GIÁO TRÌNH THỰC HÀNH
KÝ SINH TRÙNG Y HỌC
Mã mơn học MIB 254
ĐÀ NẴNG , 03/2018
1
BÀI 1: KÍNH HIỂN VI QUANG HỌC VÀ CÁCH SỬ DỤNG
2
Mục tiêu:
Sử dụng kính hiển vi một cách thành thạo, hiểu biết nguyên tắc, ứng dụng của
Kính hiển vi.
1. Lịch sử phát triển của Kính hiển vi
Từ kính hiển vi (KHV) có tên Microscop trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là
“người nhìn thấy những vật nhỏ” (tên tiếng Anh là Microscopy và tiếng Pháp là
Microscopie). Thiết bị này dùng để nhìn những vật rất bé mà mắt thường khơng
nhìn thấy được.
Những chiếc KHV đơn giản đã có từ thời xa xưa nhưng ở đây chúng ta muốn
đề cập đến những chiếc KHV phức tạp. Vậy những chiếc KHV phức tạp là gì? Nhờ
hai thấu kính, vật quan sát được nhân ảnh lên gấp hai lần, một trong hai thấu kính đó
được gọi tên là vật kính, nó phóng đại hình ảnh lên lần thứ nhất, thấu kính thứ hai
được gọi là thị kính phóng đại hình ảnh lên lần thứ hai. Thực ra, trước đây KHV có
vài thấu kính vừa được sử dụng như thị kính, vừa để dùng như vật kính nhưng điều
quan trọng là tất cả các loại KHV này hoạt động dựa trên nguyên tắc phóng đại
kép. Ngày nay, con người trong mọi lĩnh vực khoa học và công nghiệp đều không thể
làm việc được nếu thiếu KHV. Những KHV đầu tiên quan sát vật thể nhỏ bé bằng ánh
sáng, sử dụng các thấu kính quang học hay gương quang học để tăng độ phóng
đại của hệ quang học, chúng được gọi là KHV quang học. Hiện có nhiều phương
pháp khác khơng sử dụng ánh sáng để quan sát các vật thể nhỏ bé và các KHV thuộc
những loại này có tên gọi đặc trưng cho từng phương pháp quan sát.
2. Nguyên tắc hoạt động
Kính hiển vi quang học là thiết bị khơng thể thiếu đối với
phịng thí nghiệm nghiên cứu sinh học, cho phép quan sát trong giới hạn
của nó các vật thể rất nhỏ là công cụ đắc lực để ghi nhận các kết quả thí
nghiệm cũng như quan sát mơ tả.
Vật quan sát AB (mẫu vật) được đạt phía ngồi tiêu điểm (f) của vật kính. Vật kính
tạo nên một ảnh thật ngược chiều AB nằm phía ngồi của tiêu điểm trong thị kính (F).
Ảnh thật AB qua thị kính lại được phóng đại lên lần thứ hai tạo nên ảnh có cùng chiều
AB (có nghĩa là vẫn ngược chiều với vật) và đó chính là ảnh của vật mà mắt người quan
3
sát được. Như vậy qua kính hiển vi, vật đươc phóng đại lên hai lần nhờ vật kính và thị
kính. Độ phóng đại chung của kính hiển vi (V) sẽ là tích của độ phóng đại riêng của vật
kính (Vvk) và thị kính (Vtk).
V = Vvk x Vtk
Hình 1.1. Sơ đồ tạo ảnh của kính hiển vi
Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Kính hiển vi điện tử (Electron Microscopy) là một thiết bị dùng để nghiên
cứu cấu trúc, vi cấu trúc của vật chất, dùng phổ biến trong vật lý, công nghệ, y sinh
học. Hiện nay, một xu hướng mới của khoa học là cơng nghệ nano thì KHV điện tử
lại là một dụng cụ không thể thiếu của cơng nghệ này. Bài viết sau trình bày một
cách khái quát về KHV điện tử (cấu tạo, nguyên lý hoạt động và một số hình ảnh).
Tiếp đó, một thế hệ của KHV điện tử chính là KHV điện tử truyền qua (TEM) có
qt hoặc khơng qt ảnh.
Đối tượng sử dụng của TEM là chùm điện tử có năng lượng cao, vì thế các
cấu hình, linh kiện chính của TEM được đặt trong cột chân không siêu cao được tạo
ra nhờ các hệ bơm chân khơng (bơm turbo, bơm iơn..).
