Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Biện pháp bảo lĩnh theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM ANH

BIỆN PHÁP BẢO LĨNH THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BIỆN PHÁP BẢO LĨNH THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Thị Kim Anh
Lớp: Cao học Luật, khóa K30

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Biện pháp bảo lĩnh theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi, dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ


của Tiến sĩ Võ Thị Kim Oanh. Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả của Luận văn

Nguyễn Thị Kim Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS: Bộ luật hình sự
2. BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
3. BLDS: Bộ luật dân sự
4. CQĐT: Cơ quan điều tra
5. VKS: Viện kiểm sát
6. TA: Tòa án
7. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
8. TTHS: Tố tụng hình sự
9. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
10. BPNC: Biện pháp ngăn chặn
11. BPCC: Biện pháp cưỡng chế
12. THTT: Tiến hành tố tụng


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................................................... 1
1.1

Khái niệm chung về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ................... 1


1.1.1

Định nghĩa về biện pháp bảo lĩnh ............................................................. 1

1.1.2

Đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh .............................................................. 4

1.1.3

Ý nghĩa của quy định biện pháp bảo lĩnh .................................................. 8

1.2

Cơ sở quy định biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ......................... 11

1.3 Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển quy định về biện pháp bảo lĩnh
trong tố tụng hình sự Việt Nam trước năm 2015 ................................................ 16
1.4 Biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia
trên thế giới ........................................................................................................... 18
1.4.1

Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga............ 18

1.4.2

Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản .................... 21

1.4.3


Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Trung Hoa .................. 24

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS 2015 VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG........................................................................................... 28
2.1

Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về biện pháp bảo lĩnh ........... 28

2.1.1

Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. ....................................................... 28

2.1.2

Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh ................................................. 31

2.1.3

Thủ tục áp dụng, thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh ............................ 32

2.1.4

Đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh .................................................... 38

2.1.5

Chủ thể nhận bảo lĩnh ............................................................................. 40

2.1.6


Hủy bỏ, thay thế biện pháp bảo lĩnh ........................................................ 44

2.2

Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh ........................................................ 46

2.2.1

Thực tiễn áp dụng về thời điểm bảo lĩnh ................................................. 49

2.2.2

Thực tiễn áp dụng về căn cứ bảo lĩnh...................................................... 51


2.2.3

Thực tiễn về thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................. 54

2.2.4

Thực tiễn về thủ tục và thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh .................. 55

2.2.5

Thực tiễn về đối tượng được áp dụng biện pháp bảo lĩnh ........................ 58

2.2.6

Thực tiễn về chủ thể nhận bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của chủ thể nhận


bảo lĩnh .............................................................................................................. 60
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
BẢO LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................ 65
3.1 Nhu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình
sự ........................................................................................................................... 65
3.2 Các giải pháp hồn thiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp bảo lĩnh ........................................................................................................ 68
3.2.1 Hoàn thiện quy định về biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành. ........................................................................................................... 68
3.2.2

Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh. .... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trải qua quá trình lập pháp lâu dài, chế định về các biện pháp ngăn chặn trong pháp
luật tố tụng hình sự đã và đang khẳng định vai trị quan trọng của mình trong cơng cuộc
đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và
dần được hoàn thiện hơn rất nhiều ở thời điểm hiện tại. Hiện nay, các BPNC được quy
định một cách hệ thống tại Chương VII của BLTTHS 2015, bao gồm 07 BPNC độc lập
có tính chất, mức độ ngăn chặn và khả năng tác động khác nhau lên các đối tượng.
Hoạt động áp dụng các BPNC từ trước đến nay luôn là vấn đề nhạy cảm và được các
cơ quan tiến hành tố tụng hết sức chú trọng vì chúng tác động trực tiếp tới các quyền con
người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận như: quyền bất khả xâm
phạm thân thể, quyền tự do đi lại, quyền làm việc, học tập..v..v.. Do vậy, trong công tác
thực tiễn, trên cơ sở nguyên tắc tại Điều 8 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, các cơ quan
THTT trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải cân nhắc sử dụng các BPNC
phù hợp, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp của những biện pháp đã áp dụng và kịp

thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
không cần thiết. Bên cạnh việc giao phó các chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan THTT,
BLTTHS 2015 còn cho phép quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động tố tụng
liên quan đến triển khai thi hành một số BPNC. Việc quy định như vậy đã tạo tiền đề, cơ
sở cho việc đưa các BPNC không giam giữ đi vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Nổi
bật trong số đó là biện pháp bảo lĩnh được quy định tại Điều 121 BLTTHS 2015, theo
đó căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị
can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Việc áp dụng bão lĩnh sẽ góp phần làm hạn chế tạm giam đối với bị can, bị cáo theo đúng
tinh thần chỉ đạo tại các Nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
năm 2020 hướng tới việc hạn chế áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc nói chung và


hạn chế, thay thế áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng. Điều này khơng chỉ đem lại ý
nghĩa tích cực đối với cơ quan THTT trong quá trình thực thi pháp luật, thể hiện sự quan
tâm, tin tưởng của Nhà nước đối với bị can, bị cáo mà còn mang ý nghĩa quan trọng về
mặt kinh tế, phát huy tối đa sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm.
Mặc dù là một biện pháp ưu việt, song thực tiễn áp dụng trong nhiều năm qua cho
thấy, biện pháp bảo lĩnh được sử dụng ít hơn so với các BPNC khác. Bởi, pháp luật thực
định về biện pháp này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Một số nội dung chưa được quy
định rõ ràng và còn thiếu nhiều quy phạm hướng dẫn, khiến cho việc áp dụng của các cơ
quan THTT trong thực tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Có thể kể đến như: quy định
về căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh còn thiếu cụ thể, chưa quy định tiêu chí, điều kiện
đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh hay không quy định thủ tục bàn giao đối tượng,
chấm dứt bảo lĩnh,..v..v..Vì vậy, cho đến nay, việc có được bảo lĩnh cho bị can, bị cáo

