Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐỖ VĂN SỰ

NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Đỗ Văn Sự
Lớp: Cao học luật, Khóa 29

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan luận văn “Nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả, dưới sự giúp đỡ và
hướng dẫn của Tiến sĩ. Lê Ngun Thanh.
Khơng có sản phẩm/nghiên cứu nào của người khác được sử dụng trong luận
văn này mà khơng được trích dẫn theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm tính xác thực, khách quan thơng tin trích dẫn, các số
liệu có nguồn gốc rõ ràng, kết quả nghiên cứu là trung thực.
Tác giả

Đỗ Văn Sự


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BC/ĐLS

Báo cáo Đồn luật sư

BCA

Bộ cơng an

BLĐTBVXH

Bộ lao động thương binh thương binh và xã hội

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BTP

Bộ tư pháp

BTVLĐLSVN

Ban thường vụ Liên đồn luật sư Việt Nam

CT

Chỉ thị

HCTP

Hành chính tư pháp

HĐLSTQ

Hội đồng luật sư toàn quốc

LLB

Luật liên bang

NQ/TW


Nghị quyết trung ương

PL

Pháp lệnh



Quyết định

QH

Quốc hội

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

TT

Thơng tư

TTLT

Thông tư liên tịch

UBTVQH

Ủy ban thường vụ quốc hội


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI
BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..........................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về nghĩa vụ của ngƣời bào chữa trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................9
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình
sự ..........................................................................................................................9
1.1.2. Ý nghĩa về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự ..............13
1.2. Cơ sở quy định nghĩa vụ của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự ......15
1.2.1. Cơ sở lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự .....15
1.2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự ................................................................................................................17
1.2.3. Cơ sở thực tiễn về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự ..23
1.3. Kinh nghiệm lập pháp Việt Nam và kinh nghiệm của một số nƣớc về
nghĩa vụ của ngƣời bào chữa ..............................................................................25
1.3.1. Kinh nghiệm lập pháp Việt Nam về nghĩa vụ của người bào chữa .........25
1.3.2. Kinh nghiệm của một số nước về nghĩa vụ của người bào chữa .............29
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................32
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA ..............................................34
2.1. Nghĩa vụ của ngƣời bào chữa đối với ngƣời bị buộc tội............................34
2.1.1. Nghĩa vụ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc
tội ........................................................................................................................34

2.1.2. Nghĩa vụ bào chữa bảo vệ bí mật cá nhân cho người bị buộc tội ...........39
2.2. Nghĩa vụ bảo đảm công lý và bảo đảm hoạt động tố tụng ........................41
2.2.1. Nghĩa vụ tôn trọng sự thật của người bào chữa ......................................41


2.2.2. Nghĩa vụ của người bào chữa bảo đảm hoạt động tố tụng ......................43
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................47
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP .....................................49
3.1. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam ...............................................................................................................49
3.1.1. Tình hình thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam .............................................................................................................49
3.1.2. Những hạn chế của việc thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa và
nguyên nhân .......................................................................................................52
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của ngƣời bào chữa trong tố tụng
hình sự ...................................................................................................................61
3.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự về nghĩa vụ của người
bào chữa .............................................................................................................61
3.2.2. Giải pháp khác bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa ..........68
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhu cầu hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào
chữa trong tố tụng hình sự là một trong những nội dung quan trọng theo tinh thần

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, liên quan đến người bào chữa “đào tạo, phát triển đội ngũ
luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chun mơn.
Hồn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về
pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các
tổ chức luật sư đối với thành viên của mình”.
Sự tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng trong vụ án hình sự có
ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo đảm tính dân chủ, quyền con người trong tố tụng
hình sự, tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được
xem là vấn đề trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Thông qua hoạt động của mình người bào chữa có thể phát hiện những vi
phạm về tố tụng, đưa ra những kiến nghị nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật trong việc
điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ cũng như các biện pháp hỗ trợ cho người bào
chữa thực hiện được nghĩa vụ của mình trước người bị buộc tội và trước pháp luật.
Sự đóng góp người bào chữa, mà chủ yếu là đội ngũ luật sư đã đem lại hiệu
quả to lớn về cả số lượng và chất lượng cung cấp dịch vụ pháp lý cho xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực có được, hiện nay hoạt động của
người bào chữa cũng còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu quả yêu cầu bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong đó có tình trạng người bào chữa không thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ
nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng cũng như khơng bảo đảm lợi ích của
người bị buộc tội mà mình có trách nhiệm bào chữa.
Trong số những ngun nhân của hạn chế nêu trên là do quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác còn mâu thuẫn, chưa thống nhất về


