Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC HOAN

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Ngọc Hoan
Lớp: Cao học Luật, Phú Yên khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ “Xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khơng bị trùng lập với các đề tài khác
trong cùng một lĩnh vực nghiên cứu. Tác giả cam đoan rằng các thông tin, tài liệu
trình bày trong luận văn có chú thích rõ nguồn gốc. Dưới sự hướng dẫn khoa học
của Ts Võ Thị Kim Oanh luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tác giả.
Tác giả

Nguyễn Ngọc Hoan


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CHỦ THỂ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................................................6
1.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về chủ thể có quyền xét hỏi tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm ....................................................................................6
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................15
1.3. Ngun nhân của những hạn chế và giải pháp hoàn thiện quy định Pháp
luật về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ......................20
1.3.1. Ngun nhân .................................................................................... 20
1.3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Tố tụng hình sự về chủ
thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ...................................... 21
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................23
CHƢƠNG 2. TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................25
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm ...................................................................................................25
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ

thẩm......................................................................................................................30
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế và giải pháp hồn thiện quy định pháp
luật về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm .....................................33
2.3.1. Ngun nhân .................................................................................... 33
2.3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Tố tụng hình sự về trình
tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ...................................................... 34
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................39
KẾT LUẬN ..............................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xét hỏi là thủ tục quan trọng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đây là một
“phiên điều tra cơng khai” nhằm kiểm tra cũng như thu thập chứng cứ, làm cơ sở
cho hoạt động tranh luận liền ngay sau đó cũng như làm căn cứ cho việc kết án của
Tòa án có thẩm quyền.
Ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong
đó có đoạn nói: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và những người có quyền lợi, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy
định...”1. Tiếp đến, ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra những nhiệm
vụ và phương hướng mới trong công tác cải cách tư pháp với mục tiêu đề ra là “xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu

quả và hiệu lực cao”2. Bên cạnh đó Nghị quyết cũng đề cập “đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp”3.
Pháp luật tố tụng hình sự đã trải qua 3 lần pháp điển hóa, 3 bộ luật ở 3 thời kỳ
đã quy định khá rõ những nội dung có liên quan đến thủ tục xét hỏi. Nhằm thực hiện
yêu cầu của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, các bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là
Bộ luật Tố tụng hình sự được ban hành năm 2015 đã có những nội dung mới về chủ
thể có quyền hỏi cũng như trình tự xét hỏi tại phiên tòa, đáp ứng phần nào yêu cầu
của tình hình xã hội mới cũng như yêu cầu của cơng cuộc cải cách tư pháp mà Bộ
chính trị đã xác định từ năm 2005. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có
Bộ Chính trị, Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp
Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
3
Bộ Chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
1
2


2
hiệu lực cho đến nay, bằng kiểm nghiệm thực tiễn cho thấy rằng, có một số nội dung
liên quan đến hai vấn đề trên đã bộc lộ những điểm chưa hợp lý. Hội đồng xét xử trở
thành người xét hỏi chính, người “bảo vệ” bản cáo trạng thay cho Kiểm sát viên trong
khi vai trò của Hội đồng xét xử phải là “trọng tài” lắng nghe, điều khiển và kết án;
ngược lại, Kiểm sát viên lẽ ra phải thật sự tích cực, chủ động xét hỏi thì lại “ỷ lại” và
thành viên Hội đồng xét xử; bị cáo có quyền đặt câu hỏi nhưng phải có sự đồng ý của
Chủ tọa phiên tòa; ngược lại, bị hại, đương sự lại không được quyền đặt câu hỏi trong
mọi trường hợp. Những hạn chế trong thực tiễn này một phần xuất phát từ chính
những quy định của pháp luật hiện hành. Vì vậy, để tăng cường và phát huy triệt để