hay khơng là hoàn toàn tùy thuộc vào nhận định của CQĐT, VKS, TA. Điều đó làm ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả áp dụng biện pháp này cũng như có thể làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Xuất phát từ lý do trên, tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận
chung, pháp luật thực định và thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh, qua đó đánh giá
những mặt tích cực, hạn chế, xác định rõ nguyên nhân nhằm góp phần hồn thiện, nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp này là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Biện pháp bảo lĩnh theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp bảo lĩnh nói riêng là một trong những
chủ đề được nhiều tác giả trong lĩnh vực tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu ở nhiều
góc độ và cơng bố nhiều cơng trình khoa học khác nhau. Có thể kể đến một số tác giả
với các đề tài như sau:
Giáo trình, sách chuyên khảo, bài báo khoa học:


-

Nguyễn Mai Bộ (1997), Cơng trình Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cơng trình này của tác giả đã đi sâu
nghiên cứu một cách toàn diện về các BPNC trong TTHS Việt Nam. Đây chính
là tài liệu hữu ích góp phần làm sáng tỏ những lý luận chung về biện pháp bảo
lĩnh cũng như vai trị, vị trí của biện pháp này trong TTHS Việt Nam.

-

Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2014) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Đây là nguồn tài liệu hữu ích góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận về các BPNC nói chung cũng như biện pháp ngăn chặn bảo

lĩnh nói riêng.

-

Trần Quang Tiệp (2005), “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát. Viện kiểm sát Nhân dân tối cao tối cao, (07). Bài
viết đã nêu được những vấn đề lý luận chung về BPNC trong TTHS.

-

Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy định trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát Viện kiểm sát Nhân dân tối
cao tối cao, (15). Bài viết này của tác giả Trần Quang Tiệp đã phân tích được một
số cơ bản về biện pháp bảo lĩnh theo BLTTHS năm 2003 cũng như đề cập đến
những thiếu sót của pháp luật thực định về biện pháp bảo lĩnh và thể hiện quan
điểm của mình về vấn đề này.

-

Trịnh Tiến Việt (2010), “Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và hướng sửa
đổi, bổ sung”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội, (02). Bài viết
đã thể hiện được những nội dung cịn thiếu sót về việc quy định biện pháp bảo
lĩnh và nêu ra những hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định hiện hành.

Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ Luật học:
-

Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường Đại
học Luật Hà Nội. Tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá về thực trạng áp dụng

các biện pháp ngăn chặn có giam giữ như bắt, tạm giữ, tạm giam trong thực tế.
Bên cạnh đó, xác định những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan


của những bất cập cịn tồn tại, từ đó đưa ra quan điểm giải pháp để hoàn thiện các
quy định của pháp luật TTHS hiện hành.
-

Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đi sâu vào
nghiên cứu lý luận chung, pháp luật thực định về các BPNC. Tác giả cũng đã có
những thống kê, khảo sát, phân tích, đánh giá về tình hình áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong thực tế, đồng thời đưa ra được một số phương hướng, giải pháp
cụ thể để hoàn thiện những quy định này trong đó có biện pháp bảo lĩnh.

-

Nguyễn Sơn Phước (2018), Biện pháp Bảo lĩnh: nghiên cứu so sánh pháp luật tố
tụng hình sự Anh và kinh nghiệm cho Viêt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả đã nghiên cứu quy định về biện pháp bảo
lĩnh trong BLTTHS 2015 cũng như tiến hành so sánh với pháp luật thực định của
nước Anh trên các phương diện: căn cứ áp dụng, chủ thể có thẩm quyền, đối tượng
áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các bên. Trên cơ sở
phát hiện, đánh giá những ưu điểm trong pháp luật TTHS của Anh đưa ra hướng
đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành.

-

Huỳnh Văn Thuận (2013), Bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả đã đi sâu

nghiên cứu, phân tích quy định về biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS 2015. Bên
cạnh đó, tiến hành đánh giá thực tiễn áp dụng, những điểm còn hạn chế bất cập
và đưa ra các giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả áp dụng BPNC này.

Khóa luận tốt nghiệp:
Cao Thị Thùy Dung (2001), Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả đã nêu được các vấn đề cơ bản
về biện pháp bảo lĩnh theo quy định tại BLTTHS 1988.
Phần lớn các cơng trình tập trung vào việc nghiên cứu biện pháp bảo lĩnh trong Bộ
luật TTHS 1988, 2003, các cơng trình nghiên cứu biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật TTHS
2015 mới chỉ khái quát sơ bộ về biện pháp bảo lĩnh trong TTHS nên chưa toàn diện,
chuyên sâu cả về lý luận lẫn thực tiễn và vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Vì


vậy tác giả luận văn tiếp tục nghiên cứu và phát triển về đề tài này. Tiến hành phân tích
pháp luật thực định cùng với đánh giá thực tiễn áp dụng để từ đó đưa ra đề xuất, kiến
nghị hồn thiện trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu Luận văn muốn làm rõ quy định của pháp luật về biện pháp bảo
lĩnh trong BLTTHS 2015, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhằm làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để từ đó đưa
ra các đề xuất, giải pháp, những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh
ở Việt Nam.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài biện pháp bảo lĩnh trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật về biện pháp bảo lĩnh theo
pháp luật hiện hành, so sánh với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003.
Về khơng gian: Tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong phạm vi cả

nước, trong đó tập trung vào những địa bàn trọng điểm về trật tự an toàn xã hội.
Về thời gian: Tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu quy định của pháp luật, thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật về biện pháp bảo lĩnh từ năm 1945 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sự của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về biện pháp
bảo lĩnh theo Luật TTHS Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài bao
gồm: phương pháp so sánh được sử dụng nhằm tìm ra sự khác biệt giữa quy định về biện
pháp bảo lĩnh trong BLTTHS 1988, 2003 với BLTTHS 2015 và các phương pháp khác
như: thống kê tư pháp, khoa học lịch sử, so sánh kết hợp với phân tích xã hội học, phương


pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp quy nạp, diễn dịch được sử dụng linh hoạt phù
hợp với yêu cầu của từng nội dung cụ thể.
5. Đóng góp của Luận văn
Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận khoa học và cơ sở pháp lý về BPNC bảo lĩnh,
qua đó góp phần hồn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp này vào trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc
học tập và nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo Luật hoặc phục vụ cho việc trang bi ̣những
kiến thức chuyên sâu cho các cán bô ̣đang công tác tại các CQĐT, VKS, TA và cơ quan
Thi hành án góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có
căn cứ và đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo bổ
ích cho những học viên, sinh viên quan tâm và mong muốn tìm hiểu đầy đủ về biện pháp
bảo lĩnh.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về biện pháp bảo lĩnh và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự.


1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO
LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm chung về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
1.1.1 Định nghĩa về biện pháp bảo lĩnh
Biện pháp bảo lĩnh là một trong những chế định tiến bộ đã được ghi nhận rất sớm
trong pháp luật TTHS của nước ta, chính thức được quy định trong BLTTHS 1988
(Điều 75), ngày càng hoàn thiện hơn trong BLTTHS 2003 (Điều 92) và hiện nay là
BLTTHS 2015 (Điều 121). Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, biện pháp bảo lĩnh
mới chỉ được hiểu đơn giản với tư cách là BPNC thay thế cho biện pháp tạm giam
trong TTHS chứ chưa có bất kỳ khái niệm chính xác như thế nào là biện pháp bảo
lĩnh hay bản chất pháp lý của biện pháp này lả gì.
Khi tra cứu thuật ngữ bảo lĩnh tại các từ điển tiếng việt thì hầu hết đều cho ra kết
quả tương đương nghĩa với từ “bảo lãnh”. Cụ thể, theo từ điển tiếng Việt phổ
thông:“bảo lĩnh cũng như bảo lãnh là việc bảo đảm người khác thực hiện một nghĩa
vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó khơng thực hiện” 1, theo từ điển tiếng việt Soha
“Bảo lãnh là việc bảo đảm cho (một cá nhân hoặc tổ chức) làm một việc hoặc hưởng
một quyền lợi có gắn với nghĩa vụ, chịu trách nhiệm nếu (cá nhân hoặc tổ chức ấy)
sau này không thực hiện nghĩa vụ”2 hay theo từ điển tiếng việt Lạc Việt “Bảo lãnh
là việc bảo đảm người khác chịu trách nhiệm nếu người đó khơng thực hiện; dùng uy
tín để bảo đảm cho hành động của người khác”3.
Trong đời sống hằng ngày hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng gần như là giống

nhau. Tuy nhiên, theo quy định của luật “bảo lĩnh” và “bảo lãnh” lại là hai chế định
hoàn toàn khác nhau và tách biệt ở hai ngành luật độc lập, sự khác nhau ở đây là về
bản chất chứ không chỉ về cách phát âm. Nếu như bảo lãnh chỉ có trong quan hệ pháp
luật dân sự thì bảo lĩnh chỉ có trong TTHS. Bảo lãnh, theo BLDS 2015 được hiểu là
“biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Cụ thể hơn, theo quy định tại Khoản
1 Điều 335 BLDS 2015 thì “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
Viện ngôn ngữ học (2009), từ điển Tiếng việt phổ thơng, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, tr.33
truy cập ngày 03/03/2020.
3
truy cập ngày
03/03/2020
1
2


2

thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ”4. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện
nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều
361). Chế định bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự được quy định rất cụ thể về
hình thức bảo lãnh (Điều 362), phạm vi bảo lãnh (Điều 363), thù lao (Điều 364),
trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh (Điều 365), quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên
nhận bảo lãnh (Điều 366), quyền yêu cầu của bên bảo lãnh (Điều 367), miễn việc
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 368), xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369),
hủy bỏ việc bảo lãnh (Điều 370), chấm dứt việc bảo lãnh (Điều 371).
Đối với “bảo lĩnh” thì trong khoa học pháp lý hiện nay đang tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về cùng một khái niệm của chế định này, có thể kể đến như sau:

Tác giả Nguyễn Ngọc Chí cho rằng:“Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự được các cơ quan THTT áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân
hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản
trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các
cơ quan THTT”5. Quan điểm này đã nêu được rõ đối tượng áp dụng biện pháp bảo
lĩnh cũng như chủ thể nhận bảo lĩnh nhưng không thể hiện rõ bản chất pháp lý, căn
cứ áp dụng và cơ quan tố tụng cụ thể nào có thẩm quyền áp dụng BPNC này.
Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng:“Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn do CQĐT,
VKS hoặc tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo thể hiện ở việc cá nhân hoặc tổ chức
đứng ra nhận trách nhiệm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự
có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT”6. Khái niệm này đã
nêu được cụ thể các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, hình thức
và mục đích áp dụng nhưng lại chưa đưa ra căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
Tác giả Trần Quang Tiệp nêu:“Bảo lĩnh là BPNC được các cơ quan THTT áp
dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm
giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT

Khoản 1 Điều 335 Bộ luật dân sự 2015
Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr.230
6
Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn, khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Tư pháp, tr.184, 185
4
5


