Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
HỒ NGUYỄN TƢỜNG VY


HỒ NGUYỄN TƢỜNG VY

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG
HỢP ĐỒNG GIAO KẾT TỪ XA



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

KHĨA 29
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 12-2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG
HỢP ĐỒNG GIAO KẾT TỪ XA
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thăng Long


Học viên: Hồ Nguyễn Tường Vy
Lớp: Cao học Luật Kinh tế
Khóa: 29

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 12-2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan rằng tồn bộ nội dung trong Luận văn này được hình thành và phát
triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Trần Thăng Long – Giảng viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong Luận văn này, tơi có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Việc trích dẫn này tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ và được thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các dữ liệu, số liệu và
các thơng tin được trình bày trong Luận văn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 12 năm 2021
Tác giả Luận văn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết đầy đủ

1

Người tiêu dùng


2

Thương mại điện tử

3

Hợp đồng giao kết từ xa

4

Online Dispute Resolution

Từ viết tắt
NTD
TMĐT
HĐGKTX
ODR

Nghị định 99/2011/NĐ-CP
ngày 27/10/2011 quy định chi
5

6

tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
Nghị định 52/2013/NĐ-CP
ngày 16/05/2013 về thương

mại điện tử

NĐ 99/2011/NĐ-CP

NĐ 52/2013/NĐ-CP


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 01
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIAO KẾT TỪ XA ...................................... 09
1.1. Tổng quan về hợp đồng giao kết từ xa ............................................................... 09
1.1.1. Khái quát về “hợp đồng” trong pháp luật dân sự Việt Nam ......................... 09
1.1.2.Hợp đồng giao kết từ xa ................................................................................. 11
1.2.Tổng quan về ngƣời tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong hợp
đồng giao kết từ xa ....................................................................................................................... 23
1.2.1.Khái niệm người tiêu dùng và chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng . 23
1.2.2.Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ xa .................. 27
1.2.3.Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng giao kết từ
xa ............................................................................................................................... 29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG HỢP ĐỒNG GIAO KẾT TỪ XA .............................................................. 33
2.1. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng liên quan đến việc giao kết
hợp đồng ........................................................................................................................................... 33
2.1.1.Quy định pháp luật về giao kết hợp đồng ....................................................... 33
2.1.2.Bất cập, vướng mắc và thực tiễn hiện nay về hợp đồng giao kết từ xa .......... 39
2.1.3.Giải pháp, kiến nghị để khắc phục bất cập, vướng mắc ................................. 44
2.2. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong quá trình thực hiện
hợp đồng ........................................................................................................................................... 47
2.2.1.Quy định pháp luật trong quá trình thực hiện hợp đồng giao kết từ xa ......... 47

2.2.2.Thực tiễn áp dụng và bất cập trong quá trình thực hiện hợp đồng ................ 54
2.2.3.Giải pháp, kiến nghị ....................................................................................... 58
2.3. Nhóm quy định bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng liên quan đến các tranh
chấp phát sinh trong hợp đồng giao kết từ xa ................................................................... 62
2.3.1.Quy định pháp luật liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hợp đồng giao kết từ xa .................................................................................. 62
2.3.2.Thực tiễn áp dụng và những bất cập, vướng mắc, cơ chế thực thi ................. 68
2.3.3.Giải pháp, kiến nghị ....................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG II .......................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của kỷ nguyên số, biên giới thị trường dần được xóa bỏ và
kết nối nhiều quốc gia, khu vực với nhau. Các chính sách hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới vì thế mà mở ra nhiều cơ hội cho người tiêu dùng (sau đây được viết tắt
là “NTD”) tiếp cận và sử dụng các hình thức mua bán hiện đại, đồng thời cũng tiềm ẩn
không ít rủi ro. Theo đó, có “mn hình vạn trạng” các hành vi vi phạm quyền lợi NTD
thông qua các giao kết từ xa với các hình thức đơn giản đến phức tạp khiến vấn đề này
thời gian gần đây được quan tâm nghiên cứu hơn bao giờ hết.
Qua hơn 10 năm thực thi Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010, Luật đã bộc lộ nhiều
hạn chế và không đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn xã hội như tên gọi “bảo vệ quyền lợi
NTD”. Đặc biệt, trong thời đại thương mại điện tử (TMĐT) và bán hàng từ xa đang
phát triển mạnh mẽ, với các hình thức mua bán trực tuyến trên các website TMĐT, qua
các mạng xã hội như Facebook, Zalo … đã xuất hiện nhiều hành vi xâm phạm quyền
lợi NTD mới. Trong khi đó, một số quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD chưa rõ
ràng hoặc khơng cịn phù hợp với bối cảnh TMĐT và mơ hình kinh doanh trên mạng1.

Thơng qua hình thức mua bán trên phương tiện thông tin điện tử, rất nhiều trường
hợp vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD xảy ra như giao hàng không đúng chất
lượng, mẫu mã theo đơn đặt hàng; thiếu minh bạch khi cung cấp thơng tin hàng hóa,
dịch vụ; khơng thực hiện đầy đủ các chính sách bảo mật thơng tin khách hàng hay
chính sách chăm sóc khách hàng cịn nhiều lỗ hổng… đều là những vấn đề cần có sự
can thiệp từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho
NTD.
Hợp đồng giao kết từ xa (sau đây được viết tắt là “HĐGKTX”) không phải là một
khái niệm mới trong pháp luật dân sự nói chung và pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
nói riêng. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD 1999 chưa đề cập đến khái niệm

1

Nhận định của ông Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch Hội bảo vệ NTD Việt Nam. Xem thêm:
/>

2

HĐGKTX2. Từ khi NĐ 99/2011/NĐ-CP ra đời để hướng dẫn một số điều của Luật bảo
vệ quyền lợi NTD 2010 thì khái niệm HĐGKTX mới được hình thành nhưng việc áp
dụng vẫn cịn nhiều hạn chế, vẫn đang tìm chỗ đứng của mình trong quá trình tham gia
vào các giao dịch từ xa. Hai ngun nhân chính có thể kể đến gồm:
Thứ nhất, hiện nay chỉ NĐ 99/2011/NĐ-CP điều chỉnh HĐGKTX và một số quy
định liên quan đến việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Các điều khoản còn lại vẫn lấy
nền tảng là hợp đồng dân sự nói chung, chưa có sự tách bạch;
Thứ hai, chính vì hệ thống văn bản còn đơn giản và chưa được phổ biến rộng rãi
nên khi thực hiện hợp đồng, người tham gia khơng nhận biết được loại hợp đồng mà
mình đang giao kết là gì, cũng như khơng biết các quyền mà mình được thụ hưởng từ
NĐ 99/2011/NĐ-CP ra sao để tự bảo vệ mình.
Khi các giao dịch mang tính chất của HĐGKTX thông qua phương tiện điện tử,

điện thoại ngày càng tăng lên nhanh chóng thì việc xác định đâu là HĐGKTX rất quan
trọng trong việc thực hiện các chính sách, cơ chế bảo vệ quyền lợi NTD. Vì vậy, việc
bảo vệ quyền lợi NTD trong các giao dịch giao kết từ xa là một vấn đề cấp thiết cần
phải đặt ra và giải quyết. NTD mới chỉ dừng lại ở việc đề phòng, hạn chế đến mức tối
đa việc bị xâm phạm quyền lợi, vì vậy, cần phải hồn thiện quy định pháp luật để tạo ra
khung pháp lý, từ đó bản thân mỗi người sẽ tự bảo vệ quyền lợi của chính mình từ khi
bắt đầu tham gia vào các giao dịch từ xa. Song song đó, cơ quan có thẩm quyền cũng
có cơ sở để xử lý khi phát hiện dấu hiệu vi phạm quyền lợi của NTD.
Với mong muốn phân tích, đánh giá quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng,
cũng như đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
trong việc bảo vệ quyền lợi NTD trong các hợp đồng giao dịch từ xa, góp phần định
hình khung pháp lý, đảm bảo quyền lợi NTD được bảo vệ tối đa, tạo ra cơ chế bình
đẳng trong thị trường, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hợp đồng giao kết từ xa” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.