chức năng, vai trò của các chủ thể khi thực hiện hoạt động xét hỏi cũng như để tăng
cường hơn nữa tính tranh tụng trong xét xử, một số nội dung trong quy định của pháp
luật Tố tụng về hai vấn đề trên cần phải được thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp.
Để có thể hiểu rõ hơn những quy định của pháp luật cũng như khảo sát thực
tiễn áp dụng các quy định về chủ thể xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm, từ đó có những kiến nghị nhằm hồn thiện những quy định của pháp luật
cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại
phiên tòa, tác giả đã chọn đề tài “Chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ
thẩm theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo nghiên cứu của học viên, liên quan đến đề tài xét hỏi tại phiên tịa sơ
thẩm hình sự, từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở các phạm vi,
góc độ khác nhau như:
Luận án tiến sỹ luật học: “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện năm 2016; Tác giả
Nguyễn Ngọc Kiện đã nghiên cứu thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm là vai trị trọng tâm trong quá trình tranh tụng. Những kiến thức lý luận và thực
tiễn về xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa được cung cấp đầy đủ. Tuy nhiên, vì phạm
vi nghiên cứu rộng nên có một số nội dung tác giả phân tích chưa sâu: ví dụ như vai
trò của Hội thẩm trong hoạt động xét hỏi, hay nội dung liên quan đến phần xét hỏi
chưa được tập trung nhiều như nội dung liên quan đến phần tranh luận.
Luận văn thạc sỹ có:
“Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm” của tác giả Đỗ Văn Thinh
năm 2006, tác giả Đỗ Văn Thinh nghiên cứu tổng hợp tất cả những vấn đề liên quan


3
đến thủ tục xét hỏi nhưng đề tài được thực hiện năm 2006 nên hiện nay có nhiều nội
dung khơng cịn phù hợp.

“Trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Trần Đặng Anh Việt năm 2017. Vì đề tài theo định hướng ứng dụng nên
tác giả chỉ giải quyết 2 vấn đề chính là trình tự xét hỏi của Hội đồng xét xử; và trình
tự xét hỏi của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng mà cụ thể là người bào chữa và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
“Xét hỏi của Kiển sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Viện
kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Hà
Ngọc Châu, năm 2018. Tác giả Trần Hà Ngọc Châu tập trung nghiên cứu những
quy định về hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đồng thời khảo sát
việc áp dụng các quy định này tại chính Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Tp
Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng xét hỏi
của Kiểm sát viên tại các phiên tịa hình sự sơ thẩm.
“Trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Quốc Hùng năm 2020. Tác giả nghiên cứu một cách chuyên
sâu các vấn đề lý luận có liên quan đến trình xét hỏi tại phiên tòa; việc khảo sát,
đánh giá thực tiễn áp dụng cũng được tiến hành một cách khá toàn diện trên phạm
vi cả nước.
“Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo Luật tố tụng hình
sự Việt Nam” của Phạm Tiểu Thơ năm 2020. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về hoạt động xét hỏi của Thẩm phán tại
phiên tòa sơ thẩm. Nội dung luận văn phù hợp với phạm vi nghiên cứu, thực tiễn tác
giả khảo sát trong phạm vi 2 tỉnh là Tiền Giang và Đồng Nai.
“Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam” (2019) của tác giả Trương Thị Thu Hải. Tác giả tập trung phân tích
những vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm. Luận văn tập trung vào trình tự và nội dung xét hỏi của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm.
Khóa luận tốt nghiệp có: “Hồn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo tinh
thần cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Dung năm 2013; “Hồn thiện
thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả

Chu Thị Hảo năm 2012; “Xét hỏi và nâng cao tính tranh tụng trong trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của Tòa án” của tác giả Cao Thị Mi Sa, năm 2009. Những khóa


4
luận này đều được thực hiện trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được ban hành
nên ít nhiều nội dung có những chỗ khơng cịn phù hợp với hiện nay.
Bài viết chuyên ngành có: “Về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”
của tác giả Lê Thị Thúy Nga, đăng trên Tạp chí Luật học số 07 năm 2008; Bài viết
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên
tại phiên tịa sơ thẩm hình sự” của TS. Nguyễn Chí Dũng; “Những vấn đề Kiểm sát
viên cần lưu ý trong xét hỏi, công bố tài liệu chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tịa
hình sự” của tác giả Lê Xuân Quang, đăng trên Tạp chí Kiểm sát năm 2021. “Bảo
đảm quyền của bị cáo tại phiên tịa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân ở thủ tục xét hỏi” của tác giả Võ Quốc Tuấn trên tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 22 (326) T11/2016; “Một số ý kiến đối với quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm” của tác giả Hồ Nguyễn Quân-Tòa
án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4 trên trang thông tin điện tử của trường Đại học
kiểm sát Hà Nội4. Những bài viết này phân tích các quy định của pháp luật về một
khía cạnh nào đó của thủ tục xét hỏi, đồng thời có đề cập đến thực tiễn xét hỏi; một
số bài viết tập trung vào kỹ năng xét hỏi của từng chủ thể như Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Người bào chữa để nâng cao chất lượng xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa.
Q trình thực hiện đề tài, tác giả đã kế thừa những kiến thức, kinh nghiệm
của một số Luận án, Luận văn và các bài viết nêu trên. Bên cạnh đó, tác giả cịn đưa
ra và giải quyết những vấn đề còn chưa phù hợp trong quy định của pháp luật mà
các cơng trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất để
đóng góp một phần trong cơng tác hồn thiện pháp luật nói chung và quy định về
chủ thể có quyền xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: tác giả mong muốn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các