3


khi cần”7. Khái niệm này của tác giả đã nêu lên được đối tượng bị áp dụng là bị can,
bị cáo, khẳng định bản chất của bảo lĩnh là BPNC để thay thế biện pháp tạm giam và
đưa ra được mục đích của việc áp dụng. Tuy nhiên, tương tự với quan điểm của TS.
Nguyễn Ngọc Chí, TS. Nguyễn Mai Bộ thì khái niệm này cũng chưa đề cập cụ thể rõ
căn cứ và hình thức áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
GS.TS Võ Khánh Vinh có quan điểm cho rằng:“Bảo lĩnh là BPNC được quy định
trong BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối
với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng
trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập
của CQĐT, VKS hoặc Tòa án”8. Điểm nổi bật của khái niệm này chính là việc bên
cạnh việc đề cập được hầu hết các nội dung cần thiết như: chủ thể có thẩm quyền áp
dụng, mục đích, đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh thì tác giả đã thể hiện được
các yếu tố thuộc bản chất của BPNC như: là biện pháp thay thế tạm giam, có tính chất
ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam và áp dụng trong trường hợp không cần thiết
phải tạm giam nhưng cần phải ngăn ngừa. Tuy nhiên, khái niệm này lại có nhược
điểm là chưa đề cập tới căn cứ áp dụng bảo lĩnh và các hình thức bảo lĩnh.
Tác giả Nguyễn Sơn Phước cho rằng: “Bảo lĩnh là một trong những BPNC được
quy định trong luật TTHS do cơ quan có thẩm quyền áp dụng theo luật định, căn cứ
vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của
bị can, bị cáo, khi không cần thiết phải tạm giam, nhưng xét thấy cần ngăn chặn việc
họ có thể cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng được các điều kiện luật định,
được người thân thích hoặc cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là thành viên đứng ra
cam đoan không để cho bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và có mặt theo giấy triệu tập
của CQĐT, VKS, tịa án”9. Có thể thấy rằng, nếu so sánh với các khái niệm đã được
đề cập ở trên thì quan điểm này của tác giả Nguyễn Sơn Phước đã thể hiện gần như
là đầy đủ, chính xác các nội dung cần phải có về khái niệm bảo lĩnh và bản chất pháp
lý của BPNC này.

Trần Quang Tiệp (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Nguyễn Ngọc

Anh chủ biên,, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.209
8
Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003, Nxb Cơng an Nhân
dân, Hà Nội, tr. 215
9
Nguyễn Sơn Phước (2018), Biện pháp bảo lĩnh: Nghiên cứu so sánh pháp luật tố tụng hình sự Anh và kinh
nghiệm cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp, Hồ Chí Minh, tr. 13
7


4

Đến BLTTHS 2015 thì biện pháp bảo lĩnh được hiểu như sau:“Bảo lĩnh là biện
pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa
án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”10. Có thể thấy rằng, quy định này đã nêu
được chủ thể có thẩm quyền áp dụng, đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh,
tuy nhiên vẫn chưa thể hiện đầy đủ các nội dung quan trọng khác như: bản chất pháp
lý, mục đích, hình thức áp dụng..v..v..
Nhìn chung, các quan điểm được đề cập ở trên và quy định của pháp luật TTHS
hiện hành về cơ bản đã đáp ứng được tinh thần của Hiến pháp 2013, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Qua việc phân tích và tổng hợp các khái niệm đó, tác giả đưa ra định nghĩa
khoa học về biện pháp bảo lĩnh như sau:
“Biện pháp bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định
trong Luật tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng xét thấy
cần ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Trên cơ sở xem xét nhân thân, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của bị can, bị cáo và được người thân thích hoặc
cơ quan, tổ chức mà bị can, bị cáo là thành viên đứng ra nhận bảo lĩnh và cam đoan

không để họ cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời đảm bảo có mặt theo giấy triệu
tập của cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể
quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định.”
1.1.2 Đặc điểm của biện pháp bảo lĩnh
Thứ nhất, biện pháp bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
BPNC là một trong những chế định được xây dựng và quy định rất sớm trong
pháp luật TTHS của nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ chủ động phòng ngừa, ngăn chặn
tội phạm, không để lọt tội phạm và không làm oan người vơ tội thì BLTTHS cho
phép cơ quan THTT áp dụng các BPNC trong quá trình giải quyết bất kỳ VAHS nào.
Trải qua rất nhiều lần sửa đổi, bổ sung tại các BLTTHS trước đây thì cho đến nay, hệ
thống các BPNC bao gồm 07 biện pháp độc lập được quy định cụ thể tại Chương VII
BLTTHS 2015 như sau: giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110), bắt người
phạm tội quả tang (Điều 111), bắt người đang bị truy nã (Điều 112), tạm giữ (Điều
10

Khoản 1 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015


5

117), tạm giam (Điều 119), bảo lĩnh (Điều 121), đặt tiền để bảo đảm (Điều 122), cấm
đi khỏi nơi cư trú (Điều 123) và tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124).
Với tư cách là một BPNC trong TTHS Việt Nam thì biện pháp bảo lĩnh mang đầy
đủ bản chất của một BPNC, điển hình như: (i) có tính cưỡng chế nhà nước; (ii) có
tính chất lựa chọn; (iii) việc áp dụng BPNC có khả năng phịng ngừa, ngăn chặn việc
thực hiện tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; (iv)
việc áp dụng BPNC làm hạn chế một số quyền và tự do cá nhân nhất định được ghi
nhận trong Hiến pháp và pháp luật; (v) có tính chất nghiêm khắc hơn so với các biện
pháp cưỡng chế khác trong TTHS..v..v.. Biện pháp bảo lĩnh cùng với các BPNC khác
trong TTHS đã và đang là phương tiện hiệu quả nhất trong công cuộc đấu tranh phòng