2

Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD năm 1999 chỉ quy định sơ lược về công tác bảo vệ quyền lợi NTD, bao gồm
quyền và nghĩa vụ của các bên; quản lý nhà nước về NTD; giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đã giao
kết. Pháp lệnh chưa đề cập đến các loại hợp đồng được giao kết giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh; cũng
chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây, đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng
giao kết từ xa” không được nhiều học giả đặt trọng tâm nghiên cứu. Đến thời điểm gần
đây, dưới sự bùng nổ của khoa học công nghệ, việc nghiên cứu chi tiết về loại hình hợp
đồng này, cũng như những chính sách về bảo vệ quyền lợi NTD trong quá trình giao

kết hợp đồng từ xa mới được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà đề tài này có sức hút
mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu và cơ quan cơng quyền.
Các nội dung phân tích, đánh giá chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD tại
Việt Nam có liên quan đến HĐGKTX đã được đề cập thông qua các bài báo, tạp chí,
kỷ yếu hội thảo, cơng bố của cơ quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên,
phần đơng trong đó là nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào một địa phương nhất định,
hoặc những cơng trình phân tán nghiên cứu về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong
các giao kết từ xa của các nước, so sánh với Việt Nam ở các năm trước đây rất lâu.
Theo tìm hiểu của tác giả, gần đây nhất, có hai cơng trình có cùng đề tài nghiên
cứu với luận văn này. Thứ nhất là của tác giả Bùi Thị Phương Loan – Pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD trong HĐGKTX (2017), Đại học Kinh tế TP. HCM. Luận văn này tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về HĐGKTX để làm nền tảng nghiên cứu thực
trạng, hạn chế và đưa ra kiến nghị trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD trong
HĐGKTX tại tỉnh Cà Mau. Thứ hai là của tác giả Mai Kim Hân - Pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD trong HĐGKTX (2017), Trường Đại học Cần Thơ. Dưới góc độ của
luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực trạng của
việc thực hiện HĐGKTX trong hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD từ năm 2017
trở về trước. Tại thời điểm đó, loại hợp đồng này vẫn chưa thực sự bùng nổ và chiếm
lĩnh thị trường như hiện nay.
Ngồi ra, các cơng trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài này cịn
được cơng bố trên các tạp chí chun ngành, kỷ yếu hội thảo, luận văn, sách chuyên
khảo cụ thể như:
Bài viết “Pháp luật của Liên minh Châu Âu về HĐGKTX trong thương mại và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Lê Hương Giang đăng trên Tạp chí Luật học,


4

số 2 năm 2013. Bài viết này đã nghiên cứu về các quy định liên quan đến HĐGKTX
(distance contract) của Liên minh Châu Âu, từ đó đánh giá chính sách bảo vệ NTD

trong lĩnh vực này. Đồng thời, bài viết đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong việc ban hành các chính sách bảo vệ quyền lợi NTD.
Bài viết “The right of withdrawal under the Consumer Right Directive as a tool
to protect consumers concluding a distance contract” của Reinhard Steennot đăng trên
Tạp chí Computer Law and Security Review năm 20133. Bài viết này đã phân tích về
quyền rút lui của NTD trong các giao dịch từ xa, cho thấy mặc dù Chỉ thị bảo vệ NTD
2011/83/EU đã tăng quyền của NTD nhưng họ cũng vẫn dễ bị xâm phạm khi khơng có
bất kỳ quy định nào khống chế và họ vẫn phải chịu trách nhiệm cho phần hàng hóa/
dịch vụ mà mình đã sử dụng.
Bài viết “The right of withdrawal in distance contract” của Phó Giáo sư Umit
Gezder đăng trên Tạp chí Yasar University năm 20134. Bài viết này đã phân tích pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD và công tác bảo vệ NTD thông qua quyền rút lui (Right of
withdrawal) trong pháp luật Thổ Nhĩ Kỳ. Bên cạnh đó, bài viết thể hiện được sự khác
biệt giữa pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX tại Thổ Nhĩ Kỳ trước và sau
năm 2011 – Thời điểm Chỉ thị bảo vệ NTD 2011/83/EU có hiệu lực.
Bài viết “Bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX – Giải pháp “Quyền rút lui” của
pháp luật Châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam” của Võ Thị Thanh Linh và Đồn
Thanh Hải đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 20195. Bài viết này nghiên
cứu những thách thức đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD trong các HĐGKTX. Đặc
biệt, bài viết tập trung phân tích, đánh giá giải pháp quyền rút lui của pháp luật Châu
Âu nhằm bảo vệ quyền lợi NTD, từ đó đưa ra một số gợi mở đối với Việt Nam.

3

Reinhard Steennot, “The right of withdrawal under the Consumer Right Directive as a tool to protect consumers
concluding a distance contract”, />truy cập ngày 17/07/2021.
4
Umit Gezder, “The right of withdrawal in distance contract”, truy cập ngày 17/07/2021.
5
Võ Thị Thanh Linh và Đoàn Thanh Hải (2019), “Bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX – Giải pháp “Quyền

rút lui” của pháp luật Châu Âu và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09
(377)/2019.


5

Bài viết “Giải quyết tranh chấp trực tuyến ở Việt Nam” của Dương Quỳnh Hoa
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp năm 20196. Bài viết này đã giới thiệu về
phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, nêu ra các thách thức khi áp dụng tại
Việt Nam và giải pháp thực hiện.
Bên cạnh đó cịn có bài viết “Thúc đẩy giải quyết tranh chấp trực tuyến trong
TMĐT” của Võ Thị Thanh Linh tại Hội thảo “Thúc đẩy giải quyết tranh chấp trực
tuyến trong TMĐT nhằm bảo vệ NTD” năm 2021 do VIAC tổ chức nhằm xây dựng
Báo cáo nghiên cứu về phương thức giải quyết tranh chấp trong và ngoài tố tụng; xác
định yêu cầu và khả năng áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR
– Online Dispute Resolution) tại Việt Nam.
Bài viết “Một số khía cạnh pháp lý trong HĐGKTX bằng phương tiện điện tử Góc nhìn từ pháp luật Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Võ Thị
Thanh Linh tại Hội thảo quốc tế: Trách nhiện dân sự và hợp đồng: Hội hợp tác pháp lý
Châu Âu và Việt Nam (2019). Bài viết này nghiên cứu một số vấn đề pháp lý đặc thù
liên quan đến HĐGKTX bằng phương tiện điện tử dưới góc nhìn tương quan của pháp
luật Châu Âu và pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Xuất phát từ phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu, các đề tài này vẫn chưa
có cái nhìn bao qt để nhận diện được các nhóm quy định chính từ khi giao kết hợp
đồng đến khi hoàn thành việc giao nhận và cả giải quyết khi có tranh chấp phát sinh.
Bên cạnh các đề tài nêu trên, các báo cáo, đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức phi chính phủ về bảo vệ quyền lợi NTD cũng có những nhận định
cụ thể, đơn cử như các Báo cáo thường niên của Cục Quản lý Cạnh tranh và bảo vệ
quyền lợi NTD – Bộ Công thương qua các năm từ 2015 đến 2020 hay . Trong các báo
cáo này đề cập đến nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý của Cục quản lý cạnh tranh
và bảo vệ quyền lợi NTD, trong đó có cơng tác bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, các