Kính hiển vi điện tử truyền qua quét (Scanning TEM - STEM)
4
Kính hiển vi điện tử truyền qua quét là
một loại kính hiển vi điện tử truyền qua
nhưng khác với CTEM là chùm điện tử
truyền qua mẫu là một chùm điện tử được hội
tụ thành một chùm hẹp và được quét trên
mẫu. Nhờ việc điều khiển khẩu độ và thấu
kính hội tụ, chùm điện tử có thế hội tụ thành
một chùm tia có kích thước rất hẹp (các
Hình 1.2. Ngun tắc hoạt động KHV Điện tử
STEM mạnh hiện nay có thể cho kích thước
tới dưới 1 nm) do đó cho phép ghi ảnh với độ
phân giải rất cao. Hơn nữa, vì chùm điện tử là hội tụ, nên góc tán xạ của điện tử sau
khi truyền qua mẫu sẽ rất lớn và tạo ra nhiều phép phân tích mạnh, ví dụ như phép ghi
ảnh trường tối với góc lệch vành khuyên lớn (High-annular dark-field
imaging - HADF), khả năng phân tích phân bố các nguyên tố với độ phân giải cực cao
nhờ phép phân tích phổ tổn hao năng lượng điện tử (EELS) thực hiện đồng thời với
quá trình ghi ảnh. Hơn nữa, ảnh độ phân giải cao trực tiếp liên quan đến nguyên tử
khối của các nguyên tố, do đó rất hữu ích cho việc phân tích sự phân bố của các
nguyên tố hóa học.
STEM lần đầu được xây dựng năm 1938 bởi Manfred von Ardenne của công
ty Siemens (Berlin, Đức) chỉ sau một thời gian TEM xuất hiện, nhưng hầu như khơng
thể phát triển do việc khó khăn trong việc hội tụ chùm điện tử có tính đơn sắc kém
vào điểm nhỏ. Tuy nhiên, phải đến năm 1970 STEM mới thực sự phát triển nhờ việc
tạo ra chùm điện tử có độ đơn sắc cao nhờ súng phát xạ trường (FEG). Cho đến hiện
nay, STEM là công cụ mạnh để ghi ảnh với độ phân giải tới cấp nguyên tử. Trong
những nghiên cứu phát triển STEM hiện nay, mục tiêu loại trừ quang sai (do tính
khơng hồn tồn đơn sắc của chùm điện tử) đang là vấn đề cấp bách để đạt được các
STEM có độ phân giải cực lớn. Nhiều dự án xây dựng các STEM mạnh đang được
phát triển dựa trên mục tiêu này và người ta đang xây dựng những STEM có khả năng
phân giải cao, gọi là SuperSTEM.
Kính hiển vi đảo ngược
5
Kính hiển vi đảo ngược là cơng cụ khơng thể thiếu trong nhiều phịng thí
nghiệm nghiên cứu vật liệu sống, công nghệ sinh học, di truyền học tế bào và những
phương pháp kỹ thuật cổ điển trong nuôi cấy tế bào. Lọai kính này đang được nâng
cấp thành những hệ thống chuyên dụng cho những ứng dụng thông thường và
những phát triển nghiên cứu đặc biệt. Dịng sản phẩm kính hiển vi Wilovert của
Hund được thiết kế riêng biệt cho xu hướng này.
Với những phương pháp khác nhau về sự tương phản và bộ nối hùynh quang,
những thiết bị này phù hợp cho nhiều ứng dụng nghiên cứu trong lãnh vực:
+ Chăn nuôi, sinh vật học tế bào;
+ Nghiên cứu bệnh học tế bào;
+ Nghiên cứu miễn dịch;
+ Nghiên cứu về hồ, nghiên cứu nấm;
+ Nghiên cứu vật ký sinh, trong đó có ký sinh trùng;
+ Nghiên cứu dược lý và các nghiên cứu liên quan trong phịng thí nghiệm
Đặc điểm kính hiển vi đảo ngược
Thân kính Wilovert dạng đúc khối hình chữ U
giúp kính độ ổn định cao. Bộ đảo mini có thể dễ dàng
lắp vào với các kính hiển vi trong lọat Wilovert;
Dãi lựa chọn rộng cho các nguồn sáng: Đèn
Halogen 6V / 20W và 6V / 30W, ngồi ra có thể chọn
Hình 1.3. Kính hiển vi đảo ngược
đèn 12V / 50W hoặc 12V / 100W. Đèn thủy ngân HBO
50W hoặc HBO 100W cho nguồn sáng hùynh quang;
Vật kính: Đối với kính hiển vi đảo mẫu được nghiên cứu trong những lọ nuôi
cấy mô với những chiều cao, độ dầy và vật liệu khác nhau, trái lại với những lam
kính và lamen mẫu chuẩn được dùng cho kính hiển vi đứng, địi hỏi phải có phần
quang học đặc biệt;
Tụ quang, có nhiều lựa chọn:
+ Tụ quang NA 0.25 cho nền sáng ánh sáng truyền qua với khỏang cách làm
việc 58 mm;
6
+ Tụ quang kết hợp NA 0.25 với khỏang cách làm việc 58 mm cho nền sáng
ánh sáng truyền qua và phản pha
+ Tụ quang NA 0.4 cho nền sáng ánh sáng truyền qua với khỏang cách làm
việc 55 mm
+ Tụ quang kết hợp NA 0.4 với khỏang cách làm việc 38 mm cho nền sáng ánh
sáng truyền qua và phản pha
Giá đỡ cho những lọ nuôi cấy: những lọ nuôi cấy thường được sử dụng như đĩa
Petri, lọ nuôi cấy mô, khay microtest và khay microtiter được đặt trong những
khung giữ đặc biệt trên kính hiển vi Wilovert. Bộ phận dẫn hướng mục tiêu đảm bảo
mẫu được quét hoàn tồn.