2

nghĩa vụ của người bào chữa cũng như ý thức tuân thủ nghĩa vụ của người bào chữa
chưa tốt, chưa có biện pháp xử lý người bào chữa vi phạm nghĩa vụ.
Từ những lí do trên tác giả chọn đề tài “Nghĩa vụ của người bào chữa theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm qua, việc nghiên cứu về nghĩa vụ của người bào chữa theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đã có một số bài báo trên tạp chí, sách, đề tài khoa
học của các nghiên cứu sinh đề cập các vấn đề liên quan đến người bào chữa theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể như:
Một số bài báo trên tạp chí khoa học:
Bài viết “Một số điểm mới về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015” của luật sư Bùi Hồng Hải1. Bài viết của tác giả đề cập về một số điểm
mới của người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, trong đó có nhiều điểm mới về người bào chữa như khái
niệm người bào chữa, thủ tục đăng ký bào chữa, quyền của người bào chữa, những
vướng mắc người bào chữa gặp khi tham gia tố tụng.
Bài viết “Chứng cứ do người bào chữa cung cấp theo Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015” của luật sư Lê Văn Sua2. Sự ra đời của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
là bước phát triển mới, đã khắc phục những thiếu sót quan trọng bảo đảm quyền của
người bị bắt. Việc quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ, thu thập chứng cứ của
người bào chữa thể hiện dân chủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Bài viết “Hồn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lương Thị Mạnh Quỳnh3. Bài viết
tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn quy định về bảo đảm quyền có người bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, mở rộng nguyên tắc tranh tụng, nâng cao
nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật đối
Bùi Hồng Hải (2018), “Một số điểm mới về người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 2, tr.58-59.
2

Lê Văn Sua (2016), “Chứng cứ do người bào chữa cung cấp theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp
chí luật sư Việt Nam, số 6, tr.6.
3
Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 24, tr.24-32.
1


3
với người dân. Nhiều kiến nghị của tác giả phù hợp với quy định Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Bài viết “Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Bùi Thị Chinh Phương4. Tác giả khái
qt về vị trí, vai trị của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị buộc tội, đồng thời người bào chữa giúp
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.
Bài viết “Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng
của luật sư với tư cách là người bào chữa và hướng hoàn thiện”của tác giả thạc sỹ
Vũ Huy Khánh5. Tác giả đưa ra vấn đề thực tiễn khi luật sư tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa, việc áp dụng các quy định pháp luật còn nhiều hạn chế.
Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật luật sư
cũng như hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
Một số sách tham khảo như:
Sách “Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015” của tác giả tiến sỹ - luật sư Phan Trung Hoài6. Tác giả nêu nhận thức về
mơ hình và các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, thực trạng hành nghề luật
sư, một số nguyên tắc nâng cao vị thế, vai trò của người bào chữa và nhiều vấn đề
khác liên quan đến chế định bào chữa. Trong đó phần giới hạn trách nhiệm và nghĩa
vụ của người bào chữa có giá trị tham khảo hữu ích đối với luận văn của tác giả.
Sách “Sổ tay luật sư” do Liên đoàn luật sư và Nhà xuất bản chính trị quốc

gia sự thật thực hiện7, Sổ tay luật sư có 03 tập: Tập 1 chuyên đề luật sư và hành
nghề luật sư; tập 2 chuyên đề kỹ năng hành nghề luật sư trong tố tụng hình sự, hành
chính, dân sự; tập 3 kỹ năng hành nghề luật sư tư vấn trong lĩnh vực đầu tư, kinh
doanh, thương mại. Đặc biệt phần 1 tập 1 Sổ tay luật sư đề cập về vị trí, vai trò,
chức năng xã hội của luật sư, và phần 1 tập 2 Sổ tay luật sư đề cập về kỹ năng luật
sư trong tố tụng hình sự nên có giá trị tham khảo đối với đề tài luận văn của tác giả.
Bùi Thị Chinh Phương (2016), “Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 289, tr.13-16.
5
Vũ Huy Khánh (2012), “Thực trạng quy định của pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư với tư
cách là người bào chữa và hướng hồn thiện”, Tạp chí tịa án nhân dân, số 8, tr.23-26.
6
Phan Trung Hồi (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
7
Liên đoàn luật sư Việt Nam và tổ chức JICA pháp luật xuất bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung (2019), Sổ
tay luật sư, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
4