báo cáo cũng chỉ dừng lại ở việc cung cấp thơng tin và những gì đã làm được trong từ
năm mà chưa có sự đánh giá, dự báo về các nguy cơ có khả năng xâm phạm NTD
trong tương lai ngắn 1 năm tiếp theo.
6

Dương Quỳnh Hoa (2020), “Giải quyết tranh chấp trực tuyến ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19
(419)/ Kỳ 1, tháng 10/2020, tr. 44.


6

Trên cơ sở tham khảo nội dung của các nghiên cứu nêu trên, trong phạm vi Luận
văn này, tác giả làm rõ các khái niệm cơ bản về pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong
HĐGKTX, kế thừa các đánh giá, phân tích và tổng hợp về quy định pháp luật cũng như
thực trạng công tác bảo vệ quyền lợi NTD trong thời điểm hiện tại, đồng thời kiến nghị
hoàn thiện quy định pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này hướng đến mục đích hồn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam để điều chỉnh hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX trên cơ sở phân
tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện hành. Để đạt được mục đích nêu
trên, tác giả sẽ đi tìm câu trả lời cho 03 (ba) nhóm câu hỏi dưới đây:
Thứ nhất, xác định khái niệm và đặc điểm của HĐGKTX? Để giao kết hợp đồng
này, các chủ thể phải thực hiện bằng phương thức nào? Các chủ thể có được quyền gì
khi thực hiện loại hợp đồng này? Phân biệt hợp đồng này và các loại hợp đồng khác để
thấy được điểm đặc trưng của nó.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề trong quá trình giao kết, thực
hiện và giải quyết tranh chấp trong HĐGKTX như thế nào? Bất cập và thực trạng của
các vấn đề trên ra sao?
Thứ ba, những quy định pháp luật nào cần phải hoàn thiện nhằm giúp NTD được
bảo vệ một cách tốt nhất khi tham gia vào các giao dịch từ xa?

4. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định điều chỉnh HĐGKTX trong pháp luật Việt
Nam, được ký kết giữa NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn chỉ tập trung khai thác các khía cạnh pháp lý liên quan đến
quá trình giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp giữa NTD và cá nhân, tổ chức
kinh doanh trong HĐGKTX, từ đó đi đến phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD hiện hành trong phạm vi HĐGKTX.


7

“Người tiêu dùng” được nêu trong phạm vi Luận văn này là cá nhân, tổ chức thực
hiện các giao dịch tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày.
“Cá nhân, tổ chức kinh doanh” được nêu trong phạm vi Luận văn này là các
doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân hoạt động kinh doanh độc lập được định nghĩa theo
quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định
39/2007/NĐ-CP7.
Tại thời điểm hoàn thiện Luận văn này, Bộ luật Dân sự 2015, Luật bảo vệ quyền
lợi NTD 2010 và NĐ 99/2011/NĐ-CP đang có hiệu lực, Bộ Cơng thương đang trong
thời gian đề nghị sửa đổi một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi NTD.
Về không gian và thời gian, Luận văn khai thác các số liệu, tình huống pháp lý,
án lệ phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng, đặc biệt là các giao dịch từ
xa, thông qua các phương tiện điện tử hoặc điện thoại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong Luận văn này, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích, bình luận: là phương pháp được sử dụng xuyên suốt
Luận văn để phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận xoay quanh HĐGKTX và bảo vệ

quyền lợi NTD trong hợp đồng đó. Đồng thời phương thức này được sử dụng để đánh
giá, bình luận về thực tiễn áp dụng các quy định trên thực tế.
Phương pháp so sánh: phương pháp này được tác giả sử dụng để (i) so sánh quy
định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD tại các quốc gia, khu cực khác với Việt Nam;
(ii) so sánh nội dung các điều khoản trong hợp đồng nói chung theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 và HĐGKTX trong NĐ 99/2011/NĐ-CP;
(iii) so sánh HĐGKTX với hợp đồng TMĐT; (iv) so sánh tính ứng dụng của các hình
thức giải quyết tranh chấp trong các giao kết từ xa.

7

Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 định nghĩa về “doanh nghiệp”; Điều 101 Bộ luật Dân sự 2015;
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP về hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải
đăng ký kinh doanh quy định về “cá nhân hoạt động thương mại”.


8

Phương pháp liệt kê: Phương pháp này được sử dụng ở cả trong Chương 1 và
Chương 2 của Luận văn vì tính ứng dụng cao, dùng để liệt kê các điều khoản cơ bản,
vai trị, vị trí của HĐGKTX; các quyền của NTD và các phương thức để giao kết hợp
đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh. Mặc dù phương thức này khơng mang tính mở
nhưng đem lại sự minh bạch, rõ ràng cho người đọc.
Phương pháp tổng hợp: từ các phân tích, bình luận và so sánh các quy định pháp
luật, phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để đưa ra các nhận định cụ thể về sự
cần thiết tồn tại các quy định pháp luật điều chỉnh HĐGKTX; đưa ra quan điểm về
những bất cập trong quy định pháp luật và các kiến nghị hoàn thiện. Phương pháp này
cũng được tác giả sử dụng cuối mỗi chương để khái quát, tóm tắt kết quả nghiên cứu
của từng Chương và của cả Luận văn.
6. Các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn

Về mặt lý luận, tác giả đã tiếp cận đến một loại hợp đồng khá đặc trưng của pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam – HĐGKTX. Khái niệm HĐGKTX, đặc trưng,
vai trò và việc phân biệt với các loại hợp đồng khác đã góp phần củng cố về mặt lý
luận khi tác giả tiến hành phân tích các vấn đề tổng quan của hợp đồng này. Bên cạnh
đó, việc phân chia quy định pháp luật thành các nhóm giao kết – thực hiện – giải quyết
tranh chấp trong HĐGKTX để tiến hành phân tích chúng là một đóng góp mới về lý
luận khi nghiên cứu về lĩnh vực này.
Về mặt thực tiễn, thực trạng của việc thực hiện HĐGKTX phần nào phản ánh
được bức tranh chân thực về các giao dịch từ xa thông qua các phương tiện điện tử,
điện thoại – điều mà pháp luật và các nghiên cứu trước đây chưa thể bắt kịp. Từ đó, các
cơ quan quản lý nhà nước có thể xem xét, đánh giá lại tính phổ biến, tính hợp lý và
nguy cơ rủi ro để có phương án hướng dẫn các chủ thể có liên quan, đặc biệt là NTD,
áp dụng đúng các quy định về HĐGKTX. Bên cạnh đó, các kiến nghị sửa đổi, bổ sung
quy định pháp luật về HĐGKTX có thể là một nguồn tham khảo sơ cấp cho việc sửa
đổi Luật bảo vệ quyền lợi NTD và các nghị định hướng dẫn liên quan đến HĐGKTX.


