàng quan, lạnh nhạt và người bệnh mặc cảm
với những người xung quanh, không hào hứng với những thú vui trước đây
vốn có. Cảm xúc trái ngược hoặc cảm xúc 2 chiều vừa yêu lại vừa ghét đối
với một người hoặc một hiện tượng. Người bệnh thường hằn học với mọi
người, xa lánh người thân và đôi khi xuất hiện những cảm xúc đột biến như:
cơn khóc, cơn cười vô duyên cớ hoặc cơn lo sợ, giận dữ và có cơn trầm cảm
hoặc cơn hưng cảm.
Về tâm lí vận động:
Có nhiều loại rối loạn, nhưng đặc trưng là căng trương lực biểu hiện
bằng 2 trạng thái kích động và bất động xen kẽ nhau. Trạng thái kích động
biểu hiện bằng lời nói và động tác định hình (kiểu cách định hình như nhún
vai, nhếch mép, xua tay), hành vi dị kì khó hiểu (trời rét cởi trần ra tắm) và
có thể có xung động tấn cơng hoặc xung động đốt nhà hoặc giết người.
Trạng thái bất động biểu hiện bằng sững sờ, giữ nguyên dáng và uốn sáp,
tạo hình.
Rối loạn ý chí:
Người bệnh mất sáng kiến, mất động cơ và hoạt động khơng hiệu quả,
thói quen nghề nghiệp cũ mất dần và khơng thiết làm gì, đời sống ngày càng
suy đồi không chú ý đến vệ sinh thân thể và nằm một chỗ không muốn hoạt

động.
1.1.3.2. các giai đoạn tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt: [18][21]
Thông thường qua 3 giai đoạn: báo trước, toàn phát và di chứng.
Giai đoạn báo trước:
Thời kì đầu thường biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng suy nhược
như: chóng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, mất ngủ, cảm giác khó khăn trong


8
học tập và cơng tác, khó tiếp thu cái mới, đầu óc mù mờ như có màn
sương che phủ, khó suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt, khó thích ứng với ngoại
cảnh, giảm dần các thích thú trước kia, bồn chồn, lo lắng vô duyên cớ, dễ
nổi khùng và tiếp theo là cảm giác bị động, dường như đuối sức trước cuộc
sống, không theo kịp những thay đổi xung quanh. Một số bệnh nhân khác
lại cảm thấy có những biến đổi là lạ trong người, thay đổi nét mặt hoặc
màu da, cũng có bệnh nhân tự nhiên trở nên say sưa đọc các loại sách triết
học, lí luận viển vơng khơng phù hợp với thực tế.
Giai đoạn toàn phát:
Các triệu chứng khởi đầu tăng dần, xuất hiện các triệu chứng loạn thần
ngày càng rõ rệt, phong phú như: ảo giác và hoang tưởng hoặc thiếu hoà
hợp. Tùy các triệu chứng và hội chứng chiếm ưu thế, người ta chia ra
từng thể lâm sàng khác nhau. Theo ICD-10, bệnh TTPL gồm các thể sau:
F20.0. Tâm thần phân liệt thể paranoid:
Là thể bệnh thường gặp nhất, triệu chứng nổi bật là các hoang
tưởng và ảo giác. Các hoang tưởng đặc trưng là hoang tưởng bị chi phối, bị
kiểm tra và hoang tưởng bị truy hại. Các ảo giác thường gặp là ảo thanh bình
phẩm về hành vi của bệnh nhân hoặc nói chuyện với nhau về bệnh
nhân hoặc đe doạ hoặc ra lệnh cho bệnh nhân. Các ảo giác khác cũng có thể
xuất hiện nhưng hiếm gặp hơn. Ngồi ra cịn có thể gặp hội chứng tâm
thần tự động như: tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt, bị đánh cắp

hoặc tri giác sai thực tại và giải thể nhân cách.
Cảm xúc ít cùn mịn hơn các thể khác, nhưng thường gặp cảm xúc khơng
thích hợp như: cáu gắt, giận dữ, sợ hãi và nghi ngờ. Ở thể này các triệu chứng
âm tính thường xuất hiện muộn và khơng sâu sắc.
Tâm thần phân liệt thể paranoid có thể thuyên giảm từng phần hoặc
hồn tồn hoặc tiển triển thành mạn tính. Thời gian khởi đầu có khuynh
hướng chậm hơn các thể khác.