4
Sách “Quyền bào chữa và vai trò luật sư trong tố tụng hình sự” của tác giả tiến
sỹ Nguyễn Văn Tuân8. Tác giả trình bày một cách hệ thống về quyền bào chữa, người
bào chữa trong tố tụng hình sự, vai trò người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng
hình sự. Đây là tài liệu tham khảo rất hữu ích đối với đề tài luận văn của tác giả.
Một số đề tài luận văn thạc sỹ luật học:
Đề tài “Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan
Văn Hòa9. Tác giả khái quát các vấn đề liên quan đến người bào chữa theo pháp
luật tố tụng hình sự về vị trí, vai trị, địa vị, chế định người bào chữa, đưa ra các vấn
đề bất cập, tồn tại và vướng mắc gây ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng của người

bào chữa. Tác giả đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào
chữa. Bên cạnh đó trong luận văn tác giả đề cập đến vấn đề nghĩa vụ của người bào
chữa theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Đề tài “Sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phạm
Duy Trang10. Tác giả đưa ra vấn đề về nhu cầu quyền bào chữa, tầm quan trọng của
người bào chữa khi tham gia tố tụng, đưa ra những thực trạng vướng mắc người bào
chữa gặp phải, đề xuất những kiến nghị nhằm giải quyết thực trạng. Thời gian viết
luận văn của tác giả đã lâu so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuy nhiên nhìn
chung những vấn đề thực trạng và những kiến nghị của luận văn vẫn cịn có giá trị
tham khảo đối với đề tài luận văn của tác giả.
Đề tài “Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trợ giúp viên pháp
lý đối với bị hại theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Cẩm Lài11. Tác
giả phân tích một số quy định về trợ giúp pháp lý cho người bị hại dựa trên Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 và Luật trợ giúp pháp lý năm 2017, hoạt động thực tiễn
của trợ giúp viên pháp lý với vai trò người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại từ giai đoạn 2017 đến năm 2019, đưa ra các hướng đề xuất nhằm nâng cao chất
lượng trợ giúp viên pháp lý. Vì đề tài luận văn liên quan hoạt động của người bào
Nguyễn Văn Tuân (2018), Quyền bào chữa và vai trị luật sư trong tố tụng hình sự, Nxb dân trí.
Phan Văn Hịa (2012), Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
10
Nguyễn Phạm Duy Trang (2007), Sự tham gia của người bào chữa trong gia đoạn khởi tố, điều tra vụ án
hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành phố
Hồ Chí Minh.
11
Đỗ cẩm Lài (2020), Hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trợ giúp viên pháp lý đối với bị hại
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
8
9



5
chữa, nên nhìn chung có nhiều giá trị tham khảo đối với đề tài nghĩa vụ của người
bào chữa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả.
Đề tài “Chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”
của tác giả Phạm Thị Diệu Hiền12. Tác giả nêu tầm quan trọng của chức năng bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đưa ra một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng bào chữa.
Đề tài “Hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mộng Chi13. Tác giả phân tích những quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật trợ giúp viên pháp lý từ đó nêu ra những quy
định mới liên quan đến hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý, làm rõ những
hạn chế của hoạt động bào chữa và đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện quy định
Bộ luật tố tụng hình sự. Luận văn có nhiều giá trị tham khảo đối với đề tài nghĩa vụ
của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả.
Đề tài “Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Hà Văn Sáng14. Tác giả khái quát quy định của
pháp luật cũng như thực tiễn tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm
nhằm chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân, kiến nghị. Nhìn chung trong một số nội
dung của luận văn có giá trị tham khảo đối với đề tài nghĩa vụ của người bào chữa
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả.
Đề tài “Hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Trần Minh Lộc15. Tác giả phân tích cơ sở lý luận về hoạt động bào chữa của trợ
giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi dựa trên Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 2015 và Luật trợ giúp pháp lý năm 2017, chỉ ra những
thực trạng và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật. Luận văn
có nhiều giá trị tham khảo đối với đề tài nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam của tác giả.