9

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIAO KẾT TỪ XA

Trong nền kinh tế, NTD đóng vai trị trung tâm trong q trình tiêu thụ hàng hóa
cũng như sử dụng dịch vụ. Việc xác định đối tượng nào là NTD để từ đó có chính sách
bảo vệ cho phù hợp đã góp phần tạo nên khung pháp lý vững chắc trong hoạt động
kinh doanh thương mại hiện nay. Nhìn chung, cho dù được pháp luật bảo vệ một cách
tối đa nhưng NTD vẫn là bên yếu thế hơn trong mối quan hệ vớitổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ; đặc biệt là trong những trường hợp họ không có cơ hội tiếp
xúc với hàng hóa, dịch vụ và cả bên cung ứng. Không chỉ vậy, thị trường ngày càng có
những chuyển động bất ngờ, pháp luật chưa thể điều chỉnh một cách kịp thời và tương

xứng với các tình huống trong thực tế. Để khắc phục những rủi ro do việc khơng có sự
tiếp xúc của hai bên trong hợp đồng, pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đã khái quát khái
niệm “hợp đồng giao kết từ xa” và nghiên cứu, làm rõ nhằm có cái nhìn tồn diện và
đầy đủ hơn về loại hợp đồng đặc biệt này.
1.1. Tổng quan về hợp đồng giao kết từ xa
1.1.1. Khái quát về “hợp đồng” trong pháp luật dân sự Việt Nam
Trong suốt chiều dài tồn tại của pháp luật dân sự Việt Nam, khái niệm về “hợp
đồng” có nhiều sự thay đổi và được hoàn thiện qua thời gian. Sự thay đổi lớn nhất
được thể hiện ngay trong câu chữ của khái niệm này trong các bộ luật dân sự của các
thời kỳ (hợp đồng dân sự - hợp đồng). Nhà làm luật nhìn nhận về sự ràng buộc của hợp
đồng nghiêng về mặt chủ quan của sự thỏa thuận ý chí hơn là mặt khách quan/kết quả
của sự thỏa thuận đó. Việc các bên có ý chí tạo lập hệ quả pháp lý ràng buộc mình hay
khơng hơn là việc hệ quả pháp lý ràng buộc các bên xuất phát từ sự thỏa thuận hay xuất
phát từ quy chế pháp lý được định sẵn bởi pháp luật8.
Theo phương diện khách quan thì hợp đồng một chế định pháp lý quan trọng của
pháp luật dân sự, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực trao đổi, dịch chuyển các lợi ích vật chất, dựa trên sự cam
8

Trần Kiên, Nguyễn Khắc Thu (2019), “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2+3 (378+379)/ Kỳ 1, tháng 02/2019, tr. 50.


10

kết, thỏa thuận tự do và tự nguyện giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng với
nhau. Còn theo nghĩa chủ quan, “hợp đồng” là một loại giao dịch dân sự làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia9. Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng được định
nghĩa là“… sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự”10.

Trước khi Bộ luật Dân sự 2005 sử dụng khái niệm “hợp đồng”, Bộ luật Dân sự
1995 đã dùng khái niệm “hợp đồng dân sự” với cùng ý nghĩa đó. Sự thay đổi tên gọi
trong này hàm ý rằng, Bộ luật Dân sự 2015 sẽ là văn bản xác lập nguyên tắc chung về
hợp đồng, các quy định của Luật Thương mại năm 2005 hay Luật bảo vệ quyền lợi
NTD 2010…. sẽ điều chỉnh các hợp đồng chuyên biệt cho từng lĩnh vực11. Sự sửa đổi
này nhằm loại bỏ mọi cách hiểu khơng chính xác cả về mặt khoa học và trong thực tiễn
về phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, để chế định hợp
đồng này là nền tảng của mọi quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực tư12.
Từ định nghĩa trên, có 3 thành tố tạo nên bản chất của hợp đồng cần phải lưu ý là:
Thứ nhất, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện và sự gặp gỡ ý chí
của các bên13. Đây là yếu tố quan trọng thể hiện bản chất của hợp đồng, là kết quả của
sự đồng thuận, thống nhất ý chí của các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra ràng buộc pháp lý giữa các bên. Nếu
các bên có sự thỏa thuận nhưng khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với nhau
thì khơng phải là hợp đồng14. Về mặt khách quan, sự thỏa thuận cần tạo ra được hệ quả
pháp lý thì mới có thể coi là hợp đồng15.
9

Trường Đại học Luật TP. HCM (2015), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, PGS. TS Đỗ Văn Đại chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.124.
10
Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015.
11
Đoàn Thị Phương Diệp (2019), “Pháp luật hợp đồng Việt Nam nhìn ở góc độ so sánh với luật của Cộng hịa
Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11 (387)/ Kỳ 1, tháng 6/2019, tr. 56.
12
Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng
Đức, tr. 367.
13
Lê Minh Hùng (2009), “Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số

1(50)/2009, tr.14.
14
Trường hợp A là đơn vị vận chuyển hàng hóa từ nước ngồi về Cảng Sài Gòn, thuê B vận chuyển tiếp về kho
bãi tại Quận 2, TP. HCM. Như vậy giữa A và B phát sinh quyền cũng như trách nhiệm với nhau và với hàng hóa
do mình vận chuyển (do thỏa thuận th tạo nên ràng buộc pháp lý). Trường hợp khác, nếu A và B đều là đối tác
của bên thứ ba, thỏa thuận với nhau để thực hiện một phần của quá trình vận chuyển và chịu trách nhiệm trước


11

Thứ ba, thỏa thuận tạo lập hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu tuân thủ các điều kiện
luật định16. Bên cạnh việc thỏa thuận của các bên trong khuôn khổ pháp luật, chỉ được
làm những điều mà pháp luật không cấm thì hợp đồng trong giao dịch dân sự cịn phải
tuân thủ các điều kiện như nội dung và mục đích17, hình thức hợp đồng18, sự tự nguyện,
năng lực chủ thể19 …Cho dù hai bên có thỏa thuận như một dạng hợp đồng nhưng lại
không tuân thủ đúng điều kiện về mặt hình thức của hợp đồng thì thỏa thuận đó khơng
có hiệu lực pháp lý20.
1.1.2. Hợp đồng giao kết từ xa
1.1.2.1. Khái niệm hợp đồng giao kết từ xa
Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ hiện đại, ngày nay mọi hoạt động
của con người dường như đều có thể thực hiện được thơng qua phương tiện điện tử.
Chỉ cần một “click” chuột hoặc một cuộc gọi, việc mua đồ dùng gia đình, mua quần áo
hay thậm chí việc đi chợ đều có thể thực hiện qua điện thoại hoặc internet. Việc thực
hiện các thao tác từ xa đó thực tế đã tạo ra một loại hợp đồng đơn giản và được khái
quát thành khái niệm “hợp đồng giao kết từ xa”.
Khái niệm HĐGKTX là một khái niệm cịn mới mẻ so với định nghĩa hợp đồng
nói chung. Trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ trước đến
nay, HĐGKTX lần đầu tiên được xuất hiện và đề cập đến tại khoản 1 Điều 3 NĐ
99/2011/NĐ-CP như sau:
“HĐGKTX là hợp đồng được ký kết giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ thơng qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại.”