9
F20.1. Tâm thần phân liệt thể thanh xuân:
Thể bệnh này thường xuất hiện ở lứa tuổi trẻ từ 15 - 25 tuổi, nổi bật là
hội chứng kích động thanh xuân biểu hiện chủ yếu là rối loạn hành vi như:
hành vi lố lăng, si dại hoặc cảm xúc hời hợt khó hiểu, người bệnh lúc khóc,
lúc cười lúc hát và nói trêu chọc những người xung quanh. Tư duy khơng liên
quan, rời rạc, đặt ra chữ mới và giả giọng địa phương. Hành vi tác phong điệu
bộ, nhăn mặt, nheo mắt, tinh nghịch và quậy phá. Có thể có các hoang tưởng,
ảo giác thống qua và rời rạc, cũng có thể có hội chứng căng trương lực
kích động hoặc bất động lẻ tẻ. Người bệnh có khuynh hướng sống cơ độc,
cảm xúc và hành vi thiếu mục đích, các triệu chứng âm tính xuất hiện
sớm, tiến triển nhanh đặc biệt là ý chí giảm sút và tiên lượng xấu.
F20.2. Tâm thần phân liệt thể căng trương lực:
Thể bệnh này thường xuất hiện đột ngột và cấp tính, giai đoạn đầu
thay đổi tính tình, ít nói, ít hoạt động và đột ngột xuất hiện kích động dữ dội
giống xung động, định hình, bối rối, hoạt động khơng có mục đích và khơng
chịu ảnh hưởng các kích thích bên ngồi. Người bệnh cũng bất ngờ chuyển
sang bất động, sững sờ, cứng như gỗ, chống đối khơng nói và khơng ăn.
Dáng điệu và tư thế khơng tự nhiên có thể duy trì trong một thời gian
dài như: triệu chứng gối khơng khí, uốn sáp, tạo hình hoặc vâng lời tự động
hoặc phủ định hoặc chống đối hoặc làm ngược lại chỉ dẫn của người khác.

Hội chứng căng trương lực cũng có thể xuất hiện với trạng thái ý thức
mê mộng kèm theo những ảo giác sinh động, nhưng các triệu chứng âm
tính xuất hiện muộn hơn.
F20.3. Tâm thần phân liệt thể không biệt định:
Bao gồm các trạng thái đáp ứng các tiêu chuẩn chung của bệnh TTPL,
nhưng không tương ứng với bất cứ thể nào đã mô tả ở trên. Biểu hiện lâm
sàng không đặc trưng cho một thể bệnh nào rõ rệt.


10
F20.4. Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt:
Trạng thái trầm cảm kéo dài xuất hiện sau một quá trình phân liệt,
một số triệu chứng phân liệt vẫn tồn tại nhưng khơng cịn chiếm ưu thế, các
triệu chứng dương tính mờ nhạt, hội chứng trầm cảm khơng trầm trọng
và khơng mở rộng, nhiều trường hợp khó xác định trạng thái trầm cảm
do các thuốc an thần kinh và các triệu chứng âm tính vẫn cịn tồn tại. Trạng
thái trầm cảm sau phân liệt thường đáp ứng kém với các thuốc chống trầm
cảm và nguy cơ tự sát cao.
F20.5. Tâm thần phân liệt thể di chứng:
Thể di chứng là một giai đoạn tiến triển mạn tính, các triệu chứng
dương tính của giai đoạn tồn phát mờ nhạt khơng ảnh hưởng đến cảm
xúc và hành vi. Những triệu chứng âm tính nổi bật lên hàng đầu, biểu hiện
bằng hoạt động kém, cảm xúc cùn mòn, bị động trong cuộc sống, thiếu
sáng kiến, ngôn ngữ nghèo nàn, không quan tâm chăm sóc bản thân và hoạt
động xã hội và khơng mất trí.
F20.6. Tâm thần phân liệt thể đơn thuần:
Bệnh bắt đầu bằng các triệu chứng âm tính là chủ yếu như: giảm sút khả
năng học tập và cơng tác, khơng thích ứng được với xã hội, cảm xúc cùn mịn,
ý chí suy giảm dần, các triệu chứng dương tính như: hoang tưởng, ảo giác
không rõ ràng và lẻ tẻ. Các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc, giao tiếp

xã hội ngày càng nghèo nàn, người bệnh sống lang thang, thu mình lại và
sống khơng có mục đích.
Ngồi ra cịn thể F20.8 Tâm thần phân liệt thể không biệt định hay F20.9
tâm thần phân liệt khác. Các thể này với các triệu chứng tâm thần mờ nhạt,
không rõ ràng
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến bệnh tâm thần phân liệt [22,25,26,32,53,59]
* Các quan niệm về bệnh sinh bệnh TTPL rất khác nhau. Từ khi P.E.