quy định của pháp luật TTHS về chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm. Đồng thời đề xuất những giải pháp mang tính thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động xét hỏi của các chủ thể tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích đã nêu trên thì luận văn có nhiệm vụ phân
tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể và trình tự xét
hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động
xét hỏi của của các chủ thể trong thời gian qua, chỉ ra những vướng mắc, bất cập,
Hồ Nguyễn Quân, “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp”, truy cập ngày 01/6/2021;
4


5
trong đó xác định rõ các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; từ đó, đề xuất, kiến
nghị các giải pháp để hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động xét hỏi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động chủ thể có quyền
xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: học viên nghiên cứu các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về
2 vấn đề là chủ thể có quyền xét hỏi và trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Phạm vi không gian: Luận văn khảo sát kết quả thực hiện hoạt động xét hỏi
tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong phạm vi cả nước.
Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát kết quả thực hiện hoạt động xét hỏi tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm trong vịng 5 năm (2016 – 2021)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, học viên áp dụng phương pháp phân tích
luật để phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS; Ngồi ra trong luận văn học

viên cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như phương pháp so
sánh, nghiên cứu vụ án điển hình, thống kê, tổng hợp để hồn thành luận văn của mình.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả nghiên
cứu của đề tài
Dự kiến kết quả nghiên cứu: Đề tài góp phần hồn thiện nội dung Điều 307,
Điều 309, Điều 310, Điều 311 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Địa chỉ ứng dụng: Kết quả nghiên cứu của tác giả đóng góp cho quá trình
xây dựng pháp luật Tố tụng hình sự về vấn đề chủ thể và trình tự xét hỏi tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm. Ngồi ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham
khảo trong các trường đại học, các cơ sở đào tạo pháp luật
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương với cơ cấu như sau:
Chƣơng 1. Chủ thể xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam
Chƣơng 2. Trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam


6
CHƢƠNG 1
CHỦ THỂ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về chủ thể có quyền xét hỏi
tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Xét hỏi là một khâu quan trọng của quá trình xét xử tại phiên tòa, đây được
xem như là một cuộc điều tra công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác. Hệ thống chứng cứ đã được các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập từ trước sẽ được kiểm tra, đánh giá một
cách cơng khai, tồn diện thông qua việc đặt câu hỏi và trả lời của các chủ thể có

liên quan, đồng thời có thể thu thập thêm những chứng cứ mới thông qua hoạt
động này. Cùng với hoạt động tranh luận, kết quả của hoạt động xét hỏi sẽ giúp
Hội đồng xét xử xác định được căn cứ để có thể tuyên một bản án đúng người
đúng tội đúng pháp luật.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng thì “xét” là
tìm hiểu, cân nhắc để nhận biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó; cịn “hỏi” là nói ra
những điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu trả lời5.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét hỏi” là “nhà chức trách hỏi kĩ để phát
hiện hành vi phạm pháp hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án”6. Với nghĩa của Từ
điển cho thấy hoạt động xét hỏi được thực hiện bởi “nhà chức trách” tức chủ thể có
thẩm quyền, việc hỏi lúc này khơng đơn thuần là hỏi mà là “hỏi kỹ”, hỏi tường tận
để phát hiện và xác định sự thật.
Dưới góc độ pháp lý, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây gọi là
BLTTHS) hay văn bản hướng dẫn không nêu rõ khái niệm này, tuy nhiên từ những
quy định của BLTTHS về thủ tục xét hỏi từ Điều 306 đến Điều 318, tác giả xin đưa
ra 1 khái niệm như sau:
“Xét hỏi là hoạt động được thực hiện trong q trình xét xử vụ án hình sự.
Trong đó các chủ thể mà pháp luật cho phép, theo đúng trình tự sẽ đặt câu hỏi và bị
cáo, những người tham gia tố tụng khác sẽ trả lời về những vấn đề có liên quan đến
vụ án nhằm xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho việc tun án của
Tịa án có thẩm quyền”.
5
6

Viện Ngơn ngữ học (2002), “Từ điển Tiếng Việt phổ thông”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr 1058;
Trung tâm Từ điển học (2009), “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng, tr. 1462;