bên thứ ba về hàng hóa đó thì giữa A và B không phát sinh các ràng buộc pháp lý với nhau. Lúc này thỏa thuận
giữa A và B không mang bản chất của hợp đồng.
15
Trần Kiên, Nguyễn Khắc Thu, tlđd (8), tr. 48.
16
Trường Đại học Luật TP. HCM, tlđd (9), tr.124.
17
Điều 117, 118, 398 Bộ Luật Dân sự 2015.
18
Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015.
19
Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015.
20
Ví dụ, A mua mảnh đất nền từ B và hai bên có viết giấy thỏa thuận mua bán. Tuy nhiên văn bản thỏa thuận đó
khơng được cơng chứng/ chứng thực từ cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Như vậy, văn bản thỏa
thuận khơng đáp ứng đúng hình thức của hợp đồng, thỏa thuận trên vô hiệu, hai bên không phát sinh quyền và
nghĩa vụ đối với nhau.


12

Khái niệm này đã bắt kịp với cách tiếp cận của một số quốc gia tồn tại chế định
bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX. Trong đề cương của dự thảo Luật bảo vệ
quyền lợi NTD sắp được sửa đổi, khái niệm về HĐGKTX đã được đề cập một cách
chính thức. Cũng cần nhìn nhận rằng, phạm vi quyền của NTD trong HĐGKTX ở các
quốc gia nêu trên không giống nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các giao
dịch xuyên biên giới (cross-border transactions) bằng hình thức giao kết từ xa.
Theo cách tiếp cận của EU tại Chỉ thị 2011/83/EU của Nghị viện Châu Âu và Hội

đồng năm 2011, HĐGKTX được định nghĩa là “bất kỳ loại hợp đồng nào giữa người
bán và NTD dưới hình thức tổ chức bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ từ xa mà khơng có
sự hiện diện thực tế của người bán và NTD, chỉ sử dụng một hoặc nhiều phương tiện
liên lạc từ xa trở lên, bao gồm cả trong thời gian hợp đồng được giao kết”21. Khái niệm
này được thừa nhận trong tất cả các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, có chăng là sự
quy định chi tiết hơn khái niệm nêu trên nhưng vẫn mang bản chất được thống nhất tại
Chỉ thị 2011/83/EU.
Quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD Latvia lại có cách diễn đạt cụ thể
hơn. Theo đó “hợp đồng giao kết từ xa” là “một thỏa thuận được ký kết giữa NTD và
người bán hoặc người cung cấp dịch vụ mà khơng có sự hiện diện thực tế của họ tại
cùng một địa điểm, với việc sử dụng một hoặc nhiều phương tiện liên lạc trở lên và bao
gồm cả thời gian giao kết hợp đồng, cũng như một kế hoạch bán hàng hoặc cung cấp
dịch vụ. Điện thoại, trang thông tin điện tử, thư điện tử, ti vi, fax, danh mục, quảng cáo
cơng khai trên báo chí mà phiếu đặt hàng được đính kèm, và các phương tiện từ xa
khác được gửi và truyền thông tin sẽ được coi là phương tiện liên lạc từ xa”22.

21

Article 2(7) of Directive 2011/83/EU of the European Parliament and of the Council of 25 October 2011:
„distance contract‟ means any contract concluded between the trader and the consumer under an organised
distance sales or service-provision scheme without the simultaneous physical presence of the trader and the
consumer, with the exclusive use of one or more means of distance communication up to and including the time
at which the contract is concluded.
22
Section 10 (1) Consumer Rights Protection of Latvia 2014:
A distance contract is an agreement between a consumer and the trader or the service provider that they have
concluded without the simultaneous physical presence at the same location, with the exclusive use of one or more
means of distance communication up to and including the time at which the contract is concluded, as well as an
organised sales or service provision scheme. A phone, web, electronic mail, television, fax, catalogue,
advertisements published on press, to which an order coupon is attached, and other distance means for

information sending and transmission shall be regarded as means of distance communication.


13

Luật bảo vệ quyền lợi NTD của Trung Quốc 2013 không đề cập đến khái niệm
“hợp đồng giao kết từ xa” (the distance contract) mà chỉ đề cập các quyền mà NTD
được thực hiện khi mua hàng thông qua internet, truyền hình, điện thoại hoặc đặt hàng
qua đường bưu điện23. Như vậy, dù pháp luật của Trung Quốc không nêu khái niệm
“hợp đồng giao kết từ xa” nhưng đã thừa nhận hình thức giao kết từ xa trong tiêu dùng.
Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng HĐGKTX là thuật ngữ dùng để chỉ
các loại hợp đồng sử dụng phương tiện liên lạc trung gian, phân biệt với các hợp đồng
được các bên giao dịch trực tiếp. Định nghĩa HĐGKTX được xây dựng dựa trên nền
tảng của hợp đồng giữa các chủ thể trong quan hệ thương mại và phát triển thêm một
số yếu tố đặc trưng. Điều này có nghĩa là, bản chất của HĐGKTX vẫn là sự thỏa thuận,
thống nhất giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt mối quan hệ dân sự,
thương mại nhất định. Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý rằng việc giao kết hợp đồng phải
“thông qua phương tiện điện tử hoặc điện thoại”. Chính phương thức thực hiện hợp
đồng đã làm nên sự khác biệt rõ rệt giữa hợp đồng truyền thống và HĐGKTX.
Bên cạnh đó, vì một bên của hợp đồng này là NTD nên mục đích của hợp đồng là
phục vụ hoạt động tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình hay tổ chức, loại trừ mục
đích phục vụ sản xuất, kinh doanh24. Từ đó có thể thấy phần đơng HĐGKTX khơng
mang giá trị lớn, chỉ phục vụ cho mục đích tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày.
Theo khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005 thì “phương tiện điện tử” là
phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn
khơng dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Ở một chừng mực nhất định
thì điện thoại vẫn được xem là phương tiện điện tử25. Điện thoại được định nghĩa là
thiết bị sử dụng hệ thống dây dẫn tín hiệu điện được gửi đi hoặc hệ thống tín hiệu vơ

23


Article 25 People‟s Republic of China Law on Protection of the Rights and Interests of Consumers 2013:
Where proprietors sell goods by means such as the Internet, television, telephone or by mail order, consumers
have the right to return the goods within seven days of receipt and need not give a reason, except for the
following goods […].
24
Cao Xuân Quảng, “Bàn về khái niệm NTD trong Luật bảo vệ NTD Việt Nam, />htm, truy cập ngày 31/7/2021.
25
Bùi Thị Phương Loan (2017), Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD trong HĐGKTX, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học Kinh tế TP. HCM, tr. 19.