Phạm Thị Diệu Hiền (2014), Chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
13
Nguyễn Mộng Chi (2020), Hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
14
Hà Văn Sáng (2017), Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
15
Trần Minh Lộc (2019), Hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật thành
phố Hồ Chí Minh.
12


6
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đi sâu nghiên cứu về hoạt động của người
bào chữa nói chung như vị trí, vai trị, chức năng thực trạng hoạt động tố tụng hình
sự của người bào chữa, những vướng mắc và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự. Nhìn chung có một số bài viết, sách, đề tài
đưa ra vấn đề về nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
nhưng chưa chun sâu, mà mang tính khái quát nên tác giả chưa nắm bắt rõ và cần
phải nghiên cứu chuyên sâu thêm.
Như vậy, việc nghiên cứu tiếp nhận nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu
đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu các đề tài trên đó là nguồn tài
liệu tham khảo hữu ích trong quá trình thực hiện luận văn thạc sỹ luật học của tác
giả. Do vậy, có thể khẳng định đề tài “Nghĩa vụ của người bào chữa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” không trùng với bất cứ đề tài nào đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu nhằm nhận thức đầy đủ hơn nghĩa vụ của người bào
chữa, đồng thời kiến nghị các giải pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ người bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày khía cạnh lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự.
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nghĩa vụ của người
bào chữa.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người
bào chữa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Là khía cạnh lý luận, khía cạnh pháp lý và thực tiễn
thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.


7
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu nghĩa vụ của người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu nghĩa vụ của người bào chữa trong
phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu nghĩa vụ của người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam được giới hạn từ năm 2003 (thời điểm Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 ban hành) cho đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.

- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tình huống pháp
lý điển hình.
- Thứ nhất: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn về nghĩa vụ
người bào chữa theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh
các quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người bào chữa.
- Thứ hai: Phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình đánh giá
thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị của đề tài
Luận văn là cơng trình có giá trị lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đóng góp vào việc hồn thiện
lý luận về địa vị pháp lý của người bào chữa và cho khoa học luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
Luận văn cũng là tài liệu có giá trị thực tiễn, là tài liệu tham khảo tin cậy cho
cá nhân, cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tố tụng hình sự có liên quan đến
hoạt động bào chữa.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người học tập, nghiên cứu,
giảng dạy về luật tố tụng hình sự nói chung và về người bào chữa nói riêng.


8
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận gồm 03 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố
tụng hình sự
Chƣơng 2. Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nghĩa vụ của
người bào chữa
Chƣơng 3. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng

hình sự và giải pháp


9
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về nghĩa vụ của ngƣời bào chữa
trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự
- Khái niệm nghĩa vụ ngƣời bào chữa:
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam khơng đưa ra khái niệm nghĩa vụ của người
bào chữa, nhưng dựa trên các quy định của pháp luật dân sự, từ điển luật học,
chuyên gia luật học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nghĩa vụ.
Nghĩa vụ là việc phải làm theo bổn phận của mình. Mối quan hệ phát sinh giữa
một hay nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc, thực hiện
một hành vi hoặc khơng được làm một cơng việc, một hành vi, vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền). Thơng thường, nghĩa vụ ln đi đơi
với quyền như quyền công dân đi liền với nghĩa vụ cơng dân, làm nghĩa vụ thì phải
được hưởng quyền. Một chủ thể làm nghĩa vụ là để thỏa mãn nhu cầu, địi hỏi lợi ích
của một chủ thể khác có quyền như người vay nợ có nghĩa vụ trả nợ cho người cho
vay, người có quyền địi khi nợ đến ngày phải trả được thỏa thuận từ trước16.
Nghĩa vụ là việc theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên
có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá,
thực hiện công việc hoặc không được thực hiện được công việc nhất định vì lợi ích
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)17.
Nghĩa vụ là những hành vi mà một người phải thực hiện vì lợi ích của người
khác. Có ba loại nghĩa vụ: Nghĩa vụ theo phong tục (nghĩa vụ do phong tục, tập
quán của địa phương quy định); nghĩa vụ về đạo đức, nhân văn (con phải có hiếu

với cha mẹ, vợ chồng phải chung thủy với nhau); nghĩa vụ pháp lý (những nghĩa vụ
đã được pháp luật quy định, nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và các luật quy
định). Vi phạm nghĩa vụ pháp lý thì tùy theo mức độ mà có thể bị xử lý theo kỷ luật
16
17

Viện khoa học pháp lý (1999), Từ điển luật học, Nhà xuất từ điển bách khoa – Nhà xuất bản tư pháp, số tr.560.
Điều 274 Bộ luật dân sự năm 2015.