7
Như vậy, có thể thấy rằng, thủ tục xét hỏi là một thủ tục mang đầy đủ những

đặc điểm sau:
- Xét hỏi là một hoạt động được tiến hành tại phiên tồ xét xử vụ án hình sự.
Phiên tịa này có thể là phiên tịa sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí Giám đốc thẩm, Tái
thẩm tùy vào trường hợp hội đồng Giám đốc thẩm, Tái thẩm có triệu tập những
người tham gia tố tụng có liên quan hay khơng.
- Xét hỏi là một hoạt động được thực hiện theo trình tự thủ tục do BLTTHS
quy định. Đây được xem như là một “phiên điều tra công khai”, là cách thức để có
thể thu thập cũng như đánh giá chứng cứ, do đó, sự chặt chẽ trong trình tự là điều
phải đảm bảo. Hiện nay, BLTTHS 2015 đã quy định rất cụ thể trình tự cũng như các
hoạt động cần làm khi tiến hành hoạt động xét hỏi tại tòa cũng như trách nhiệm của
những chủ thể tham gia hoạt động xét hỏi phải tuân thủ theo.
- Xét hỏi là một hoạt động được thực hiện bởi những chủ thể mà pháp luật đã
ghi nhận. Đây có thể là người tiến hành tố tụng - những chủ thể có trách nhiệm làm
sáng tỏ những tính tiết có liên quan đến vụ án hình sự như Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, hoặc cũng có thể là người tham gia tố tụng - những chủ thể góp phần
vào việc xác định sự thật vụ án hoặc người tham gia để bảo vệ quyền lợi ích cho
những người tham gia tố tụng khác như Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
cho đương sự, người giám định, người định giá tài sản, bị cáo. Hoạt động xét hỏi
được điều hành bởi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các chủ thể còn lại sẽ tuân thủ
theo sự điều hành thống nhất đó.
- Xét hỏi là hoạt động được thực hiện dưới phương thức chủ thể có thẩm
quyền sẽ đặt câu hỏi, chủ thể được hỏi sẽ trả lời một cách trực tiếp, công khai.
Thông qua đó hệ thống chứng cứ sẽ được kiểm tra, đánh giá một cách trực tiếp,
cơng khai, tồn diện, đồng thời có thể phát hiện thêm những tình tiết mới liên quan
đến vụ án hình sự, giúp Tịa án có căn cứ để thực hiện hoạt động xét xử cũng như
tuyên án.
Như vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của thủ tục xét hỏi đó chính là
được thực hiện bởi những chủ thể được pháp luật TTHS ghi nhận, đây có thể là
người tiến hành tố tụng cũng có thể là người tham gia tố tụng. Vậy chủ thể có quyền
thực hiện hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là chủ thể nào.

Trước khi có BLTTHS 1988, thủ tục xét hỏi nói chung và chủ thể tiến hành
hoạt động xét hỏi nói riêng được ghi nhận một cách rải rác ở nhiều văn bản tùy vào
thời kỳ.


8
Sau khi có BLTTHS đầu tiên ra đời năm 1988, vấn đề chủ thể có quyền xét
hỏi được quy định cụ thể và thống nhất trong bộ luật. BLTTHS 1988 đã dành
chương XIX, từ Điều 180 đến Điều 190 để quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Theo đó, tại Điều 181 quy định
1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về
từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm
nhân dân, sau đó đến Kiểm sát viên, Người bào chữa. Những người tham gia phiên tồ
cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định7.
Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, người hỏi bao gồm Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa, Hội thẩm nhân dân, Kiểm Sát viên, Người bào chữa, Người giám định. Người
tham gia phiên tịa khơng có quyền hỏi nhưng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa
hỏi thêm về những vấn đề cần làm sáng tỏ.
So với việc quy định rải rác như trước đây, sự cụ thể, rõ ràng này đã là bước
tiến mới. Tuy nhiên, trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc
có bị cáo bị đưa ra xét xử mà khung hình phạt lên đến tử hình, Hội đồng xét xử gồm 3
Thẩm phán và 2 Hội thẩm thì Thẩm phán khơng phải chủ tọa phiên tịa có được hỏi
khơng? Thêm nữa, quyền hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự cũng
chưa được ghi nhận bởi tư cách tố tụng này thời điểm đó chưa được ghi nhận.
Đến BLTTHS 2003 được ban hành, các quy định về hoạt động xét hỏi, trong
đó có quy định về chủ thể xét hỏi được quy định rõ ràng hơn. Theo quy định Khoản
2 Điều 207 BLTTHS 2003 thì chủ thể xét hỏi bao gồm hai nhóm: người tiến hành tố
tụng là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên; người tham gia tố