14

tuyến để người dùng có thể nói chuyện với người có thiết bị tương tự ở một nơi khác26.
Việc sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng là vấn đề của hàng trăm năm
trước nếu kể đến điện thoại, điện tín27. Các định nghĩa về HĐGKTX của các nước được
nêu phía trên cũng thừa nhận điện thoại là một loại phương tiện liên lạc từ xa (distance
communication).
Theo tác giả, có thể giải thích được lý do nhà làm luật tách khái niệm “điện thoại”
ra khỏi khái niệm “phương tiện điện tử”. Giao kết hợp đồng thông qua phương tiện
điện tử là việc thực hiện hợp đồng thông qua các website TMĐT hoặc mạng xã hội,
website điện tử còn việc thực hiện qua điện thoại là gọi điện, nhắn tin để giao kết. Như
vậy, việc nhà làm luật đưa cả hai phương thức giao kết vào khái niệm khơng phải là dư
thừa, thơng qua khái niệm này có thể phân biệt được hai loại HĐGKTX, từ đó xác định
được pháp luật có liên quan điều chỉnh phù hợp cho từng phương thức. Đơn cử như
việc một người đặt mua một cuốn sách trên sàn giao dịch điện tử T (thông qua sự hỗ
trợ của phương tiện điện tử là internet). Tương tự, người đó gọi đến nhà sách đặt mua
và được nhà sách chuyển đến bằng dịch vụ giao hàng cũng là một hình thức mua hàng
gián tiếp nhưng được thực hiện thông qua điện thoại (truyền dẫn khơng dây). Hai hình

thức trên khác nhau ở phương thức thực hiện tại thời điểm giao kết, cũng khác nhau về
pháp luật điều chỉnh nhưng lại đạt được cùng một mục đích (mua cuốn sách mà khơng
cần trực tiếp ra cửa hàng).
1.1.2.2. Đặc trưng của hợp đồng giao kết từ xa:
Xuất phát từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy loại hợp đồng này mang đầy đủ
những đặc điểm của hợp đồng dân sự nói chung như chủ thể tham gia (NTD – cá nhân,
tổ chức kinh doanh), hệ quả pháp lý khi thực hiện hợp đồng… Chính vì vậy, ở phần
này, tác giả chỉ đề cập đến 03 (ba) đặc trưng cơ bản nhất, dễ dàng nhận biết nhất của
HĐGKTX như sau:

26

Cambridge Dictionary, truy cập ngày
01/08/2021:
A device that uses either a system of wires along which electrical signals are sent or a system of radio signals to
make it possible for you to speak to someone in another place who has a similar device.
27
Trần Văn Biên (2010), “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2010, tr. 36.


15

Thứ nhất, ngoài hai chủ thể trung tâm là NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh,
HĐGKTX cịn có các chủ thể liên quan với vai trò là bên thứ ba như bên thanh toán
trung gian (ngân hàng điện tử, ví điện tử, cổng thanh tốn, …), bên vận chuyển và bên
trung gian thương mại (sàn TMĐT, website bán hàng và các phương thức bán hàng
trên internet khác).
Phương thức thanh toán trung gian hiện nay được thực hiện dưới rất nhiều hình
thức khác nhau như: thanh tốn qua thẻ tín dụng; chuyển khoản qua ứng dụng Internet
Banking, E-mobile Banking của các ngân hàng, ví điện tử, cổng thanh tốn; qt mã

QR trên điện thoại thơng minh (thơng qua ví điện tử, cổng thanh toán) hoặc thanh toán
tiền mặt khi nhận được hàng hóa/ dịch vụ (Cash on Delivery – COD). Đối với các giao
dịch thơng qua Internet thì tất cả các hình thức đều được sử dụng với tần suất cao28.
Cùng với sự phát triển vượt bậc của các giao dịch từ xa, hoạt động của các đơn vị
vận chuyển những năm gần đây cũng rất sôi động. Nếu như trước đây phương thức vận
chuyển qua đường bưu điện phổ biến thì hiện nay các cơng ty vận tải, các ứng dụng
giao hàng hoạt động rất mạnh mẽ, đa dạng với nhiều hình thức vận chuyển (hỏa tốc –
chuyển phát nhanh – chuyển phát thơng thường) tương ứng với phí vận chuyển khác
nhau. Tùy vào nhu cầu của NTD mà có nhiều lựa chọn phương thức phù hợp.
Việc giao kết hợp đồng bằng điện thoại đã xuất hiện từ rất lâu. Trong khi đó, giao
dịch trên sàn TMĐT, các trang mạng xã hội thơng qua internet thì mới trở nên phổ biến
trong vài năm gần đây. NTD đã chủ động hơn trong việc mua sắm sản phẩm/ dịch vụ,
từ việc lựa chọn nhãn hiệu, đơn vị cung cấp, giá cả, phương thức thanh toán, phương
thức vận chuyển đến cả việc phản hồi chất lượng sản phẩm. Việc tham gia vào các sàn
TMĐT hoặc các giao dịch trên mạng xã hội vừa tạo ra sự đa dạng về quyền chọn lựa,
vừa tiết kiệm thời gian cho NTD rất nhiều so với phương thức mua bán truyền thống.
Đây là một đặc trưng cơ bản của HĐGKTX, không một loại hợp đồng nào khác có
được.
28

Nhận định của ơng Phạm Tiến Dũng (Vụ trưởng Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà nước: “Quý 1 năm 2021,
giao dịch qua kênh Internet đạt 156,2 triệu món với giá trị 8,1 triệu tỉ đồng, tăng 28,4% về giá trị so với cùng kỳ năm
trước; giao dịch qua kênh điện thoại di động đạt 395,05 triệu món với giá trị hơn 4,6 triệu tỉ đồng, tăng 103% về giá
trị; kênh QR code đạt 5,3 triệu món với giá trị 4.479 tỉ đồng, tăng 146%...”, bài viết Bùng nổ thanh tốn khơng dùng
tiền mặt, truy cập ngày
02/08/2021.


16


Thứ hai, HĐGKTX trong các giao dịch này chủ yếu là hợp đồng theo mẫu/ điều
kiện giao dịch chung. Tuy nhiên, không phải tất cả các hợp đồng/ các điều khoản
chung đều được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền29. Trong các giao dịch dân sự
thông thường, các bên sẽ thỏa thuận nội dung của hợp đồng trước khi ký kết và các
điều khoản phải thỏa mãn ý chí của các bên tham gia, tuy nhiên HĐGKTX trước khi
đến tay NTD chủ yếu mang ý chí của cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa/ dịch vụ.
Đối với loại hợp đồng này, NTD khơng có khả năng thay đổi bất kỳ điều khoản nào mà
chỉ chấp nhận các điều khoản đó để tiến hành mua hàng/ nhận cung cấp dịch vụ. Nếu
hợp đồng theo mẫu/ điều kiện giao dịch chung có bất kỳ điều khoản nào vi phạm pháp
luật về bảo vệ quyền lợi NTD hoặc trái với nguyên tắc chung thì cơ quan có thẩm
quyền mới can thiệp để yêu cầu điều chỉnh, sửa đổi, hủy bỏ30. Tuy nhiên, chỉ khi xảy ra
tranh chấp thì NTD mới khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền, cịn lại rất ít trường hợp
được cơ quan chức năng phát hiện do số lượng HĐGKTX mỗi ngày là con số khổng lồ.
Thứ ba, HĐGKTX được hình thành thơng qua các phương tiện điện tử hoặc điện
thoại. Chính điều này khiến cho NTD và cá nhân, tổ chức kinh doanh không cần gặp
mặt trực tiếp từ bước giao kết hợp đồng cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng.
Dưới sự phát triển mạnh mẽ của internet, điện thoại và các phương tiện điện tử đã giúp
HĐGKTX tham gia vào đường đua thương mại để đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội.
Hầu hết các thao tác trong quá trình giao kết hợp đồng trên sàn TMĐT được thực hiện
thông qua email, fax, mạng xã hội, livestream …, vận hành dựa trên nền tảng internet.
Thơng qua internet, người dùng có thể chia sẻ tồn bộ thơng tin sản phẩm thơng qua
các gian hàng ảo và giao tiếp với nhau để đạt được giao kết hợp đồng mà không cần
gặp gỡ nhau trực tiếp.
Bên cạnh đó, việc giao kết hợp đồng qua điện thoại có thể thực hiện dưới hình
thức gọi điện thoại hoặc nhắn tin. Có hai trường hợp giao kết hợp đồng, đó là (1) NTD
đã lựa chọn hàng hóa/ dịch vụ từ trước và việc giao kết hợp đồng diễn ra nhanh chóng,
và (2) bên đề nghị giao kết lần đầu chào mời một sản phẩm, dịch vụ nào đó và người
29