Ứng dụng trong nghiên cứu của các loại kính hiển vi
Kính hiển vi quang học (Optical microscopy)
Trong nghiên cứu đơn bào sốt rét:
+ Xét nghiệm lam máu và soi kính hiển vi phát hiện, chẩn đốn lồi đơn bào sốt
rét đến nay vẫn được xem là “chẩn vàng” chẩn đoán. Mặc dù, hiện nay có rất nhiều
phương pháp, kỹ thuạt hiện đại giúp chẩn đoán sớm bệnh như test chẩn đốn nhanh,
quang phổ, quang phổ khối đơn dịng, đa dịng; sinh học phân tử PCR, …, nhưng
chưa có phương pháp hay kỹ thuật nào thay thế hoặc bao phủ tính năng tồn vẹn của
chúng vì đây là một phương pháp vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng,
khơng những giúp chẩn đốn, theo dõi điều trị mà cịn tiên lượng được bệnh;
+ Bên cạnh đó, chúng cịn là công cụ không thể thiếu trong nghiên cứu mảng
đánh giá thường quy hiệu lực thuốc theo các phác đồ của Bộ Y tế hiện hành mà còn
đánh giá hiệu lực của các thuốc sốt rét mới hay nghiên cứu kháng thuốc;
+ Các phương pháp khác dù có hiện đại, nhanh, chính xác,…cũng khơng thể
thay thế hồn tồn tính ưu việt của KHV mà chỉ mang tính chất hỗ trợ.
Trong nghiên cứu ký sinh trùng giun sán:
+ Xét nghiệm mẫu phân thu thập tại cộng đồng hoặc trên bệnh nhân đang nằm
điều trị, xử lý rồi soi dưới KHV cho phép chúng ta xác định một số loại trứng, ấu
7
trùng, hoặc con trưởngthành của một số loài giun, sán ký sinh gây bệnh trên người
hoặc trên động vật và lây sang người (người chỉ là vật chủ tình cờ);
+ KHV là công cụ giúp theo dõi diễn tiến điều trị các ca bệnh trên lâm sàng
bệnh viện;
+ Cũng như trong phát hiện, chẩn đoán đơn bào sốt rét, kỹ thuật sử dụng KHV
cũng giúp cho đánh giá hiệu lực thuốc điều trị giun sán, tình trạng và mức độ kháng
thuốc giun sán ở người và gia súc, thông qua đánh giá các tỷ lệ sạch trứng, chỉ số
giảm trứng,…
Trong nghiên cứu côn trùng truyền bệnh:
+ Sau khi thu thập hoặc làm tiêu bản muỗi, có thể sử dụng KHV để soi định
loại muỗi, đánh giá tỷ lệ có mặt các loài muỗi tại vùng nghiên cứu;
+ Hoặc mổ muỗi phát hiện thoa trùng và các vấn đề liên quan khác.
8
BÀI 2:
KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM PHÂN
MỤC TIÊU
Mô tả được quy trình kỹ thuật xét nghiệm phân.
Thao tác kỹ thuật đúng quy trình và nhận định được đúng kết quả.
Hiểu được ưu nhược điểm của một số kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp,
Willis, Kato và kỹ thuật giấy bóng.
I.
Kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp
Kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp thường dùng nước muối sinh lý và dung
dịch lugol nhằm phát hiện trứng giun sán và đơn bào đường ruột có trong mẫu
phân.
1. Chuẩn bị phương tiện
1.1. Dụng cụ:
- Lọ đựng phân có ghi tên, tuổi bệnh nhân
- Lam kính, lamen sạch
- Bút chì kính
- Que tre hoặc que nhựa
1.2. Hoá chất:
- Nước muối sinh lý
- Dung dịch lugol:
+ Iod: 1g
+ Kali Iodid: 2g
+ Nước cất vừa đủ : 100mL
Dung dịch lugol đựng trong lọ màu, thời gian sử dụng 1 tháng
1.3. Bệnh phẩm: Đánh số thứ tự phù hợp với phiếu xét nghiệm
2. Quy trình kỹ thuật
1. Chuẩn bị đủ dụng cụ, hoá chất, bệnh phẩm.
2. Đánh dấu tiêu bản ở đầu bên trái lam kính.
3. Nhỏ một giọt nước muối sinh lý ở bên trái và một giọt lugol ở bên phải lam.
9
4. Dùng que lấy một lượng phân tương đương với đầu que diêm trộn vào giọt nước
muối sinh lý.