tụng là Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người giám định, những người tham gia phiên tòa khác cũng có quyền đề nghị chủ
tọa phiên tịa hỏi những vấn đề, tình tiết cần làm sáng tỏ. Việc bổ sung thêm một số
chủ thể như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay thay đổi từ
Hội thẩm nhân dân thành Hội thẩm là những thay đổi phù hợp. Tuy nhiên, với
những quy định như trên, một số hạn chế đã từng tồn tại ở BLTTHS 1988 nay vẫn
chưa được khắc phục: đó chính là vai trị của những Thẩm phán khơng phải là chủ
tọa phiên tịa thì có quyền hỏi hay khơng. Thực tế cho thấy, bên cạnh Thẩm phán
7

BLTTHS (1988), Điều 181


9
chủ tọa phiên tịa thì các Thẩm phán cịn lại (Đối với hội đồng xét xử gồm 5 thành
viên) vẫn tiến hành xét hỏi bình thường, tuy nhiên, sự thiếu sót trong kỷ thuật lập
pháp là điều phải thừa nhận.
Sau 12 năm thi hành, BLTTHS 2015 được ban hành vào ngày 27/11/2015 đã
thay thế cho BLTTHS năm 2003. Bộ luật đã có những sửa đổi căn bản, tồn diện
gồm 510 Điều, trong đó, bổ sung mới 176 Điều, sửa đổi 317 Điều, bãi bỏ 26 Điều.
Bộ luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam và thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người.
Thủ tục xét hỏi cũng có những thay đổi đáng kể: thủ tục xét hỏi đã trở thành
một phần trong thủ tục tranh tụng thay cho thủ tục thẩm vấn và tranh luận tách bạch
trước đây; chủ thể tiến hành hỏi và trình tự hỏi cũng đã có những thay đổi để khắc
phục một số hạn chế trước đây đã vướng phải. Về chủ thể có quyền xét hỏi, Điều
307 BLTTHS 2015 đã quy định
“1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc,
từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết

định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tịa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định, định giá tài sản.”
Như vậy, có thể hiểu chủ thể có quyền xét hỏi cũng bao gồm 2 nhóm giống
như trước đây: người tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên;
người tham gia tố tụng là Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người giám định, người định giá tài sản. Và những người tham gia tố
tụng khác cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi thêm về những tình tiết cần
làm sáng tỏ.
Như vậy, quy định về chủ thể đã hoàn thiện hơn về kỹ thuật lập pháp, đó là
đã xác định rõ thẩm quyền xét hỏi của chủ thể là Thẩm phán khơng phải là chủ tọa
phiên tịa, đồng thời đã bổ sung chủ thể mới là người định giá tài sản. Điều này
được giải thích là vì tư cách tố tụng này chỉ mới được chính thức ghi nhận trong


10
BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
sẽ phải thực hiện hoạt động xét hỏi để có thể làm sáng tỏ nội dung vụ án. Vai trò
của từng chủ thể được thể hiện như sau:
* Thành viên Hội đồng xét xử
Điều 254 BLTTHS 2015 quy định
1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường
hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể
gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của

khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Và Điều 463 BLTTHS quy định “Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút
gọn do một Thẩm phán tiến hành.”
Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà số lượng cũng như thành phần của Hội
đồng xét xử sẽ khác nhau nhưng tất cả các thành viên của hội đồng xét xử đều có
quyền và nghĩa vụ thực hiện hoạt động xét hỏi.
Khoản 1 Điều 307 BLTTHS quy định “Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ
những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người”
Với quy định như trên cho thấy vai trò của Hội đồng xét xử là rất lớn trong
việc thực hiện hoạt động này, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết
về từng sự việc, từng tội và từng người liên quan đến hành vi phạm tội. Điều này có
vẻ hợp lý với một nước có mơ hình tố tụng thẩm vấn (mơ hình tố tụng kiểm sốt tội
phạm) hoặc một nước có mơ hình tố tụng pha trộn nhưng nghiên về tính thẩm vấn bởi
trong hai mơ hình tố tụng trên, hoạt động xét hỏi là hoạt động đặc trưng, xun suốt
trong q trình tố tụng và nó được biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa xét xử. Với
Việt Nam hiện nay, mơ hình tố tụng của chúng ta vẫn cịn mang dấu ấn của mơ hình
tố tụng thẩm vấn nhưng các hạt nhân hợp lý của mơ hình tranh tụng, đặc biệt là tính
“đối đầu” giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc bảo vệ hệ thống chứng cứ do
các bên tự thu thập cũng như vai trò trọng tài của Hội đồng xét xử ngày càng được
ghi nhận và tăng cường thì theo tác giả quy định tại khoản 1 Điều 307 về trách nhiệm
làm rõ các nội dung khi xét hỏi của Hội đồng xét xử ít nhiều khơng cịn phù hợp.
Khơng thể phủ nhận hoàn toàn hiệu quả hoạt động xét hỏi của Tòa án hay cụ
thể hơn là của Hội đồng xét xử, bởi nó đạt được mục đích kiểm sốt tội phạm tuy
nhiên cần phải nhìn nhận đúng vị trí của Tòa án dựa trên mối quan hệ với các chức