10
hành chính hoặc theo các chế tài hình sự: phạt tù, tử hình hoặc theo các chế tài dân
sự: phạt tiền, buộc bồi thường thiệt hại18.
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hoặc nhiều
chủ thể phải làm hoặc không được làm một cơng việc vì lợi ích của một hoặc nhiều
chủ thể khác19.
Nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội,
đối với người khác20.
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy
tờ có giá, thực hiện cơng việc khác, hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)21.
Bàn về nghĩa vụ là nói đến những bổn phận mà người bào chữa phải tn thủ,
nếu muốn dành sự tơn trọng từ phía các chủ thể có thẩm quyền tiến hành thủ tục tố
tụng cũng như sự tin cậy trong con mắt khách hàng của mình. Vì thế, các quy phạm
pháp luật sẽ cố gắng thốt ra khỏi những khái niệm trừu tượng, ngơn ngữ mang tính
biểu trưng, cũng như các phạm trù đạo đức, để gọi tên đích thực những nghĩa vụ mà
người bào chữa phải thực hiện22.
Qua nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nghĩa vụ, tác giá đưa ra khái
niệm về nghĩa vụ người bào chữa như sau:

Nghĩa vụ của người bào chữa là hành vi bắt buộc mà người bào chữa phải thực
hiện hoặc khơng được thực hiện vì lợi ích của người bị buộc tội và trước cơng lý.
- Đặc điểm nghĩa vụ của ngƣời bào chữa:
Thứ nhất, nghĩa vụ của người bào chữa thể hiện mối quan hệ pháp lý ràng
buộc giữa người bào chữa với người bị buộc tội:
Đó là mối quan hệ pháp lý giữa người bào chữa với người bị buộc tội. Trên cơ
sở quy định của pháp luật hình sự người bào chữa và người bị buộc tội đều là người
tham gia tố tụng, địa vị pháp lý khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Viện khoa học pháp lý (1999), tlđd (16), tr.320.
Trường đại học luật luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb cơng an nhân dân, số tr.83
20
Từ điển mở (2020), thuật ngữ nghĩa vụ, tại trang vụ - tiếng việt.
21
Nguyễn Ngọc Điệp, 3450 thuật ngữ pháp lý phổ thông, Nhà xuấn bản giao thơng vận tải, số tr.253.
22
Phan Trung Hồi (2016), tlđd (6), tr.264-265.
18
19


11
Theo khoản 1 Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “người
bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa”. Khi người bào chữa
đồng ý nhận lời bào chữa cho người bị buộc tội thì mối quan hệ giữa người bào
chữa với người bị buộc tội là mối quan hệ pháp lý dân sự, quyền và nghĩa vụ giữa
các bên luôn được xác lập, buộc hai bên phải thực hiện theo đúng nội dung đã cam
kết, bên nào vi phạm thì phải chịu trách nhiệm.
Mối quan hệ pháp lý giữa người bào chữa với người bị buộc tội xuất hiện khi
người bị buộc tội nhờ người bào chữa và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Về mặt pháp lý, thực chất mối quan hệ giữa người bào chữa với người bị
buộc tội trong vụ án hình sự là quan hệ “nhờ và nhận” bào chữa cho người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng. Trong quan hệ này,
pháp luật đề cao tính tự nguyện trong giao dịch, thỏa thuận xác định rõ ràng quyền
và nghĩa vụ các bên, kể cả thù lao bào chữa, mối quan hệ này có thể nhận diện trên
ba phạm vi: Quan hệ trong phạm vi tham gia bào chữa trong các giai đoạn tố tụng;
quan hệ tư cách con người trong đời sống xã hội; quan hệ tài sản giữa luật sư với
khách hàng23.
Thứ hai, nghĩa vụ người bào chữa bảo đảm lợi ích cho chủ thể có quyền
tương ứng:
Khi tham gia vào mối quan hệ pháp lý giữa người bào chữa với người bị
buộc tội, các bên tham gia ln hướng tới một lợi ích nhất định, lợi ích ở đây có thể
là vật chất hoặc tinh thần.
Người bào chữa tham gia tố tụng có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp
luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vơ tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp người bị buộc
tội về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Quyền được
hưởng thù lao từ việc bào chữa cho người bị buộc tội. Còn người bị buộc tội muốn
quyền và lợi ích hợp pháp của mình được bảo vệ một cách tốt nhất thì phải cần đến
người bào chữa, và có nghĩa vụ trả thù lao cho người bào chữa.
Thứ ba, nghĩa vụ của người bào chữa góp phần bảo đảm cơng lý và hoạt
động tố tụng hình sự:
Phan Trung Hồi, Chu Thị Trang Vân (2019), Sổ tay luật sư – tập 2, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự
thật, số tr.46.
23