5. Lấy thêm phân trộn đều vào giọt lugol.
6. Đậy lamen lên mỗi giọt bằng cách đặt nghiêng một cạnh lamen xuống trước, từ
từ hạ lamen xuống. Đảm bảo vệ sinh, soi vật kính 40x dung dịch khơng tràn,
khơng có bọt.
7. Soi kính hiển vi ở vật kính 10x và vật kính 40x. Soi theo hình chữ chi từ phải
sang trái, từ trên xuống dưới.
8. Ghi kết quả vào phiếu xét nghiệm.
9. Xử lý tiêu bản, bệnh phẩm sau khi xét nghiệm.
3. Tiêu chuẩn một tiêu bản tốt
Tiêu bản không dày quá hoặc mỏng q. Phân hồ đều, khơng có bọt, dịch
phân không tràn ra xung quanh và không tràn sang nhau giữa 2 giọt. Mỗi mẫu phân
làm 2 tiêu bản .
4. Cách đánh giá kết quả:
Đánh giá sơ bộ trong tiêu bản trực tiếp:
Có 1-2 trứng trong 1 vi trường: (+)
Có 3-5 trứng trong 1 vi trường: (++)
Có 6-20 trứng trong 1 vi trường: (+++)
Có >20 trứng trong 1 vi trường: (++++)
Kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp là kỹ thuật định lượng đơn giản, cho kết
qủa nhanh, dụng cụ và hố chất khơng phức tạp, có thể phát hiện được các loại
trứng giun sán, ấu trùng giun và đơn bào có trong phân. Tuy nhiên vì khối lượng
phân ít nên trong trường hợp ít ký sinh trùng, kỹ thuật này có thể khơng phát hiện
được. Vì vậy, để kết luận được trong trường hợp không thấy trứng giun sán và đơn
bào thì nên xét nghiệm 2-3 lần hoặc kết hợp với các phương pháp khác.
II.
Kỹ thuật Willis
Nguyên tắc:
Kỹ thuật Willis dựa trên 2 đặc tính của trứng giun là nổi trong dung dịch nước
muối bão hồ có tỷ trọng cao và dính vào thuỷ tinh.
10
1. Chuẩn bị phương tiện và hóa chất:
+ Lọ thuỷ tinh sạch, cao 5- 6 cm, đường kính miệng lọ 2,5- 3cm, đáy lọ phẳng, tốt nhất
lọ có miệng và đáy bằng nhau. Que tre hoặc que thuỷ tinh. Lam kính, lamen sạch,
pipet nhỏ giọt. Bút chì kính.
+ Dung dịch nước muối bão hồ có tỷ trọng 1,150.
2. Quy trình kỹ thuật:
1.Cho khoảng 5g phân vào lọ penicilline hoặc ống nghiệm.
2. Cho nước muối bão hoà vào khoảng 1/4 lọ.
3. Dùng que xét nghiệm đánh tan phân.
4. Nhỏ tiếp dung dịch nước muối bão hoà vào gần đầy lọ.
5. Vớt bỏ bã nổi trên mặt nước.
6. Dùng ống nhỏ giọt điều chỉnh cho nước đầy miệng lọ cho đến khi mặt nước hơi
vồng lên.
7. Đậy lam kính lên miệng lọ, để yên trong 10 - 15 phút.
8. Lấy lam kính ra, đậy la men lên và đem soi dưới KHV với vật kính 10X và 40X.
8
Hình 2.1. Các bước thực hiện kỹ thuật Willis
Chú ý:
-
Khơng nhỏ nước muối bão hồ quá nhiều hay quáít.
11
Nếu nhiều q thì khi đặt lam kính nước sẽ tràn rangồi.
Nếu ít q thì mặt nước khơng tiếp xúc với bề mặt lam kính,
trứng sẽ khơng dính được vào lamkính.
-
Phải để đúng thời gian mới được lấy lam kính ra, nếu lấy sớm quá trứng
chưa nổi lên; nếu để lâu quá trứng sẽ chìm xuống; kết quả là trứng khơng
dính được vào lamkính.
3. Đánh giá:
Kỹ thuật tập trung trứng Willis đơn giản, cho kết quả nhanh. Ưu điểm của
kỹ thuật này là phát hiện được trứng trong những trường hợp nhiễm ít. Tuy nhiên
kỹ thuật Willis chỉ áp dụng được trong chẩn đốn giun đũa, giun móc, giun tóc mà
khơng có
III.
Xét nghiệm phân bằng phương pháp KATO
Đây là kỹ thuật soi tiêu bản phân dày với giấy Cellophan dùng thay cho lá
kính. Phương pháp này được tổ chức y tế thế giới coi là phương pháp chuẩn để phát
hiện trứng giun sán trong phân, nhất là đối với giun đũa, giun móc/mỏ, giun tóc.