11
năng tố tụng. Chức năng của tòa án là chức năng xét xử, chức năng này được thực
hiện thông qua Hội đồng xét xử tại phiên tòa và với quy định như trên thì tác giả

cho rằng dường như Hội đồng xét xử đang làm thay chức năng buộc tội của Viện
kiểm sát. Bất cập này kéo dài từ khi có BLTTHS đầu tiên cho đến nay, tuy nhiên, ở
2 lần ban hành trước, có thể bối cảnh xã hội khác, tư duy cũng như nhận thức về mơ
hình tố tụng, sự tách bạch giữa các chức năng tố tụng chưa rõ ràng, quy định đó có
thể phù hợp ở một chừng mực nào đó. Cịn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, để có thể “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
đảm bảo tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”8 thì nội dung
này cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp.
*Kiểm sát viên
Là chủ thể đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội tại phiên
tịa, vì vậy Kiểm sát viên tham gia vào hoạt động xét hỏi là điều đương nhiên, mặc
khác để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, vai trò của Kiểm sát viên
trong hoạt động xét hỏi ngày càng được chú trọng hơn, “Tại phiên tòa, Kiểm sát
viên chủ động xét hỏi, tranh luận làm rõ các tình tiết của vụ án...” 9
Chứng minh tội phạm và người phạm tội là trách nhiệm của Kiểm sát viên tại
phiên tòa.Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải làm rõ những nội dung đã nêu trong
bảng cáo trạng. Việc xét hỏi sẽ giúp Kiểm sát viên củng cố được chứng cứ để chứng
minh cho những luận điểm, luận cứ của mình đồng thời thuyết phục Hội đồng xét
xử cũng như những người tham gia phiên tòa .
Để những đề xuất của mình có cơ sở, về ngun tắc Kiểm sát viên sẽ hỏi toàn
bộ những vấn đề liên quan đến vụ án, cả những tình tiết liên quan đến việc buộc tội,
những tình tiết liên quan đến việc gỡ tội của bị cáo. Có quan điểm cho rằng việc hỏi
về những tình tiết có tính chất gỡ tội là mâu thuẫn vì “Viện kiểm sát thực hành
quyền cơng tố thì không thể vừa buộc tội vừa bào chữa cho bị cáo”10. Dưới góc độ
chức năng tố tụng thì có thể quan điểm này hợp lý, tuy nhiên, vì trách nhiệm chứng
minh, xác định sự thật vụ án là của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
Bộ chính trị, Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
VKSNDTC, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016 về Tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng

tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
10
Nguyễn Quốc Hùng (2020), “Trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr. 41.
8
9


12
tụng (Điều 15 BLTTHS 2015) mà sự thật các cơ quan này xác định phải “khách
quan, toàn diện và đầy đủ”, do đó, việc tiến hành xét hỏi về những vấn đề có liên
quan đến những tình tiết gỡ tội cũng như những tình tiết khác khơng phải là tình tiết
buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, theo quan điểm của tác giả là hợp lý.
* Ngƣời bào chữa
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Người bào chữa có thể là Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, Bào
chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc
đối tượng trợ giúp pháp lý.
Sự có mặt của Người bào chữa tại phiên tòa là cách thức để thực hiện triệt để
nguyên tắc “đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội” đồng thời, cũng là cơ
chế để thực hiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Như vậy, có
thể thấy rằng với yêu cầu ngày càng cao về việc đảm bảo tính tranh tụng trong xét
xử thì vai trị của Người bào chữa ngày càng trở nên quan trọng. Tại phiên tòa,
Người bào chữa tham gia vào hoạt động xét hỏi và tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho bị cáo.
Tại phiên tòa, “sứ mệnh” của Người bào chữa là đưa ra những luận chứng,
luận cứ để có thể bác bỏ sự buộc tội từ phía cơ quan buộc tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo, vì vậy, trong thủ tục xét hỏi, Người bào chữa sẽ hỏi