12
Người bào chữa khi tham gia tố tụng hình sự ngồi nghĩa vụ bảo vệ quyền và
lợi ích cho người bị buộc tội, cịn có nghĩa vụ bảo đảm cơng lý và bảo đảm hoạt

động tố tụng hình sự.
Bổn phận người bào chữa là tôn trọng sự thật, không được mua chuộc, cưỡng
ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và người
bào chữa không được hứa hẹn kết quả trước.
Người bào chữa phải có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án, phải có mặt
theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thuộc trường hợp chỉ định;
không tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện bào chữa sử dụng,
không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; không được tiết lộ thông tin về vụ án, về
người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý
bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Thứ tư, nghĩa vụ của người bào chữa nếu vi phạm người bào chữa phải chịu
hậu quả trách nhiệm pháp lý:
Người bào chữa là luật sư khi tham gia tố tụng hình sự ngồi tuân theo nghĩa
vụ của người bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cịn chịu điều chỉnh
Luật luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 và chịu quy ước của Bộ quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư 2019. Đặc điểm nghĩa vụ của người bào
chữa này phù hợp với tính chất nghề nghiệp của người bào chữa là luật sư, là chịu
điều chỉnh nhiều quan hệ pháp luật, nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của người
bào chữa đối với người bị tội và trước công lý.
Khi tham gia tố tụng người bào chữa phải thực hiện theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, nếu vi phạm thì phải chịu hậu quả
trách nhiệm pháp lý. Theo khoản 3 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định
“người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định
của pháp luật”.



13
1.1.2. Ý nghĩa về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Nghĩa vụ của người bào chữa có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động tố
tụng hình sự cũng như đối với xã hội.
Người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị buộc tội, giám sát phối
hợp với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tăng cường yếu tố tranh
tụng, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm hoạt động tố tụng tiến hành
khách quan, chính xác theo đúng quy định của pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật
trong xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Ý nghĩa đối với người bị buộc tội:
Người bị buộc tội khi tham gia tố tụng luôn yếu thế so với người tiến hành tố
tụng (là người được đào tạo bài bản, có trình độ chun mơn, có kinh nghiệm trong
việc điều tra, truy tố, xét xử). Phần lớn người bị buộc tội nhận thức pháp luật còn
hạn chế, tâm lý hoang mang, dễ dao động dẫn đến buông xuôi nên người bị buộc tội
khó có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Nhằm bảo đảm quyền bào chữa tốt
hơn cho mình, người bị buộc tội cần người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích khi
tham gia tố tụng.
Khi tham gia tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị buộc
tội, người bào chữa được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Nhiệm vụ và mục đích của người bào chữa
khi tham gia tố tụng là làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vơ tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị can, bị cáo, giúp người bị buộc tội
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Vì vậy, người bào chữa thực hiện tốt nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng
có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
buộc tội.

- Ý nghĩa đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội.
Trong tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản: Chức năng buộc tội, chức
năng bào chữa và chức năng xét xử, các chức năng có quan hệ biện chứng với nhau.


14
Các chủ thể có trách nhiệm đi tìm sự thật vụ án, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án
đúng pháp luật. Người bào chữa thực hiện chức năng của mình là chức năng bào
chữa nhằm bác lại cáo buộc của Viện kiểm sát.
Việc xét xử của Tòa án chỉ đúng đắn khi bên buộc tội và bào chữa thu thập,
kiểm tra được tất cả chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Sự thống nhất giữ hai mặt đối lập là
nơi hội tụ chân lý24.
Thơng qua hoạt động của mình, người bào chữa phát hiện những vi phạm về
mặt tố tụng, đưa ra các kiến nghị nhằm bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
được tiến hành khách quan, chính xác theo đúng quy định của pháp luật, giám sát
hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, hạn chế
các hành vi vi phạm pháp luật.
Do đó, trong hoạt động tố tụng người bào chữa thực hiện chức năng bào chữa
luôn đối lập với chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, nhưng về mặt ý nghĩa pháp lý
lại bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng, đúng pháp luật,
tránh cách nhìn phiến diện một chiều ln buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Ý nghĩa đối với xã hội:
Là người am hiểu pháp luật thơng qua việc thực hiện nghĩa vụ người bào
chữa góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho xã hội.
Đối với người bị buộc tội người bào chữa giúp họ hiểu được quyền, nghĩa vụ
của mình khi tham gia tố tụng để cùng nhau phối hợp trong quá trình giải quyết vụ án,
nhằm mục đích cuối cùng là bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích cho người bị buộc tội.
Trong quá trình tham gia tố tụng người bào chữa tiếp xúc với nhiều người,