1. Dụng cụ:
-
Phiến kính
-
Giấy Cellophan có thể ngấm nước và dày khoảng 40-50 µm, cắt theo kích
thước 26x28 mm.
-
Dung dịch nhuộm màu giấy Cellophan gồm:
+ Dung dịch xanh Malachit 3% : 1 phần (có tác dụng làm dịu mắt người soi
tiêu bản).
+ Glycerine nguyên chất : 100 phần (có tác dụng làm cho trứng giun sán nổi
lên dễ phát hiện).
+ Nước cất : 100 phần
-
Nút cao su.
-
Kẹp nhỏ.
Cho giấy Cellophan ngâm vào dung dịch nhuộm trên 24 h trước khi dùng,
không nên nhúng sẵn trước thời gian sử dụng quá lâu.
12
2. Kỹ thuật tiến hành:
-
Lấy một lượng phân khoảng 50-60 mg (khoảng bằng hạt ngơ) đặt lên phiến
kính đã có ghi nhãn, tên, tuổi bệnh nhân.
-
Đậy miếng giấy Cellophan đã nhuộm màu lên mẫu phân.
-
Dùng một nút cao su ép lên mặt giấy để dàn phân đều, sao cho mặt giấy tương
đối phẳng nhẵn.
-
Để tiêu bản ở 30 độ trong vịng 20-30 phút.
-
Sau đó đem soi dưới kính hiển vi.
3. Đánh giá
Khả năng phát hiện trứng giun sán của kỹ thuật này cao hơn kỹ thuật xét
nghiệm phân trực tiếp bằng nước muối sinh lý, vì số lượng phân được xét nghiệm
nhiều hơn. Kỹ thuật này có thể dùng xét nghiệm hàng loạt vì nhanh, đơn giản, cũng
ít tốn kém. Tuy nhiên, hình thể trứng giun sán trên tiêu bản Kato hơi khác hơn so
với tiêu bản trực tiếp bằng nước muối sinh lý, đặc biệt là trứng vỏ mỏng như trứng
giun móc, trứng sán lá.
Để đánh giá sơ bộ mức độ nhiễm giun sán qua xét nghiệm hàng loạt, có thể căn
cứ vào mật độ của trứng giun sán (số lượng của trứng đếm được trong toàn bộ vi
trường) được xếp theo 4 nhóm sau:
- Từ 1-9 trứng : +
- Từ 10-99 trứng : ++
- Từ 100 - 999 trứng : +++
- Trên 1000 trứng : ++++
IV. Kỹ thuật giấy bóng kính tìm trứng giun kim (Kỹ thuật Graham)
Ngun tắc:
Trứng giun kim thường được phát hiện ở những vết nhăn hậu môn, hiếm khi
phát hiện được ở trong phân. Vì vậy sử dụng phương pháp băng dính trong để phát
hiện, thu thập trứng giun kim. Yêu cầu về thời gian phải là buổi sáng trước khi trẻ
làm vệ sinh.
Dụng cụ, hóa chất: Kính hiển vi, lame, giấy bóng kính dính.
13
Cách làm: gồm có 06 bước (theo hình 2.2).
Hình 2.2. Các bước thao tác thu thập trứng giun kim.
Khảo sát tiêu bản dưới kính hiển vi:
-
Khảo sát tiêu bản bằng vật kính 10X; khi muốn khảo sát chi tiết, chuyển
sang vật kính 40X.
-
Nên để ánh sáng vừaphải.
-
Khảo sát lần lượt 2 lamen theo hình zic zac (chữ chi) khơng bỏ sót vi
trường nào (hình2.3).
Hình 2.3. Khảo sát tiêu bản theo hình zic zac
14
BÀI 3:
HÌNH THỂ TRỨNG MỘT SỐ LỒI GIUN SÁN
Mục tiêu:
Mơ tả đặc điểm hình dạng, phân biệt đúng các loại trứng giun sán đường
tiêu hóa.
Biết và vận dụng tên khoa học trong việc định danh các loại trứng.
Phân biệt, nhận xét các yếu tố gây nhầm lẫn với trứng, ký sinh trùng ở
trong phân.
I.
Đặc điểm nhận dạng trứng giun sán
1.1. Đặc điểm hình thể:
Các trứng giun sán tuỳ từng loại mà có hình trịn hoặc bầu dục, cân đối hoặc lép
một góc.
1.2. Kích thước:
Đơn vị để đo kích thước trứng giun sán là µm, đa số có kích thước dài từ 4060 µm. Loại nhỏ nhất dài khoảng 25- 30µm, loại lớn nhất dài 150µm.
1.3. Cấu tạo:
Vỏ: vỏ trứng giun sán có thể dày hoặc mỏng, nhẵn hay xù xì, có một lớp hoặc
hai lớp. Có thể có nắp, có gai. Khi trứng giun sán mới bài xuất nhân thường chưa phát
triển là một khối tròn, mịn. Sau một thời gian nhân thường có hạt, phân chia nhiều
nhân hoặc hình thành ấu trùng.