ngừa, ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho quá trình giải quyết VAHS đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật; góp phần bảo vệ pháp chế, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Thứ hai, biện pháp bảo lĩnh được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam.
Biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 119 BLTTHS 2015. Trong hoạt động
TTHS, tạm giam là một trong các biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất, các
đối tượng bị áp dụng biện pháp này bắt buộc phải có nghĩa vụ chấp hành, họ bị tước
bỏ một số quyền cơ bản của công dân đặc biệt là quyền tự do thân thể trong khoảng
thời gian dài hơn so với tạm giữ và các BPNC cịn lại. Chính vì tính cưỡng chế mạnh
và ảnh hưởng đến quyền con người của bị can, bị cáo mà việc áp dụng biện pháp tạm
giam chỉ đặt ra khi việc áp dụng các BPNC khác khơng đạt được mục đích ngăn chặn,
trong đó có biện pháp bảo lĩnh.
Khoản 1 Điều 121 BLTTHS 2015 đã khẳng định rất rõ “biện pháp bảo lĩnh là
biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam”. Từ quy định này có thể thấy rằng, tạm giam
và bảo lĩnh có mối liên kết cực kỳ chặt chẽ với nhau cũng như bổ trợ cho nhau trong
quá trình giải quyết VAHS. Hai BPNC này đều mang tính tạm thời và chỉ được áp
dụng trong trường hợp luật định. Trong quá trình giải quyết VAHS, nếu xét thấy
không cần thiết tạm giam nhưng vẫn cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội thì cơ quan THTT sẽ thay thế biện pháp tạm giam bằng biện
pháp bảo lĩnh nếu đáp ứng đầy đủ điều kiện luật định. Việc pháp luật ghi nhận như
trên mang ý nghĩa tích cực, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo có điều kiện học tập, sản
xuất, kinh doanh..v..v..trong cuộc sống thường nhật nhưng vẫn bảo đảm sự có mặt


6

của họ tại cơ quan THTT khi được triệu tập. Bên cạnh đó, BLTTHS 2015 cũng đặt
ra yêu cầu CQĐT, VKS, TA phải tuân thủ đúng và bám sát quy định của luật về thời
hạn áp dụng hai BPNC trên, cụ thể đối với biện pháp bảo lĩnh thì thời hạn áp dụng
không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử và không quá thời hạn kể từ

khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù đối với người bị kết
án phạt tù (Khoản 5 Điều 121 BLTTHS 2015).
Thứ ba, đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015 quy định đối tượng áp dụng biện pháp bảo
lĩnh bao gồm bị can – là người bị khởi tố về hình sự và bị cáo – là người đã bị Tịa án
quyết định đưa ra xét xử. Vì pháp luật hiện hành không quy định về các đối tượng
không được bảo lĩnh cũng như khơng có sự giới hạn về loại tội phạm, quốc tịch, v..v..
của những đối tượng này nên tất cả các bị can, bị cáo thuộc trường hợp có thể áp dụng
biện pháp tạm giam hoặc đang bị tạm giam đều được cơ quan THTT xem xét áp dụng
biện pháp bảo lĩnh nếu đáp ứng đúng và đủ các điều kiện luật định. Bên cạnh đó,
nhằm đảm bảo bị can, bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh trong thời gian được bảo lĩnh
thì pháp luật quy định cụ thể các nghĩa vụ họ phải cam đoan thực hiện tại tại Khoản
3 Điều 121 BLTTHS 2015 như sau: (i) có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì
lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, (ii) không bỏ trốn hoặc tiếp tục
phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung
cấp tài liệu sai sự thật, (iii) không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ
án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm
chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trong
trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan như trên sẽ bị áp dụng biện
pháp tạm giam theo quy định.
Thứ tư, biện pháp bảo lĩnh phải được áp dụng bởi cơ quan THTT và thực hiện
theo một trình tự luật định.
Biện pháp bảo lĩnh là một chế định của TTHS do đó địi hỏi việc áp dụng hay
khơng áp dụng biện pháp bảo lĩnh phải được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền
quy định tại Khoản 4 Điều 121 BLTTHS 2015 và tuân theo một trình tự, thủ tục luật
định. Mọi hoạt động tố tụng, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc thay thế biện
pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đều phải xuất phát từ quy định của pháp luật và
đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn chứ không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, áp



7

đặt từ phía các cơ quan có thẩm quyền. Khi tiến hành tố tụng, CQĐT, VKS và TA
trong phạm vi trách nhiệm của mình phải bám sát quy định, thường xuyên tiến hành
thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của biện pháp bảo lĩnh. Việc
Nhà nước giao phó nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng này cho các chủ thể trên được
đánh giá là hoàn toàn phù hợp bởi họ đều là những người có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ phù hợp và dày dặn kinh nghiệm trong hoạt động giải quyết VAHS, đảm
bảo việc áp dụng đúng pháp luật, hạn chế tối đa vi phạm, rủi ro có thể xảy ra. Tuy
nhiên, các cơ quan này chỉ được thực hiện các hoạt động tố tụng trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định, trong trường hợp vượt quá phạm vi quyền hạn
cũng sẽ bị xử lý tùy theo mức độ vi phạm trên thực tế.
Thứ năm, biện pháp bảo lĩnh không cách ly người bị áp dụng ra khỏi đời sống xã
hội.
Đây là một đặc điểm và cũng đồng thời là ưu điểm của biện pháp bảo lĩnh, thể
hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước và pháp luật. Mặc dù thuộc hệ thống
các BPNC trong TTHS của nước ta nhưng biện pháp bảo lĩnh lại có tính chất ít nghiêm
khắc hơn so với các BPNC khác như tạm giữ hay tạm giam. Bị can, bị cáo bị áp dụng
biện pháp này sẽ khơng phải cách ly hồn tồn khỏi cộng đồng mà họ vẫn có quyền
tự do đi lại, tự do làm việc và sinh hoạt trong xã hội. Mặc dù được tại ngoại nhưng bị
can, bị cáo vẫn phải chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý ở một mức độ nhất định trong
thời gian được bảo lĩnh. Cụ thể hơn, các đối tượng này phải tuân thủ đúng, đầy đủ
các nghĩa vụ đã cam đoan theo quy định của pháp luật và chịu sự giám sát của chủ
thể nhận bảo lĩnh và đảm bảo có mặt khi có yêu cầu triệu tập của cơ quan có thẩm
quyền trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Cũng chính
vì mang đặc điểm này mà biện pháp bảo lĩnh được đánh giá là một trong những BPNC
mang tính ưu việt, tạo điều kiện cho công dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội tham gia
quản lý, giáo dục bị can, bị cáo trong thời gian bảo lĩnh từ đó phát huy sức mạnh của
quần chúng nhân dân trong công cuộc đấu tranh, xử lý tội phạm, giữ gìn an ninh và
trật tự xã hội.