những người tham gia tố tụng (bị cáo, bị hại, người làm chứng, người giám định...)
về những vấn đề liên quan đến việc gỡ tội. Những câu hỏi của Người bào chữa sẽ
đặt tiền đề tốt cho hoạt động tranh tụng ngay sau đó. Mặc khác, Để bảo vệ quyền lợi
cho bị cáo, Người bào chữa phải quan sát tồn bộ q trình xét hỏi và thái độ của
người hỏi đối với bị cáo để kịp thời ngăn chặn những câu hỏi không đúng trọng
tâm, thiếu khách quan, ảnh hưởng đến đời tư, kịp thời đề nghị Hội đồng xét xử chấn
chỉnh những chủ thể có thái độ khơng phù hợp với văn hóa pháp đình khi đặt câu
hỏi cho thân chủ của mình. Ngồi ra, Người bào chữa có quyền xem xét tài liệu, vật
chứng tại phiên tòa hoặc cùng Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ nếu cần thiết và có
quyền đưa ra nhận xét về tất cả các chứng cứ đó để làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án và gỡ tội cho bị cáo, có quyền nhận xét về báo cáo, tài liệu của cơ quan,
tổ chức (Điều 315), quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi người giám
định về những vấn đề chưa rõ (Điều 316)..


13
* Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, bị hại
BLTTHS 1988 khi quy định về chủ thể có quyền xét hỏi khơng bao gồm người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, bị hại vì thời điểm đó, tư cách này
chưa được pháp luật thừa nhận. Đến BLTTHS 2003 và sau đó là BLTTHS 2015, tư
cách này đã được ghi nhận một cách chính thức, vì vậy, thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
sẽ có sự tham gia của chủ thể trên nhằm hướng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích của
những người có liên quan cũng như góp phần vào việc xác định sự thật vụ án.
Đương sự bao gồm “nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền, lợi
ích liên quan” (Điều 4). Đương sự, bị hại khi tham gia tố tụng có quyền nhờ Luật
sư; người đại diện hoặc bào chữa viên nhân dân tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình (Điều 84). Tại phiên tòa sơ thẩm, các chủ thể này sẽ được tham
gia vào hoạt động xét hỏi dưới sự điều hành của chủ tọa phiên tòa để làm rõ những
tình tiết liên quan đến những đối tượng mà họ đứng ra bảo vệ. Tùy vào đối tượng
mà họ bảo vệ, các câu hỏi sẽ tập trung các vấn đề khác nhau. Bên cạnh việc trực

tiếp đặt ra những câu hỏi, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bị
hại cũng có quyền được xem xét tại chỗ hoặc quyền được nhận xét những báo cáo,
kết luận của các cơ quan, tổ chức khác hay kết luận giám định như Người bào chữa
tuy rằng không được quy định trực tiếp quyền này như Người bào chữa, tuy nhiên,
thơng qua vài trị của “người khác tham gia phiên tòa” như quy định tại Điều 314,
Điều 315, Điều 316, họ vẫn có quyền thực hiện những hoạt động trên khi tham gia
vào thủ tục xét hỏi.
* Ngƣời giám định, ngƣời định giá tài sản.
Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám
định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu hoặc người tham gia
tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật (Điều 68 BLTTHS)
Người định giá tài sản là người có kiến thức chun mơn về lĩnh vực giá,
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định
giá tài sản theo quy định của pháp luật. (Điều 69 BLTTHS).
Người giám định và người định giá tài sản là những người tham gia tố tụng
đưa ra những kết luận về những vấn đề mang tính chun mơn. Các kết luận giám
định, định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng. Việc tham gia
phiên tòa của người giám định và người định giá tài sản không phải là quy định bắt
buộc trong mọi trường hợp, Tòa án sẽ triệu tập họ trong những trường hợp cần thiết.
Tại phiên tòa, Người giám định, người định giá tài sản có quyền tham gia hoạt động