1.4. Màu sắc:
Tuỳ theo từng loại trứng có thể màu vàng, vàng nhạt, xám hoặc trong suốt.
2. Phương pháp quan sát
Đối với trứng các loại giun sán, đầu tiên chỉ cần quan sát ở vật kính 10x để nhận
dạng, sau đó nếu cần quan sát cấu tạo chi tiết thì xem ở vật kính 40x. Cần chú ý điều
chỉnh ánh sáng sao cho phù hợp với độ trong của tiêu bản, không để sáng quá hoặc tối
quá.
3. Hình thể các loại trứng giun sán
3.1. Trứng giun đũa (Ascaris lumbricoides)
Trứng giun đũa đã thụ tinh:
- Hình thể: tròn hoặc bầu dục.
15
- Kích thước: 40- 50 x 50- 75 µm.
- Màu vàng sẫm hoặc vàng nhạt.
- Vỏ dày, có nhiều lớp,
Hình 3.1. Trứng giun đũa thụ tinh
- Nhân: Khi mới bài xuất là một khối tròn sẫm màu.
Nhân của trứng giun đũa phát triển qua các giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nhân có 1 khối trịn chưa phân chia.
Giai đoạn 2: Nhân phân chia 2- 4 nhân.
Giai đoạn 3: Nhân phân chia 5- 8 hoặc nhiều hơn (Trứng hình dâu).
Giai đoạn 4: Nhân phát triển thành ấu trùng bên trong trứng.
3.1.2. Trứng giun đũa chưa thụ tinh:
- Hình bầu dục dài, 2 đầu vng.
- Kích thước lớn 40- 45 x 85- 95µm.
- Màu vàng nhạt hoặc khơng có màu.
- Nhân có những hạt triết quang không đồng đều.
3.1.3 Trứng giun đũa đã bị thối hố ở ngoại cảnh:
- Hình thể bị biến dạng hoặc teo nhỏ.
Hình 3.2. Trứng giun đũa chưa thụ tinh
- Vỏ albumin bị rách, vỏ trong bị bong.
- Nhân teo hoặc bị tan, trong nhân xuất hiện những không bào.
3.2. Trứng giun tóc (Trichuris trichiura)
- Hình bầu dục, giống như quả cau hai cực có 2 nút trong.
- Kích thước 22- 24 x 50- 55 µm.
- Màu vàng đậm.
- Vỏ dày, có 2 lớp.
- Nhân khi mới bài xuất là khối mịn.
Hình 3.3. Trứng giun tóc
16
3.3. Trứng giun móc (Ancylostoma duodenale)
-
Hình bầu dục.
-
Kích thước 35- 40 x 60- 70 µm.
-
Vỏ mỏng.
-
Màu xám trong.
-
Nhân đã phân chia 4- 8 nhân, sau 24- 48 giờ có hình ảnh ấu trùng.
Hình 3.4. Trứng giun móc
3.4. Trứng giun kim (Enterobius vermicularis)
- Hình bầu dục, khơng cân đối, lép một góc.
- Kích thước 30- 32 x 50- 60 µm.
- Vỏ mỏng, có 2 lớp.
- Màu trong suốt, bên trong là khối nhân hoặc ấu trùng.
Hình 3.5. Trứng giun kim
3.5. Trứng sán lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis)
- Hình bầu dục giống hạt vừng, một cực có nắp, một cực có một gai nhỏ.
- Kích thước 12- 17 x 25- 35 µm.
- Màu vàng nhạt hoặc vàng nâu.
- Vỏ mỏng, có 2 lớp.
- Nhân đã phát triển thành phôi nằm trong trứng.
17
Hình 3.6. Trứng sán lá gan nhỏ
III.6. Trứng sán lá gan lớn (Fasciola hepatica)
-
Hình thuẫn lớn
-
63-90 x 130-150µm
-
Vỏ: 2 lớp, màu vàng, 1 đầu có nắp
-
Nhân: nhiều tế bào
Hình 3.7. Trứng sán lá gan lớn
3.7. Trứng sán lá phổi (Paragonimus Spp)
-Hình bầu dục, một đầu có nắp, một đầu vỏ dày lên.
- Kích thước 45- 70 x 80- 120 µm.
- Màu vàng. - Vỏ mỏng, một lớp.
- Nhân là một khối có hạt, chiết quang.
Hình 3.8. Trứng sán lá phổi
3.8. Trứng sán lá ruột (Fasciolopsis buski)
- Hình bầu dục.
- Kích thước 75-90 x125- 140 µm.
- Đây là trứng lớn nhất trong các trứng giun sán ký sinh đường tiêu hoá.
- Màu trong.
- Vỏ mỏng, có nắp ở một đầu.
- Nhân có nhiều hạt, chiết quang.