Chỉ một số loại hợp đồng được quy định trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng

theo mẫu, điều kiện giao dịch chung (Ban hành kèm theo Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của
Thủ tướng Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/08/2015 và Quyết
định số 38/2018/QĐ-TTg ngày 05/09/2018) thì mới buộc phải đăng ký.
30
Khoản 1 Điều 16 NĐ 99/2011/NĐ-CP.


17

nhận đề nghị giao kết khơng có sự lựa chọn nào khác ngồi sản phẩm đó, thơng thường
trường hợp này mất nhiều thời gian để thỏa thuận hơn.
1.1.2.3. Vai trò hợp đồng giao kết từ xa đối với người tiêu dùng
HĐGKTX ngày càng phát huy được thế mạnh của mình trong thời đại số hiện
nay. Việc một người ở một địa điểm lại có thể lựa chọn và mua sắm được mọi thứ nhờ
vào phương tiện điện tử hoặc điện thoại cho thấy được sự thuận tiện của loại hợp đồng
này. Có thể thấy được vai trị của HĐGKTX đối với cả NTD lẫn cá nhân, tổ chức cung
cấp hàng hóa, dịch vụ như sau:
Một là, HĐGKTX góp phần hạ thấp chi phí mà cá nhân, tổ chức kinh doanh bỏ ra
trong sản phẩm (vì giảm bớt th nhân cơng, hạn chế giá thuê mặt bằng cao, tránh
được các khoản thuế, tiết kiệm được nhiều chi phí khác31), kéo theo việc giảm giá
thành sản phẩm, tăng các chương trình khuyến mại cho NTD.
Hai là, NTD trong HĐGKTX được lựa chọn phương thức thanh toán trực tuyến
và dịch vụ vận chuyển một cách linh hoạt, giảm thiểu lượng giao dịch bằng tiền mặt
trên thị trường, tạo động lực cho các kênh trung gian thanh toán, đơn vị vận chuyển
phát triển. NTD sẽ tiết kiệm được thời gian đi lại; lựa chọn hàng hóa phong phú, đa
dạng hơn; linh hoạt mua hàng hóa khi xảy ra các sự kiện bất khả kháng (dịch bệnh,
thiên tai …). Trên thực tế, nhiều thương nhân đã lựa chọn phương thức này hoặc kết
hợp giữa phương thức kinh doanh thông qua phương tiện điện tử/ điện thoại với
phương thức kinh doanh truyền thống32.
Ba là, tính năng tương tác qua lại của phương tiện điện tử/ điện thoại cho phép

NTD phản hồi, đánh giá sản phẩm sau khi mua. Nhờ vậy mà NTD khác có nguồn để
tham khảo sản phẩm/ dịch vụ kỹ lưỡng, đồng thời người bán cũng cải thiện được chất
lượng sản phẩm, khắc phục các thiếu sót cịn tồn tại33.

31

Bùi Thị Phương Loan, tlđd (25), tr.12.
Bài viết “Phát triển thị trường bán lẻ với mơ hình kinh doanh trực tuyến và trực tiếp cho doanh nghiệp nhỏ”,
truy cập ngày 03/08/2021.
33
Bài viết “Mua sắm trực tuyến: Xu hướng hiện đại và rủi ro đi kèm”, truy cập ngày 03/08/2021.
32


18

Bốn là, HĐGKTX hỗ trợ NTD dễ dàng tiếp cận thông tin sản phẩm từ nhiều
nguồn như sàn TMĐT, mạng xã hội, web … và so sánh giá cả từ các kênh khác nhau
để lựa chọn ra một sản phẩm tối ưu nhất. Phương thức mua hàng này ngày càng phát
triển khiến tư duy của các bên trong hợp đồng thoải mái hơn trong việc tham khảo giá
cả, tư vấn khách hàng và nâng cao vị thế của NTD trong quan hệ HĐGKTX.
HĐGKTX dần khẳng định vai trò quan trọng của mình trên thị trường, đặc biệt là
những thời điểm xảy ra những sự kiện bất khả kháng như dịch bệnh COVID-19 đang
hoành hành hay lũ lụt, thiên tai … Điều này bắt kịp xu hướng với các nước phát triển
trên thế giới về việc tiếp cận công nghệ hiện đại vào phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2.4. Những rủi ro thường gặp trong hợp đồng giao kết từ xa
Mặc dù HĐGKTX có vai trị quan trọng trong bối cảnh hiện nay, thực tế vẫn tồn
tại rất nhiều rủi ro cho các chủ thể. Nếu các bên trong hợp đồng minh bạch, tơn trọng
lẫn nhau thì những rủi ro này không phải là vấn đề đáng lo ngại khi giao kết hợp đồng
từ xa. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp lợi dụng lỗ hổng của pháp luật về HĐGKTX

để trục lợi cho bản thân mình. Những rủi ro có thể thấy là:
Một là, HĐGKTX mang đặc trưng là hai bên không gặp gỡ nhau và cũng không
được tiếp xúc với hàng hóa từ trước nên trách nhiệm gắn với sản phẩm/ dịch vụ không
cao, chủ yếu phụ thuộc vào thiện chí của cá nhân, tổ chức kinh doanh. Liên quan đến
vấn đề này, trách nhiệm gắn với sản phẩm được xác định là trách nhiệm bảo hành, với
hàng hóa khuyết tật, đổi – trả sản phẩm, giao nhận, … Trên thực tế, NTD không thể
trực tiếp kiểm tra, đánh giá sản phẩm/ dịch vụ trước khi mua, họ chỉ có thể lựa chọn
dựa vào sự đánh giá chủ quan của bản thân và những hình ảnh, thơng tin có được qua
phương tiện điện tử, qua lời giới thiệu của người bán. Có thể giải thích rằng, khi có
phát sinh tranh chấp, NTD không thể liên lạc hoặc xác định người bán cho mình là ai,
ở đâu để khiếu nại.
Một bộ phận NTD khác lại không quan tâm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà
chủ yếu quan tâm tới giá cả đắt hay rẻ. Điều này có thể xuất phát từ sự cạnh tranh về
giá giữa các sản phẩm trên thị trường. Người bán sử dụng hình ảnh thật của hàng hóa,
sản phẩm chính hãng để quảng cáo nhưng lại chào bán với giá rẻ hơn nhiều so với hàng