Thứ sáu, áp dụng biện pháp bảo lĩnh nhằm mục đích ngăn chặn, phịng ngừa chứ
khơng nhằm mục đích trừng trị.
BLTTHS 2015 quy định đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh bao gồm bị can,
bị cáo. Mặc dù đối tượng này là những người bị khởi tố hình sự hoặc đã bị TA quyết


8

định đưa ra xét xử, nhưng về bản chất pháp lý, họ mới chỉ là người bị buộc tội chứ
chưa phải là người có tội và bị áp dụng hình phạt. Bị can, bị cáo chỉ thực sự trở thành
người có tội khi có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là nội
dung quan trọng của ngun tắc suy đốn vơ tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS
2015. Nguyên tắc này đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định và chỉ có TA mới có quyền tuyên bố
một người nào đó là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự. Do đó, mọi hoạt động
tố tụng liên quan đến việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan THTT trong
q trình giải quyết VAHS khơng được thực hiện dựa trên quan điểm bị can, bị cáo
là người phạm tội đồng thời phải áp dụng nhằm mục đích ngăn chặn, phịng ngừa và
đảm bảo xem xét các tình tiết vụ án một cách khách quan, đầy đủ chứ khơng nhằm
mục đích trừng trị.
1.1.3 Ý nghĩa của quy định biện pháp bảo lĩnh
Biện pháp bảo lĩnh với tư cách là một trong những BPNC thay thế biện pháp tam
giam đã được quy định rất sớm trong pháp luật TTHS của nước ta và hoàn thiện hơn
rất nhiều ở thời điểm hiện tại. Từ khi bắt đầu được triển khai thi hành và cho đến nay,
biện pháp này đã và đang đem lại hiệu quả đóng góp tích cực, cho thấy ý nghĩa to lớn
về nhiều mặt, cụ thể như sau:
Thứ nhất, biện pháp bảo lĩnh khẳng định sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được
tôn trọng và bảo đảm. Nội dung này được ghi nhận rất rõ trong Hiến pháp, văn bản

pháp luật cũng như hàng loạt các chính sách mà Đảng, Nhà nước chỉ đạo và triển khai
thực hiện. Không chỉ dừng lại ở pháp luật quốc gia, Việt Nam còn tham gia hầu hết
các điều ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình
thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966,
v..v.. và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần xây dựng một đất nước xã hội
chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh”, đóng góp
vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hịa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.
Biện pháp bảo lĩnh được coi là BPNC có tính dân chủ cao, khơng chỉ thể hiện chính
sách hình sự nhân đạo khoan hồng của Nhà nước ta mà còn đề cao bảo vệ quyền con


9

người, quyền công dân phù hợp với xu hướng chung của thời đại. Tại chương VII
BLTTHS 2015 đã khẳng định rõ, việc áp dụng hay khơng áp dụng BPNC nói chung
và biện pháp bảo lĩnh nói riêng trong đấu tranh phịng chống tội phạm khơng xuất
phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
mà bắt buộc phải xuất phát từ thực tiễn và căn cứ theo quy định của pháp luật. Mọi
trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng BPNC
đều phải được khắc phục kịp thời, mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng mà gây hậu
quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị
xử lí nghiêm minh. Để đảm bảo điều này, Nhà nước ta từ rất sớm đã ban hành các
văn bản pháp luật đóng vai trị là cơ sở pháp lý và cũng là phương tiện hiệu quả để
bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân để khi tham gia vào q trình tố tụng nếu có oai
sai xảy ra như: Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra do Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực ngày 01/04/2004 (đã hết hiệu lực ngày 01/01/2010)
hay Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010
(đã hết hiệu lực ngày 01/07/2018) và cho đến này là Luật trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước được ban hành ngày 20/06/2017, có hiệu lực từ 01/07/2018. Xét một cách
toàn diện, quy định biện pháp bảo lĩnh trong TTHS mang ý nghĩa xã hội rất sâu sắc,
thể hiện rõ nét tính nhân đạo và sự khoan dung của Nhà nước ta đối với bị can, bị
cáo. Mặc dù là người bị buộc tội nhưng pháp luật vẫn cho phép họ được tại ngoại và
gần như có cuộc sống bình thường, gia đình hay cơng việc đều khơng bị ảnh hưởng
quá nghiêm trọng..v..v..
Thứ hai, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời và xử lí nghiêm minh hành
vi phạm tội là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của pháp luật TTHS được Đảng và Nhà
nước giao phó. Chính vì vậy, cơng tác này phải được tiến hành một cách kiên quyết,
triệt để, không khoan nhượng. Mặc dù biện pháp bảo lĩnh mang tính chất ít nghiêm
khắc hơn so với các biện pháp khác như tạm giam, tạm giữ,..v..v..nhưng suy cho
cùng, về bản chất pháp lý thì bảo lĩnh vẫn đóng vai trị là một BPNC. Do đó, bị can,
bị cáo được tại ngoại nhưng vẫn phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định.
Một khi có đủ căn cứ cho rằng bị can, bị cáo vi phạm bất kỳ nghĩa vụ đã cam đoan
theo quy định tại Khoản 3 Điều 121 BLTTHS 2015 dẫn tới gây khó khăn, cản trở quá