Hình 3.9. Trứng sán lá ruột
18
3.9. Trứng sán dây bò (Taenia saginata), sán dây lợn (Taenia solium)
-
Hình trịn hoặc tương đối trịn.
-
Kích thước: đường kính 30- 40 µm.
-
Màu vàng nhạt. - Vỏ dày có 2 lớp và những đường khía ngang.
-
Nhân là một khối trịn được bao bọc bởi một màng mỏng, bên trong có hình 6
móc chiết quang.
Hình 3.10. Trứng sán dây bị
3.10. Trứng sán máng (Schistosoma).
Trứng sán máng hình bầu dục, có 1 gai. Dựa vào vị trí của gai có thể phân biệt
được từng loại trứng sán máng.
Kích thước: đường kính 90- 150 µm.
Trứng có gai, những gai này làm rách niêm mạc vi quản để ra nước phát triển
thành trùng lông, trùng lơng bơi trong nước để tìm đến vật chủ trung gian là ốc để phát
triển thành trùng đi
Hình 3.11. Trứng sán máng Schistosoma
19
4. Các vật thể có thể nhầm với trứng giun sán
- Tế bào thực vật: Kích thước khoảng 50- 100 mm, hình trịn, bầu dục, dài, méo mó
hoặc xù xì, màu trắng nhạt hoặc hơi vàng. Nếu bên trong có tinh bột thì khi nhuộm
lugol sẽ có màu tím.
- Lơng hút thực vật: Kích thước thay đổi, có hình kiếm, một đầu nhọn, bên trong là một
khối rỗng màu vàng tươi hoặc trắng.
- Bọt khí, giọt dầu mỡ: Hình trịn, kích thước thay đổi, chiết quang, bên trong rỗng.
- Hạt phấn hoa: Kích thước rất thay đổi, có hình thể đặc biệt.
- Sợi thịt đã tiêu hố: Kích thước khoảng 100- 200 mm, hình bầu dục hoặc chữ nhật,
bên trong trong suốt khơng có hạt, có thể có khía.
- Xà phịng: Hình trịn hoặc bầu dục, kích thước 20-100 mm, màu vàng hoặc khơng
màu, bên trong có khía hình nan hoa.
Hạt phấn hoa
Bào tửNấm
nấmmen
Giọt dầu
20
Bảng 3.1. So sánh kích thước trứng các loại giun sán
21
BÀI 4: HÌNH THỂ MỘT SỐ LỒI GIUN SÁN
Mục tiêu:
Mơ tả được đặc điểm hình thể và nhận dạng một số lồi giun sán.
Mơ tả đặc điểm hình thể và nhận dạng một số loài ấu trùng giun sán.
I.
Khái niệm về giun sán
Giun sán là từ gọi chung về loại ký sinh trùng thường ký sinh ở người hay động
vật. Giun thường có hình trịn, hình ống, dài nên còn gọi là giun tròn (Nematoda) bao
gồm các loại giun đũa, giun tóc, giun móc, giun kim, giun lươn, giun chỉ, giun xoắn ...
Sán thường có hình dẹt, cịn được gọi là giun dẹt bao gồm các loại sán lá (Trematoda)
như sán lá gan, sán lá ruột, sán lá phổi, sán máng ... ; các loại sán dây (Cestode) như
sán dây lợn, sán dây bò ... Bệnh giun sán của người và bệnh giun sán của động vật có
sự liên quan với nhau, trong đó đáng chú ý là các bệnh giun sán của các động vật nuôi
sống gần gũi với con người như chó, mèo, lợn, vịt... đã được y học quan tâm. Ngoài
các loại giun sán ký sinh gây bệnh cho người, con người cũng có thể bị nhiễm bệnh
giun sán của các động vật nuôi, kể cả mắc bệnh giun sán của các động vật hoang dã,
cịn có một khái niệm là ký sinh trùng lạc chủ. Trong những trường hợp người bị mắc
bệnh giun sán từ các loại động vật nuôi hay động vật hoang dã truyền sang rất khó
chẩn đốn bệnh và thường cơ thể có các phản ứng rất mạnh như triệu chứng sốt cao, tế
bào bạch cầu ái toan (eosinophil) tăng cao ... Bệnh cảnh lâm sàng xảy ra ào ạt làm cho
người thầy thuốc khó phát hiện, chẩn đốn ra bệnh.
1. Giun đũa (Ascaris lumbricoides); Roundworm
• Con đực: 15-17 cm. Con cái: 20-25 cm.
• Màu trắng sữa hay hơi hồng.
• Thân trịn, 2 đầu hơi nhọn, khơng phân đốt.
• Miệng có 3 mơi phát triển và 1 ống tiêu hố.
• Con đực đi cong về phía bụng, có 2 gai sinh dục.
• Con cái đi thẳng có đoạn thắt 1/3 trước cơ thể.