Bleuler nêu ra quan điểm TTPL là một nhóm bệnh, vấn đề bệnh sinh của
TTPL ngày càng được quan tâm hơn. Tuy nhiên, bệnh sinh của TTPL diễn


11
ra theo những cơ chế rất phức tạp và chưa được làm sáng tỏ, chưa có một giả
thuyết nào có thể giải thích được cách khởi phát đa dạng và sự dao động lớn
các triệu chứng lâm sàng của bệnh. Hiện nay hai lĩnh vực được tập trung
nghiên cứu nhiều nhất là : bất thường về gen và những bất thường về chất dẫn
truyền thần kinh.
* Năm 1951, O. Lingjaerde thấy TTPL là sự tương quan giữa các yếu

tố cơ thể và tâm lí, nội sinh và ngoại sinh, yếu tố bẩm sinh và phản ứng.
Quan niệm hiện nay cho rằng, bệnh sinh của TTPL có thể là những sự tác
động của các yếu tố sinh học, xã hội và tâm lí. Do đó mỗi giả thuyết chỉ
phản ánh được một khía cạnh nào đó của q trình phát triển của bệnh mà
thôi. [32]
* Giả thuyết về di truyền trong tâm thần phân liệt: [9,15,36,37,46,49,58]

- Vấn đề di truyền trong TTPL là rõ ràng. Trong khi tỉ lệ bị TTPL
phổ biến ở cộng đồng là 1% thì nguy cơ bị bệnh trong nghiên cứu phả hệ lại
cao (theo R.Breen, 2001 là 3 - 7%, theo Freedmann là khoảng 5%).

D.W. Black và N. Adreasen (1999) khi tổng hợp các nghiên cứu về gia đình
cho thấy, trong gia đình có một người bị TTPL thì những thành viên khác
trong suốt cuộc đời có nguy cơ bị bệnh TTPL là 10% và trẻ em có bố hoặc mẹ
bị TTPL thì nguy cơ bị TTPL là 5 - 6%.
- Quan niệm di truyền đa gen được nhiều tác giả thừa nhận hơn và
cho rằng sự tổ hợp nhiều gen quyết định tính di truyền của bệnh TTPL.
Trong cơ chế bệnh sinh TTPL, hiện nay rất khó giải thích được là yếu tố
nào đóng vai trò quyết định di truyền mẫu gen của bệnh TTPL. Người ta hy
vọng rằng trên cơ sở bản đồ gen của người đã được xác lập, vấn đề di
truyền trong TTPL sẽ được làm sáng tỏ.


12
* Giả thuyết về phát triển tâm thần: Các nghiên cứu trong nửa cuối thế kỉ

XX đã xác nhận, yếu tố phát triển tâm thần có liên quan tới cơ chế bệnh
sinh của TTPL. Các yếu tố nguy cơ trong thời kì mang thai, mùa sinh, dinh
dưỡng và các biến chứng sản khoa đóng một vai trị quan trọng trong việc
phát sinh bệnh TTPL.
* Giả thuyết về tâm lí - xã hội và văn hố:[2,,3,41,46,57]

- Test tâm lí cho thấy có sự bất thường rõ rệt ở người bệnh TTPL và
cả ở một số người họ hàng chưa có biểu hiện lâm sàng của TTPL. Giả
thuyết tác động qua lại trong gia đình là yếu tố bệnh sinh quan trọng của
bệnh TTPL, nhưng việc tăng nhanh các dữ liệu sinh học của TTPL đã phủ
nhận giả thuyết này.
- Việc giáo dục trong gia đình có khả năng làm thay đổi cảm xúc và
tạo một cuộc sống ít stress hơn có tác dụng phịng bệnh TTPL. Văn hố
giữa các khu vực công nghiệp và nông nghiệp liên quan đến bệnh TTPL
đã được nghiên cứu và giải thích rất khác nhau, nhưng yếu tố kinh tế đã