đặc biệt tại giai đoạn xét xử người bào chữa tranh tụng nhằm thuyết phục Hội đồng
xét xử nhìn nhận đúng nội dung vụ án, áp dụng đúng quy định pháp luật, bản án
đúng người, đúng tội. Thơng qua đó người bào chữa góp phần tuyên truyền, phổ
biển giáo dục pháp luật đến những người có mặt tại phiên tịa.
- Ý nghĩa đối với hoạt động nghề nghiệp:
Người bào chữa bao gồm luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị buộc
tội, bào chữa viên, trợ giúp viên pháp lý. Nhìn chung người bào chữa trong vụ án
hình sự chủ yếu là luật sư, vì luật sư là người đã qua đào tạo pháp luật, có đủ trình
Lê Huỳnh Tấn Duy (2017), Tài liệu hướng dẫn học tập chuyên đề chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
(Lưu hành nội bộ), tr.14-15.
24


15
độ chun mơn và kỹ năng nhằm giúp người có nhu cầu nhờ bào chữa nhận được sự
hỗ trợ về mặt pháp lý một cách chuyên nghiệp.
Khi tham gia tố tụng người bào chữa phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
đúng quy định pháp luật. Việc thực hiện nghĩa vụ này có ý nghĩa đối với hoạt động
nghề nghiệp, góp phần nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, nâng cao đạo đức
ứng xử nghề nghiệp, và thông qua hoạt động nghề nghiệp người bào chữa nâng cao
vị trí, vai trị của mình.
1.2. Cơ sở quy định nghĩa vụ của ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
1.2.1. Cơ sở lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Quy định nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam dựa
trên cở sở lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa.
- Nghĩa vụ là để bảo đảm quyền của chể thể khác:
Người bào chữa khi tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng hình sự quy định cho
họ các nghĩa vụ. Việc quy định nghĩa vụ này có vai trị rất quan trọng đối với người
bị buộc tội, đó là cơ sở để người bào chữa bảo đảm quyền bào chữa cho người bị
buộc tội.

Để bảo đảm quyền và lợi ích của mình người bị buộc tội phải nhờ đến người
bào chữa, thơng qua đó người bào chữa thực hiện các nghĩa vụ theo quy định pháp
luật tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị buộc tội. Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, đây được xem là nghĩa vụ cao cả
của người bào chữa.
Người bào chữa là người có trình độ chun mơn nghiệp vụ về pháp luật,
bằng kiến thức chun mơn của mình người bào chữa giúp người bị buộc tội về
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Vì vậy, pháp
luật tố tụng hình sự quy định nghĩa vụ đối với người bào chữa là để bảo đảm quyền
của người bị buộc tội.
- Có quyền thì tất yếu có nghĩa vụ:
Khi các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng quy định cho họ
các quyền để bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó, thì pháp luật tố tụng hình sự
cũng quy định các nghĩa vụ tương ứng đối với các quyền mà các chủ thể tham gia tố
tụng được hưởng. Ví dụ, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành


16
tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán), quyền và nghĩa vụ của người
tham tố tụng (người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo …). Các chủ thể
được hưởng các quyền khi tham gia tố tụng thì đương nhiên các chủ thể phải thực
hiện các nghĩa vụ tương ứng.
Quy định này vừa bảo đảm các chủ thể được hưởng các quyền vừa bảo đảm
các chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng. Quyền ln gắn liền với nghĩa
vụ, có quyền thì tất yếu có nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ ln gắn liền với nhau và
không thể tách rời nhau.
- Nghĩa vụ của người bào chữa đó là cơ sở để xử lý trách nhiệm đối với họ:
Trách nhiệm chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà người bào chữa phải gánh
chịu trước Nhà nước và trước người bị buộc tội khi có hành vi vi phạm.
Người bào chữa tham gia tố tụng hình sự với nghĩa vụ và mục đích là làm

sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định
để chứng minh người bị buộc tội vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của người bị buộc tội. Người bào chữa vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ thì phải
chịu trách nhiệm, tùy theo tính chất mức độ người bào chữa có thể hủy bỏ việc đăng
ký bào chữa, xử lý kỷ luật, phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
gây thiệt hại phải bồi thường.
Vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định nghĩa vụ đối với người bào chữa
đó là cơ sở xử lý trách nhiệm đối với người bào chữa.
- Bảo đảm hoạt động nghề nghiệp của người bào chữa:
Mọi hoạt động nghề nghiệp trong xã hội cần có nghĩa vụ để bảo đảm hoạt
động. Hoạt động nghề nghiệp của người bào chữa cũng khơng loại trừ, cần có nghĩa
vụ để bảo đảm thực hiện, trong đó có nghĩa vụ của người bào chữa thực hiện hoạt
động bào chữa. Dựa trên đó pháp luật tố tụng hình sự quy định nghĩa vụ của người
bào chữa nhằm bảo đảm hoạt động nghề nghiệp của người bào chữa, và nâng cao
trách nhiệm đối với người bào chữa.
Từ các cơ sở lý luận về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
trên, chúng ta có thể lý giải được vì sao Bộ luật tố tụng hình sự quy định nghĩa vụ
của người bào chữa. Đó là bảo đảm quyền của chủ khác, có quyền tất yếu phải có
nghĩa vụ, cơ sở xử lý trách nhiệm của người bào chữa và bảo đảm hoạt động nghề
nghiệp của người bào chữa.


17
1.2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự
- Cơ sở chính trị về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Theo mục B Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, nêu rõ: “Khi xét xử,
các Tòa án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền,
lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn quy định”.
Theo phần II Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội ngũ luật
sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ, có chun mơn.
Hồn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa,
đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm của luật sư, Nhà nước tạo điều kiện pháp
lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư, đề cao trách nhiệm của tổ chức
luật sư đối với thành viên của mình”.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có thể
thấy trọng tâm của hai nghị quyết là “nâng cao chất lượng cơ quan Tòa án, chất
lượng tranh tụng tại phiên xét xử, đề cao vị thế, vai trò của người bào chữa”.
- Cơ sở pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Cơ sở pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam lần đầu được quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
theo đó người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định bị can, bị cáo vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo;
giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;


18
Người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã
đảm nhận, nếu khơng có lý do chính đáng;
Người bào chữa khơng được tiết lộ bí mật mà mình biết được trong khi làm

nhiệm vụ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
đã bổ sung nhiều quy định mới về nghĩa vụ người bào chữa, theo khoản 3 Điều 58
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được
tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa
người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định
tại Điều 95 của Bộ luật này;
Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ;
Khơng được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình
đã đảm nhận bào chữa, nếu khơng có lý do chính đáng;
Tơn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Có mặt theo giấy triệu tập của Tồ án;
Khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào
chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức
và cá nhân.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, cơ sở pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự được quy
định tại khoản 2 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết
xác định người bị buộc tội vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo;



19
Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ;
Khơng được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm
nhận bào chữa nếu khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại
khách quan;
Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa
theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo u cầu của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
Khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa;
khơng được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân;
Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi
bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng
thơng tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh đó cơ sở pháp lý về nghĩa vụ của người bào chữa được ghi nhận
dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa:
Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “người bị buộc tội có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Nhìn từ góc độ các văn bản pháp luật quốc tế hiện đại, quyền con người của
người bị buộc tội được bảo đảm trên cơ sơ: Các nguyên tắc tố tụng hình sự; các
quy định về các quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội; quy định các biện
pháp bảo đảm pháp lý để thực hiện các nguyên tắc tố tụng và quyền tố tụng của
người bị buộc tội25. Pháp luật tố tụng hình sự quy định nguyên tắc này nhằm bảo
đảm quyền bào chữa người bị buộc tội trước cơ quan tiến hành tố tụng.

Trần Văn Độ (2010), Tài liệu hội thảo quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự do Viện kiện sát
nhân dân tối cao tổ chức, số tr.15.
25


×