19

thật và khi giao hàng cho người mua là hàng không giống với hàng thật cả về chất
lượng và mẫu mã34. Bên cạnh đó, NTD cũng thường bỏ qua điều khoản của hợp đồng
dù nội dung đề cập đến các chính sách quan trọng như đổi – trả sản phẩm, bảo hành,
giao nhận hàng hóa35, vì các điều khoản đó rất dài và khó hiểu. Việc đảm bảo các chính
sách nêu trên không phải lúc nào cũng được cá nhân, tổ chức kinh doanh thực hiện đầy
đủ và đúng quy định.
Hai là, rủi ro đối với thông tin của NTD. Việc rị rỉ thơng tin NTD trong
HĐGKTX trở nên phổ biến và rất khó kiểm sốt. Khi NTD tham gia vào các hoạt động
giao dịch hoặc tương tác trên truyền thơng xã hội, có rất nhiều thơng tin cá nhân cần
phải cung cấp nên trường hợp rị rỉ thơng tin là thông thể tránh khỏi. Không chỉ các
giao dịch trực tiếp, các kênh mua bán trực tuyến cũng tranh thủ việc thu thập thông tin

cá nhân của NTD một cách triệt để36.
Hiện nay, bất kỳ một giao dịch từ xa nào (thông qua phương tiện điện tử hay điện
thoại), NTD đều phải để lại thông tin cá nhân như họ tên, địa chỉ, số điện thoại, nơi ở ...
Mục đích của bên bán khi thu thập thông tin NTD là để tạo lập cơ sở dữ liệu (data) của
khách hàng, từ đó thuận tiện trong q trình tư vấn sản phẩm, hỗ trợ NTD về các chính
sách sau mua hàng, có chiến lược chăm sóc khách hàng hợp lý … Tuy nhiên, việc chia
sẻ dữ liệu cho bên thứ ba, dù vơ tình hay cố ý, đều đem lại bất lợi cho NTD37, trong đó
phổ biến nhất là hành vi quấy rối NTD thông qua các cuộc gọi điện thoại hoặc tin nhắn
để tiếp thị, đề nghị giao kết hợp đồng trong khi NTD khơng có nhu cầu38. Trong trường
hợp này, dữ liệu cá nhân của NTD đã bị rò rỉ mà khơng được sự đồng thuận của chính
chủ, điều này đặt ra vấn đề bảo mật thông tin cá nhân, bảo vệ quyền riêng tư của NTD.

34

Bài viết “Cẩn trọng khi mua hàng qua mạng”, truy cập ngày 03/08/2021.
35
Bài viết “Xu hướng mua sắm trực tuyến: Cẩn thận tiền mất tật mạng”, truy cập ngày 03/08/2021.
36
Bài viết “Dễ dãi biếu không thông tin cá nhân khi mua hàng”, truy cập ngày 04/08/2021.
37
Ngô Vĩnh Bạch Dương (2019), “Bảo vệ thơng tin NTD”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12, tr.21.
38
Như việc các cá nhân, tổ chức mời mua bất động sản, bảo hiểm, thẻ tập gym hay tham gia thị trường chứng
khoán, trong khi NTD chưa từng để lại thông tin yêu cầu tư vấn về các sản phẩm đó trên các trang thơng tin đại
chúng. Khi được hỏi về nguồn gốc thông tin cá nhân, NTD chỉ nhận được phản hồi là cơ sở dữ liệu từ công ty
đưa xuống cho nhân viên kinh doanh liên lạc.


20


Ba là, thông tin mà cá nhân, tổ chức kinh doanh phải cung cấp cho người tiêu
dùng trước khi ký kết hợp đồng khơng phải khi nào cũng chính xác, dễ gây cho NTD
cách hiểu không đúng về bên bán cũng như sản phẩm mà mình mua. Trong khi đó,
quyền được cung cấp thơng tin là quyền cơ bản, có vai trò quan trọng nhất để thực hiện
các quyền khác trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của NTD39. Tình trạng này lại
càng nghiêm trọng hơn đối với hình thức mua hàng qua điện thoại bởi lẽ hai bên trong
hợp đồng chỉ giao tiếp với nhau bằng lời nói (qua điện thoại hoặc tin nhắn) mà không
xác định rõ ràng được nhân thân, địa chỉ cụ thể để NTD có thể biết và đặt niềm tin.
Mặc dù pháp luật đã có những chế tài nhất định để phịng ngừa, ngăn chặn trường hợp
cung cấp thông tin không đúng40 nhưng rất khó để kiểm sốt, chủ yếu phụ thuộc vào
thiện chí của cá nhân, tổ chức kinh doanh.
Bốn là, một số rủi ro khác như thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các
giao dịch từ xa, nhiều chiêu trị lừa đảo trong thanh tốn trực tuyến, lựa chọn nhà phân
phối/ nhà cung cấp khơng uy tín, khơng đảm bảo thỏa thuận của các bên giao kết …41
Không chỉ xảy ra trong phạm vi Việt Nam, các giao dịch từ xa xuyên biên giới càng
đem lại nhiều rủi ro cho NTD42.
Theo tác giả, trong tất cả các rủi ro nêu trên, rủi ro liên quan đến thông tin cá
nhân và thanh toán trực tuyến để lại nhiều hệ lụy nhất cho NTD vì hậu quả mà họ gánh
phải rất lớn, NTD lại chưa đủ kỹ năng để đối phó với các trường hợp tinh vi như thế.
Tuy HĐGKTX đem lại nhiều rủi ro cho NTD nhưng vẫn rất nhiều NTD lựa chọn
hình thức hợp đồng này, đơn giản là vì sự thuận tiện và đáp ứng nhu cầu thực tế của
39

Nguyễn Bình Minh, Hà Cơng Anh Bảo (2016), “Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng Pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 86.
40
Hiện tại có cả chế tài dân sự, hành chính và hình sự để xử lý đối với các hành vi vi phạm trách nhiệm cung cấp
thông tin cho NTD. Đối với chế tài dân sự, nguyên tắc bồi thường thiệt hại được áp dụng theo BLDS 2015 và
BLTTDS 2015. Đối với chế tài hành chính, áp dụng hình thức phạt tiền, các hình thức xử phạt bổ sung và biện
pháp khắc phục hậu quả theo Điều 47 Nghị định 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020. Đối với chế tài hình sự, hình
thức phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc các hình thức phạt bổ sung theo Điều 197 BLHS 2015.

41
Bài viết “Nhiều thủ đoạn lừa đảo mới khi mua hàng trực tuyến mùa dịch”, truy cập ngày 04/08/2021
42
Tranh chấp giữa Ronald Perez (quốc tịch Pháp) đối với Công ty Avalon Scooters (Việt Nam) năm 2016: ơng
Ronald Perez thanh tốn số tiền 9820 USD để mua 02 chiếc Vespa APE Calessino Italy Piaggio in Black đồng
thời sang Việt Nam gặp Avalon Scooters, tuy nhiên ông Ronald Perez đã không liên hệ được với Avalon
Scooters và cũng không nhận được xe như cam kết trước đó. Cục CT&BVNTD đã xác minh thơng tin, u cầu
giải trình đối với khiếu nại nên trên. Kết quả, Công ty Avalon Scooters đã tiến hành hồn trả các chi phí mà NTD
đã chi trả do không thể bàn giao sản phẩm như đã cam kết với người tiêu dùng.


×