làm ảnh hưởng đến yếu tố dinh dưỡng, vệ sinh và chăm sóc sức khoẻ tâm
thần cho nhân dân chứ không phải là sự khác biệt về văn hoá.
* Giả thuyết về sinh học: Các nghiên cứu sinh học và hoá sinh về cơ chế
bệnh sinh của TTPL đã có nhiều kết quả triển vọng. Nhờ sự tiến bộ của
khoa học kĩ thuật, người ta đã sử dụng phương pháp CT-Scan để nghiên
cứu hình thái bệnh học hệ TKTW trong TTPL. Theo Th.Z. Craig,
Z. Bregman (1988), 40,6% bệnh nhân TTPL khởi phát có liên quan đến
tổn thương thực thể não, đa số bệnh nhân có teo vỏ não và giãn rộng các
não thất. Năm 1980, T.J. Crow nghiên cứu lâm sàng và giải phẫu bệnh lí
não của bệnh nhân TTPL đã chia thành 2 type:
* Type 1: khởi phát cấp tính, biểu hiện chủ yếu là các triệu chứng dương

tính, cấu trúc não hồn tồn bình thường, dung nạp điều trị tốt.
* Type 2: khởi phát từ từ, biểu hiện các triệu chứng âm tính là chủ yếu và

có nhiều bất thường trong cấu trúc não, hiệu quả điều trị kém.


13
* Quan điểm trên cũng được nhấn mạnh lại trong DSM-IV (1994)

[24,26]và nghiên cứu của H.I. Kaplan và B.J. Sadock (1997). Sau nhiều năm
nghiên cứu, các nhà khoa học khẳng định có sự bất thường trong cấu
trúc của nhiều vùng não khác nhau ở bệnh nhân TTPL, những sự biến
đổi này là nguyên nhân hay hậu quả của quá trình phân liệt thì chưa có tài
liệu nào khẳng định được. Các cấu trúc bất thường trong não biểu hiện là:
* Giãn rộng các não thất bên: teo các tế bào thần kinh, khoang

não thất giãn rộng và chứa nhiều DNT hơn. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa
xác định được vùng não đầu tiên bị teo. [22]

* Giảm kích thước vùng đồi thị: đồi thị là trung tâm dẫn truyền và

chuyển tiếp các thông tin giữa các vùng não khác nhau, nếu mất chức
năng thì dẫn đến tổn thương nhiều vùng não khác nhau. [65]
* Bất thường kích thước hồi hải mã: nhiều nghiên cứu đã xác định kích

thước của hồi hải mã nhỏ hơn bình thường, nhưng khơng xác định
được tế bào bị thoái hoá ngay trong bào thai hay trong quá trình phát triển
của não.
* Bất thường trong cấu trúc tế bào ở vùng trước trán: các bất thường này

gây ra các tổn thương dẫn truyền thần kinh từ hệ limbic đến thuỳ đỉnh
và thuỳ thái dương. [67]
* Rối loạn chuyển hoá dopamin: những nghiên cứu gần đây đều

cho rằng rối loạn chuyển hố dopamin giữ vai trị chính trong bệnh sinh
bệnh TTPL. Rối loạn chuyển hố các chất trung gian hoá học trong não của
bệnh nhân TTPL là sự biến đổi của hệ thống enzyme tổng hợp hoặc phân
hủy dopamin, các biến đổi này thấy rõ trong các giai đoạn cấp tính của bệnh.
Các giả thiết dopamin cho rằng, các bất thường gây ra bệnh TTPL có thể nằm
ở thụ cảm thể D2. Có 4 loại thụ cảm thể dopamin là D1, D2, D3 và D4
được phân bố ở các vùng não khác nhau. Thụ cảm thể D1 kết nối với
adenylate cyclase nằm ở vỏ não và các hạch nền, thụ cảm thể D2 khơng
có adenylate cyclase có nhiều ở thể vân và thụ cảm thể D3 và D4 phân


14
bố ở vùng limbic. Sự phân bố này đã làm cho người ta nghi ngờ thuyết
dopamin cổ điển, vì vùng limbic là nơi tiếp nhận tác dụng của các thuốc
an thần kinh, nhưng các thụ cảm thể D2 lại rất thấp.[22]