10

trình điều tra, truy tố, xét xử thì cơ quan THTT ngay lập tức ra quyết định áp dụng
biện pháp tạm giam để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm thi hành án, góp
phần tăng cường hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Thứ ba, biện pháp bảo lĩnh thể hiện mối quan hệ gắn kết giữa cơ quan có thẩm
quyền THTT, chủ thể nhận bảo lĩnh và bị can, bị cáo.
Có thể khẳng định rằng, để đạt được hiệu quả tích cực trong cơng tác thi hành
biện pháp bảo lĩnh trên thực tế mà chỉ dựa vào sự phối hợp giữa CQĐT, VKS, TA
thôi là chưa đủ. Biện pháp này cịn địi hỏi phải có sự tham gia, gắn kết một cách
thống nhất, kịp thời giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT với hai chủ thể là cá nhân,

cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh và bị can, bị cáo. Ở các địa phương, lãnh đạo các cơ
quan tư pháp tỉnh thường xuyên duy trì các cuộc họp liên ngành để kịp thời tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các BPNC nói chung và biện pháp
bảo lĩnh nói riêng. Đồng thời, đi đôi với sự tăng cường quản lý của Nhà nước thì mỗi
cơng dân phải nâng cao ý thức, trách nhiệm của bản thân, toàn xã hội đối với cơng
tác phịng, chống tội phạm, phát huy tối đa sức mạnh, sự đóng góp và gắn kết của
quần chúng nhân dân, cơ quan, tổ chức đồn thể vào q trình tố tụng; thể hiện tình
cảm, sự tin tưởng người nhận bảo lĩnh và quyết tâm cải tạo của bị can, bị cáo.
Thứ tư, áp dụng biện pháp bảo lĩnh giúp tiết kiệm ngân sách Nhà nước, tránh
được tình trạng quá tải trong trại tạm giam, nhà tạm giữ.
Thống kê theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm tới các đại biểu Quốc
hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV về cơng tác quản lý Nhà nước về tạm giữ,
tạm giam năm 20 thì tính đến ngày 30/09/2020, cả nước có 82 trại tạm giam, 740 nhà
tạm giữ (Bộ Công an đang quản lý 69 trại tạm giam, 708 nhà tạm giữ, Bộ Quốc phòng
quản lý 13 trại tạm giam, 32 nhà tạm giữ và 247 buồng tạm giữ của đồn biên phòng) 11.
Hiện tại số lượng trại tạm giam là khá ít, tuy nhiên, mỗi năm nước ta lại phải bỏ ra số
tiền rất lớn cho toàn bộ hoạt động tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ này, điển hình
như: chi phí ăn uống, cấp phát tư trang, hậu cần, trang thiết bị phương tiện phục vụ
công tác của trại, phát thuốc, khám chữa bệnh..v..v..Ở nơi có diễn biến tội phạm phức
tạp như Hà Nội thì chi phí này có thể lên tới con số là hàng chục tỷ đồng cho mỗi
năm, đi đôi với điều này là thực trạng trại tạm giam luôn trong tình trạng quá tải từ
Hồ Hương, “Bảo đảm nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam”,
/>c/Lists/News&ItemID=50985, 30/12/2020
11


11

30% - 40%. Bên cạnh vấn đề về chi phí thì các trại tạm giam, nhà tạm giữ đang gặp
phải một số tình trạng khác như: thiếu nước sinh hoạt hoặc nguồn nước không bảo

đảm vệ sinh môi trường; giam chung nhiều đối tượng bị các bệnh lao phổi, viêm gan
B..v..v..nên dễ bị lây và khơng có cán bộ y tế, phương tiện để bảo đảm cho công tác
khám, chữa bệnh, chẩn đốn và phịng ngừa dịch bệnh; tình trạng người bị giam giữ
bị ốm đau nặng chuyển viện tuyến trên gặp khơng ít khó khăn trong cơng tác canh
gác, bảo vệ. Ngoài ra, tại một số đơn vị, nhất là các nhà tạm giữ, còn thiếu cán bộ
chuyên trách về công tác vũ trang bảo vệ, quản giáo, cán bộ y tế, chưa đáp ứng được
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam trong thực tế… 12.
Đặc biệt, hiện nay, khi cả thế giới đang phải đối mặt với dịch bệnh Covid -19 thì đây
cũng là một trong những khó khăn đặt ra trong cơng tác tạm giam, tạm giữ. Bên cạnh
đó, ngành KSND, cụ thể là CQĐTVKSNDTC khơng có hệ thống nhà tạm giữ do
mình quản lý. Do đó trong q trình điều tra, khi tiến hành tạm giữ, tạm giam các đối
tượng phạm tội, cơ quan này phải gửi các bị can ở trại giam, trại tạm giam của Bộ
công an, Bộ quốc phòng, điều này gây nhiều trở ngại trong việc tiến hành các hoạt
động điều tra như hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, ít có
điều kiện làm việc đột xuất nếu bị can đề nghị được khai báo, không chủ động được
trong việc đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các đối tượng phạm tội..v..v..13
Chính vì vậy, việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện
pháp tạm giam là một trong những phương tiện hữu hiệu góp phần khắc phục những
mặt hạn chế nhất định của việc tạm giam, giúp tiết kiệm Ngân sách nhà nước.
1.2 Cơ sở quy định biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Ở nước ta, q trình xây dựng và hồn thiện quy định về biện pháp bảo lĩnh cũng
như các điều khoản thi hành liên quan đều được các nhà làm luật thực hiện rất thận
trọng, đảm bảo chặt chẽ về mặt hình thức và chính xác về nội dung. Biện pháp bảo
lĩnh khi được ghi nhận phải thể hiện được những thuộc tính chung của pháp luật và
đặc trưng của TTHS. Cụ thể hơn về các căn cứ đòi hỏi các nhà làm luật phải tuân thủ
để thiết lập quy định về biện pháp bảo lĩnh như sau:
Hồ Hương, “Bảo đảm nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam”,
/>c/Lists/News&ItemID=50985, truy cập ngày 01/01/2021
13
Trần Đình Hải, “Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra của CQĐT VKSND tối cao đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp”, truy cập ngày 03/03/2020
12