Hình 4.1. Giun đũa trưởng thành
22
2. Giun tóc (Trichuris trichiura); Whipworm
Màu hồng nhạt, thân chia làm 2 phần.
Con đực dài 30-40 mm, đuôi cong, cuối đi có một gai sinh dục.
Con cái dài 30-50 mm, đi thẳng.
Hình 4.2. Giun tóc trưởng thành
3. Giun móc/mỏ (Ankylostoma duodenale; Necator americanus); Hookworm
Giun móc và giun mỏ thuộc họ Ancylostomidae ký sinh ở người. Đặc điểm của
họ giun này là giun có bao miệng phát triển. Miệng có các cơ quan sắc dùng ngoạm
vào niêm mạc ruột của vật chủ để hút máu. Trong họ này có giống Ancylostoma và
giống Necator. Giống Ancylostoma bao gồm các loài Ancylostoma duodenale ký sinh
ở người, A. caninum ký sinh ở chó. Giống Necator ký sinh ở người là lồi Necator
americanus. Ở Việt Nam có hai lồi ký sinh là Ancylostoma duodenale (giun móc) và
Necator americanus (giun mỏ). Hai lồi này dễ dàng phân biệt về mặt hình thể nhưng
các đặc điểm khác về sinh học, dịch tễ, bệnh học, chẩn đốn, điều trị và phịng bệnh
cũng gần giống nhau.
Hình 4.3. Đầu giun tóc
Hình 4.4. Đầu giun mỏ
23
4. Giun Kim (Enterobius vermicularis) pinworm
Giun kim là một loại giun nhỏ, sống chủ yếu ở đường tiêu hóa, giun kim cái
thường ra rìa hậu mơn để đẻ trứng và vì vậy, mỗi lần đẻ trứng thì sẽ kích thích niêm
mạc hậu môn gây ngứa, sưng tấy làm cho trẻ rất khó chịu. Giun kim trưởng thành gặp
chủ yếu ở ruột non sau đó chúng xuống ruột già (đại tràng). Ở trong ruột người, giun
kim đực và giun kim cái giao phối với nhau, sau khi giao phối giun đực chết, còn giun
kim cái mang trứng đã thụ tinh ra rìa hậu mơn để đẻ khoảng 4.000 - 200.000 trứng.
Đặc điểm nhận dạng:
Màu trắng, miệng gồm 3 phôi.
Giun cái dài 9-12 mm, giun đực dài 3-5 mm.
Thực quản có ụ phình.
Hình 4.5. Giun Kim trưởng thành
5. Giun chỉ bạch huyết trưởng thành (Filariasis)
Giun chỉ bạch huyết khi trưởng thành đều có hình dạng rất giống nhau, trơng
như sợi chỉ trắng sữa. Con cái kích thước 25 - 100 mm, con đực kích thước: 13 - 40
mm. Giun thường cuộn lại với nhau như đám chỉ rối trong hệ bạch huyết.
Miệng giun chỉ cấu tạo đơn giản, bao miệng khơng rõ ràng, thực quản có hình ống.
Giun chỉ có các cơ quan tiêu hóa, tuần hồn, sinh dục, thần kinh. Giun đực có hai gai
giao phối, giun cái có tử cung chiếm phần lớn thân, trong có nhiều bọc chứa ấu trùng.
Giun cái đẻ ra ấu trùng gọi là phơi giun chỉ.
Có hai lồi chính là Wuchereria bancrofti và Brugia malayi. Trung gian truyền
bệnh là một số loài muỗi như: Anopheles, Culex. quinquefasciatus; Aedes, Mansonia .
24
Hình 4.6. Giun chỉ W. bancrofti trưởng thành; con đực nhỏ bên trái; con cái lớn hơn bên phải
II.
Hình thể một số lồi ấu trùng giun
II.1. Ấu trùng giun móc, mỏ
Hình thể ấu trùng giun móc mỏ: Rất khó phân bịêt ấu trùng 2 loại giun
+ Ấu trùng giai đoạn I (là ấu trùng mới nở ra khỏi trứng) cơ thể hình ống, đầu hơi
tầy, đi nhỏ, kích thước 220 x16µm, phần cuối thực quản có ụ phình hình củ hành.
+ Ấu trùng giai đoạn III (là ấu trùng có khả năng xun qua da vào vật chủ) có hình
ống, kích thước 580 - 600 x 17 µm . Thực quản hình sợi.
Hình 4.7. Ấu trùng giun móc/mỏ
II.2. Ấu trùng giun lươn
Ấu trùng phát triển rất nhanh thành ấu trùng có thực quản hình ụ trong trứng và
thốt vỏ ngay trong ruột, theo phân ra ngồi nên rất ít khi thấy trứng giun lươn trong
phân trừ trường hợp bệnh nhân bị ỉa chảy nhiều. Ấu trùng tiếp tục phát triển ở ngoại
cảnh thành ấu trùng có thực quản hình trụ có khả năng xâm nhập qua da người hoặc
25