* Những bất thường của hệ thống dẫn truyền glutamate: nồng độ

glutamate giảm trong DNT của bệnh nhân TTPL, trên thực nghiệm người ta
nhận thấy khi tiêm phenylclidin (chất đối kháng với thụ cảm thể glutamate)
đã gây ra các triệu chứng giống TTPL ở người bình thường. Các nghiên cứu
khác như: chụp cộng hưởng từ và giải phẫu bệnh lí đều thấy giảm hoạt động
dẫn truyền glutamate ở các tế bào hình tháp vùng trước trán, các tế bào này
có tác động qua lại lên cả 2 hệ thống serotonin và dopamin. [58]
* Các nghiên cứu về bệnh lí của hệ thần kinh trung ương:
* Các nghiên cứu của Cancro và cộng sự (2000) [26] thấy thiếu hụt

chọn lọc các tế bào thần kinh ở thuỳ trán như: giảm số lượng tế bào ở bề mặt
và tăng tế bào có đuôi gai ở vùng sâu chất trắng. Tác giả Kaplan HI.,
Sandock (1994) [36] nhận thấy giảm số lượng và cả đuôi gai của tế bào ở
các nhân của đồi não và các nhân ở vùng trước trán. Ngược lại, nghiên cứu
của Azorin (2003) và Llorca và cộng sự (2003) thấy tăng tế bào có đi gai
ở vùng trước trán ở bệnh nhân TTPL
1.1.5. Chẩn đoán tâm thần phân liệt
Tiêu chuẩn chẩn đốn TTPL theo ICD-10 năm 1992:dựa vào 9 nhóm
triệu chứng[18]
1/ Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị
phát thanh.
2/ Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan
rõ rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những
ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc biệt và tri giác hoang tưởng.
3/ Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân
hay thảo luận với nhau về bệnh nhân hoặc các loại ảo thanh khác xuất hiện
từ một bộ phận nào đó của cơ thể.



15
4/ Các hoang tưởng dai dẳng khơng thích hợp về mặt văn hố và hồn
tồn khơng thể có được tính đồng nhất về tơn giáo hay chính trị hoặc
những khả năng và quyền lực siêu nhiên như: khả năng điều khiển thời tiết
hoặc đang tiếp xúc với người ở thế giới khác.
5/ Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng
thống qua hay chưa hồn chỉnh, khơng có nội dung cảm xúc rõ rệt
hoặc kèm theo ý tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều
tuần hay nhiều tháng.
6/ Tư duy gián đoạn, hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy khơng liên
quan hay lời nói khơng thích hợp hoặc ngơn ngữ bịa đặt.
7/ Tác phong căng trương lực như: kích động, giữ ngun dáng, uốn
sáp, phủ định và khơng nói hoặc sững sờ.
8/ Các triệu chứng âm tính như: vơ cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, đáp
ứng cảm xúc cùn mịn hoặc khơng thích hợp thường dẫn đến cách li xã hội
hoặc giảm sút hiệu suất lao động và các triệu chứng trên phải rõ ràng là
không do trầm cảm hay thuốc an thần gây ra.
9/ Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng tồn diện của
tập tính cá nhân biểu hiện như: mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác,
thái độ mải mê suy nghĩ về bản thân và cách li xã hội.
Yêu cầu chẩn đoán bệnh TTPL theo ICD-10:
Phải có ít nhất 1 triệu chứng rõ ràng hoặc phải có tối thiểu 2 triệu
chứng (nếu các triệu chứng đó ít rõ ràng) thuộc các nhóm từ 1 đến 9 kể trên.
Nếu là các nhóm từ 5 đến 9 thì phải có ít nhất là 2 nhóm triệu chứng.
Thời gian của các triệu chứng phải tồn tại ít nhất là 1 tháng.
Khơng được chẩn đốn TTPL nếu có triệu chứng trầm cảm hoặc hưng
cảm mở rộng xuất hiện trước các triệu chứng nói trên.(trừ khi các triệu chứng
phân liệt xuất hiện trước các rối loạn cảm xúc)
Khơng được chẩn đốn TTPL khi có bệnh não rõ rệt hoặc bệnh nhân
đang ở trong trạng thái nhiễm độc ma tuý.