12

Thứ nhất, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong
q trình xây dựng pháp luật.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp luôn là cơ sở lý luận,
kim chỉ nan xuyên suốt cho Đảng và Nhà nước ta học tập, vận dụng trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia từ xưa đến nay. Một số nội dung
tiêu biểu của tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp như: bất khả xâm phạm
của chủ quyền quốc gia, tính thiêng liêng của độc lập dân tộc; mục đích của pháp luật
là phải nhân đạo, nhân văn, vì con người; tơn trọng pháp luật quốc tế; bảo đảm dân
chủ trong quá trình xây dựng pháp luật; đề cao tính tối thượng của pháp luật, tất cả
quyền lực đều thuộc về Nhân dân, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân, v..v…chính là nền tảng cho q trình xây dựng và hồn thiện quy định về các
BPNC nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng. Chế định về biện pháp bảo lĩnh khi
được ghi nhận phải bảo đảm công bằng, minh bạch, tạo hành lang pháp lý vững chắc
đảm bảo mọi hoạt động tố tụng nằm trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đồng
thời, quy định này phải được thiết lập một cách chặt chẽ, giải quyết được những vấn
đề thực tiễn đang đặt ra, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời
sống kinh tế - xã hội; giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà
nước và xã hội; mọi hoạt động tố tụng do cơ quan có thẩm quyền THTT thực hiện
như áp dụng, hủy bỏ, thay thế biện pháp bảo lĩnh đều phải xuất phát từ sự tôn trọng
và đảm bảo quyền cơ bản của công dân, tạo mọi điều kiện cho họ thực hiện quyền
của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, dựa vào Hiến pháp làm cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc xây dựng các
quy định về biện pháp bảo lĩnh.
Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất và cũng là công cụ pháp lý quan

trọng nhất đảm bảo nhân quyền ở mỗi quốc gia. Đối với lĩnh vực tư pháp, từ bản Hiến
pháp đầu tiên của nước ta vào năm 1946 cho đến hiện tại là Hiến pháp 2013 đều chú
trọng tăng cường hiệu quả cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo vệ cuộc
sống bình n của nhân dân, đồng thời địi hỏi tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, tăng cường dân chủ XHCN.
Đối với biện pháp bảo lĩnh, các quy định của Hiến pháp có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, là cơ sở hiến định để xây dựng, hoàn thiện quy định và thi hành trong thực tiễn.
Quy định về biện pháp bảo lĩnh đòi hỏi phải bao hàm được nội dung của Hiến pháp,


13

bám sát vào các yêu cầu của Hiến pháp nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư
pháp công bằng, nhân đạo, dân chủ, nghiêm minh. Bên cạnh đó, các nhà làm luật khi
xây dựng biện pháp này trong BLTTHS phải đảm bảo nội dung quy định được điều
chỉnh cụ thể, chặt chẽ bởi sáu yếu tố: căn cứ áp dụng; thẩm quyền quyết định; đối
tượng áp dụng; trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành. Những quy định chặt chẽ, minh
bạch về biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS vừa là phương tiện giúp cho các cơ quan
chuyên môn dễ dàng áp dụng và cũng vừa là công cụ giúp công dân giám sát hoạt
động của cơ quan tố tụng, yêu cầu hủy bỏ quyết định đã áp dụng khơng đúng luật nếu
có vi phạm xảy ra. Quy định về biện pháp bảo lĩnh càng được xây dựng chỉnh chu,
hồn thiện trên quan điểm tơn trọng con người, đề cao dân chủ thì hiệu quả áp dụng
biện pháp bảo lĩnh trên thực tế càng cao.
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu của chính sách pháp luật TTHS
Chính sách pháp luật TTHS bao gồm những quan điểm, phương hướng có tính
chất chỉ đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong hoạt động lập pháp và áp dụng
pháp luật TTHS. Chính sách pháp luật TTHS bảo đảm sự ổn định của hệ thống pháp
luật TTHS, tăng cường bảo vệ các quyền và tự do của công dân cũng như các lợi ích
hợp pháp của xã hội, của Nhà nước bằng pháp luật TTHS, góp phần nâng cao hiệu
quả của hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm bằng hệ thống tư pháp

hình sự.
Chính sách pháp luật TTHS cũng như định hướng về xây dựng các BPNC nói
chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng được hình thành xuất phát từ yêu cầu của thực
tiễn, dựa vào các kết quả nghiên cứu ở nhiều phạm vi và mức độ khác nhau, dựa trên
các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại và kinh nghiệm của thế giới, dựa trên các
giá trị truyền thống của dân tộc, đất nước cũng như dựa trên cơ sở đánh giá tác động
pháp luật khi nó được xây dựng, ban hành, dựa vào nguồn năng lực của các điều kiện
bảo đảm thực thi chính sách,..v..v.. Tuy nhiên, chính sách TTHS khơng thể tự nó thực
thi mà phải thông qua việc xây dựng, ban hành và thi hành pháp luật. Nói một cách
cụ thể hơn, chính sách TTHS có vai trị chi phối, quyết định đối với việc xây dựng
quy định về biện pháp bảo lĩnh của các nhà làm luật và ngược lại, biện pháp bảo lĩnh
khi được ghi nhận trong BLTTHS phải được thể hiện bằng các quy tắc xử sự mang
tính pháp lý, là cơng cụ thực tiễn hóa được chính sách và được ban hành bởi Nhà
nước theo những trình tự và thủ tục nghiêm ngặt. Tóm lại, quy định về biện pháp bảo
lĩnh cần được xây dựng và hoàn thiện dựa trên những cơ sở, định hướng xuyên suốt


×