16
Khơng được chẩn đốn TTPL khi có bệnh ĐK và các bệnh tổn thương
thực thể não khác.
Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt theo DSM-IV năm 1994:[24]
Nhóm A: có ít nhất là 2 trong số các triệu chứng sau và mỗi triệu chứng phải
biểu hiện rõ rệt trong thời gian là 1 tháng (hoặc ít hơn nếu được điều trị tốt):
1/ Hoang tưởng.
2/ Ảo giác.
3/ Ngôn ngữ thanh xuân.
4/ Hành vi căng trương lực hoặc thanh xuân rõ rệt. 5/ Các triệu chứng
âm tính.
Ghi chú: chỉ cần 1 triệu chứng duy nhất trong tiêu chuẩn A nếu như các
hoang tưởng là kì dị hoặc ảo thanh bình phẩm về các hành vi hoặc ý nghĩ
của bệnh nhân hoặc 2 hay nhiều giọng nói trị chuyện với nhau.
Nhóm B: mất chức năng hoạt động nghề nghiệp và xã hội trong một thời
gian dài sau khi khởi phát bệnh, một hay nhiều lĩnh vực quan trọng khác như:
việc làm, quan hệ với mọi người hoặc giảm tự chăm sóc bản thân so với trước
khi bị bệnh.
Nhóm C: các dấu hiệu tổn thương tiếp theo bền vững ít nhất là 6 tháng (hoặc
ít hơn nếu được điều trị), phải thoả mãn với tiêu chuẩn A (triệu chứng của pha
hoạt động) và các triệu chứng của pha tiền triệu hoặc pha di chứng có
thể chỉ là các triệu chứng âm tính hoặc ít nhất có 2 triệu chứng ở tiêu chuẩn
A với mức độ nhẹ.
Nhóm D: loại trừ rối loạn phân liệt cảm xúc hoặc rối loạn cảm xúc hoặc
khơng có một giai đoạn trầm cảm điển hình hoặc hưng cảm hoặc pha trộn
xuất hiện đồng thời với các triệu chứng của pha hoạt động, tổng số thời
gian của chúng phải ngắn hơn khi so với pha hoạt động và pha di chứng.
Nhóm E: loại trừ một rối loạn do thuốc hoặc một bệnh thực tổn và không

phải do hậu quả của nghiện ma tuý hoặc một bệnh cơ thể gây ra.


17
Nhóm F: khi tồn tại một tiền sử bệnh tự kỉ hoặc rối loạn chậm phát triển
bền vững thì chẩn đoán tâm thần phân liệt chỉ đặt ra khi các triệu chứng
hoang tưởng, ảo giác thể hiện một cách rõ nét và tiến triển trong thời gian
ít nhất là 1 tháng (có thể ít hơn nếu được điều trị).
Chẩn đốn phân biệt.
Trạng thái suy nhược thần kinh: trong giai đoạn tiền triệu của TTPL có
nhiều triệu chứng suy nhược thần kinh khác nhau, nhưng thường phát sinh
khơng rõ lí do.
Rối loạn stress cấp: có các sang chấn tâm lí đủ mạnh. Bệnh cảnh lâm sàng
chủ yếu tập trung vào yếu tố stress, khơng có các triệu chứng âm tính và
thời gian tồn tại các triệu chứng dưới 1 tháng.
Rối loạn khí sắc: chủ yếu là rối loạn lưỡng cực, các triệu chứng hưng cảm
hoặc trầm cảm có thể giống triệu chứng TTPL, cần phải căn cứ vào các dấu
hiệu đặc trưng của rối loạn khí sắc thì có thể phân biệt được.
Các rối loạn nhân cách: thường khơng có triệu chứng loạn thần, nếu
có thì chỉ tạm thời hoặc thứ phát và bệnh ổn định lâu dài không tiến triển
thêm.
Các rối loạn hoang tưởng: thường là các hoang tưởng có hệ thống, khơng
kì dị và thời gian kéo dài ít nhất 6 tháng, nhân cách ít biến đổi và cịn làm việc
tương đối tốt, khơng có ảo giác và các triệu chứng phân liệt khác, khởi phát
muộn ở người lớn tuổi.
1.1.6. Tiến triển, tiên lượng và tái phát của bệnh tâm thần phân liệt
Nếu không được phát hiện sớm và điều trị hợp lí, bệnh thường tiến triển
mạn tính với sự mất mát tăng dần và có giai đoạn cấp, các triệu chứng
dương tính rầm rộ, nhưng sau một thời gian các triệu chứng dương tính giảm
dần và thay thế vào đó là các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc hơn.

Việc biến đổi nhân cách còn tùy thuộc vào kiểu tiến triển và mức độ của
bệnh. Theo R. Murray (2000), có 4 nhóm tiến triển sau:


18
Nhóm 1: có duy nhất một thời kì bệnh và khỏi bệnh hồn tồn, số này
chiếm khơng nhiều (22%).
Nhóm 2: có nhiều cơn tái phát và giữa các cơn có biểu hiện nhẹ nhàng
hoặc khơng có biểu hiện thiếu sót tâm thần, số này chiếm tỉ lệ là 35%.
Nhóm 3: có nhiều cơn tái phát, giữa các cơn có biểu hiện thiếu sót tâm
thần rõ nét, số này chiếm 8%.
Nhóm 4: sau mỗi đợt phát để lại di chứng trong các hoạt động tâm
thần ngày càng nhiều, số này chiếm 35%.
Theo ICD-10 (1992) [18] để đánh giá tiến triển cần phải có thời gian
theo dõi tối thiểu là 1 năm và bao gồm có 7 kiểu tiến triển:
Tiến triển liên tục.
Tiến triển từng giai đoạn với thiếu sót tăng dần.
Tiến triển từng giai đoạn với thiếu sót ổn định.
Tiến triển từng giai đoạn với sự thun giảm.
Thun giảm khơng hồn tồn.
Thun giảm hồn tồn.
Các kiểu tiến triển khác và có thời kì theo dõi dưới 1 năm.
Theo DSM-IV (1994)[24] cũng cần theo dõi tối thiểu 1 năm sau pha hoạt
động nhằm xác định kiểu tiến triển và bao gồm có 6 kiểu tiến triển:
Tiến triển theo từng giai đoạn với thời kì thun giảm hầu như khơng
tồn tại các di chứng trong hoạt động tâm thần.
Tiến triển theo từng giai đoạn với các di chứng rõ nét, chủ yếu là các
triệu chứng âm tính.
Tiến triển liên tục trong q trình theo dõi suốt 1 năm có các biểu hiện
loạn thần khơng thun giảm và có nhiều triệu chứng âm tính.

Tiến triển chỉ một giai đoạn, lui bệnh khơng hồn tồn.
Tiến triển chỉ một giai đoạn, nhưng lui bệnh hoàn toàn.
Các kiểu tiến triển khác.


19
1.1.7. Điều trị tâm thần phân liệt [2,6,19,21,60,62]
1.1.7.1. Nguyên tắc điều trị
TTPL là một bệnh nguyên nhân chưa rõ, điều trị triệu chứng là chủ yếu
cần phát hiện và can thiệp sớm
Hóa dược liệu pháp có vai trị quan trọng, đặc biệt với triệu chứng
dương tính .Cần phối hợp nhiều liệu pháp điều trị: tâm lí, lao động và tái thích
ứng xã hội đặc biệt đối với các triệu chứng âm tính.
Đơn trị liệu, khi đáp ứng kém hoặc khơng có đáp ứng thì sử dụng đa trị
liệu phối hợp hai loại an thần kinh khác nhau, hạn chế phối hợp từ ba loại an
thần kinh trở lên.
Theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng thuốc để phát hiện và xử trí kịp thời
các tác dụng phụ của thuốc an thần kinh.
Giáo dục gia đình, cộng đồng thay đổi thái độ với bệnh nhân TTPL
(tránh mặc cảm, kì thị người bệnh ). Phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc , gia
đình và cộng đồng trong việc chăm sóc bệnh nhân.
Phát hiện và giải quyết kịp thời các yếu tố thúc đẩy bệnh tái phát.
Điều trị duy trì sau cơn loạn thần đầu tiên, quản lí, theo dõi phịng tái
phát tại cộng đồng.
1.1.7.2. sơ đồ / phác đồ điều trị
Liệu pháp hóa dược +liệu pháp tâm lí phục hồi chức năng tại cộng đồng
* Điều trị giai đoạn cấp tính:
Người bệnh đang điều trị nội trú, cần phải có thời gian ít nhất là sau 2 –
4 tuần điều trị. Tùy theo tình trạng của NB mà bác sĩ chọn thuốc và chỉnh liều
cho phù hợp. Thường chọn một trong các thuốc sau:

 Các thuốc an thần kinh cổ điển
+ Chlorpromazin : viên 25mg; ống 25 mg . Liều 50 - 250mg /24h
+ Levomepromazin : viên 25mg. Liều 25 mg - 250mg /24h
+ Haloperidol : viên 1,5mg, 5mg; ống 5mg. Liều 25mg - 30mg /24h


×