14
xét hỏi với cả 2 tư cách: người có quyền xét hỏi và là đối tượng bị xét hỏi. Dưới góc
độ là người xét hỏi, Người giám định, người định giá tài sản sẽ được quyền hỏi
“những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản”, việc này giúp cho
kết luận giám định, định giá tài sản được làm rõ, tạo cơ sở vững chắc cho việc đánh
giá chứng cứ của những người có thẩm quyền có mặt tại phiên tịa.(Khoản 2 Điều
307 BLTTHS). Tuy nhiên, thẩm quyền xét hỏi của người giám định, người định giá
tài sản chỉ được quy định tại Điều 307 BLTTHS nhưng tại các Điều 309, Điều 310,

Điều 311 quy định về nội dung hỏi các đối tượng bị hỏi lại không đề cập đến người
giám định, đây là một hạn chế về kỹ thuật lập pháp cần phải khắc phục.
* Bị cáo
Xét hỏi là một hoạt động mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác
định sự thật vụ án cũng như để các chủ thể có thể thực hiện tốt các chức năng
nhiệm vụ của mình. Hiện nay, bên cạnh những chủ thể có quyền đặt câu hỏi trực
tiếp như đã trình bày, Pháp luật cịn ghi quyền xét hỏi của bị cáo và quyền “xét
hỏi” gián tiếp của người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa. Đối với những
người tham gia tố tụng khác khơng phải là bị cáo, trong trường hợp có “những
tình tiết cần làm sáng tỏ” thì những người này có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa
hỏi thêm. Đối với bị cáo thì được quyền đặt câu hỏi cho bị cáo khác, người làm
chứng, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ khi được chủ tọa phiên tòa
đồng ý. So với BLTTHS 2003, việc ghi nhận quyền được đặt câu hỏi của Bị cáo
tại phiên tịa có thể xem là một bước tiến mới 11, sự thay đổi này đã kịp thời đảm
bảo được quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo, đồng thời đáp ứng yêu cầu cái cách
tư pháp, đặc biệt là nâng cao tính tranh tụng trong xét xử. Quyền được hỏi của bị
cáo chính là cơ chế để bị cáo có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa tại phiên tòa,
tham gia hiệu quả vào hoạt động tranh luận, đặc biệt trong trường hợp bị cáo
khơng có Người bào chữa. Tuy nhiên, điểm mới này theo tác giả là chưa thật sự
triệt để bởi vì bị cáo chỉ được đặt câu hỏi khi có sự đồng ý của chủ tọa phiên tịa 12,
như vậy, thì vơ hình trung, quyền này có thể sẽ bị hạn chế trong thực tế thi hành
nếu Chủ tọa phiên tịa “khơng hợp tác” để cho bị cáo được hỏi. Đồng thời, tại
Điều 307, điều luật chung quy định về chủ thể và thứ tự đặt câu hỏi thì lại không
ghi nhận quyền này của bị cáo, mặc dù các điều luật chi tiết sau đó như Điều 309,
BLTTHS 2003 không quy định quyền được xét hỏi của bị cáo nên có tịa án cho phép bị cáo được quyền xét
hỏi nhưng cũng có tịa khơng cho phép gây nên sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Xem thêm
bài viết “Bị cáo có được hỏi tại phiên tòa? />12
Điều 310, Điều 310 BLTTHS 2015
11



15
Điều 310, Điều 311 thì lại quy định. Mặc khác, việc bổ sung quyền được hỏi của
bị cáo khi được chủ tọa phiên tồ đồng ý mà khơng bổ sung quyền này cho bị hại,
đương sự thì liệu có hợp lý khi mà các chủ thể này cũng có nhu cầu tự bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình.
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm
Hoạt động xét hỏi là một hoạt động đóng vai trị quan trọng trong việc xác
định sự thật vụ án, Pháp luật đã từng bước hoàn thiện để đảm bảo ngày càng tốt hơn
hoạt động của các chủ thể có liên quan tại phiên tịa. Hoạt động xét xử nói chung và
xét hỏi nói riêng tại phiên tịa sơ thẩm trong những năm qua đã đạt được một số kết
quả đáng ghi nhận:
* Đối với hoạt động của Thẩm phán – Hội thẩm
Trong khoảng thời gian từ 2016 – 2021, Ngành tịa án đã xét xử các vụ án hình
sự đạt tỷ lệ 99,5%; Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ. Tỷ
lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hàng năm đều dưới 1,5%,
Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong
nhiệm kỳ không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người khơng có tội. 13
Đội ngũ Thẩm phán luôn được đảm bảo về số lượng và chất lượng. Lãnh đạo
ngành Tòa án thường xuyên đổi mới, đa dạng phương thức đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xử cho các chức danh tư pháp.
Đội ngũ Hội thẩm nhân dân không chỉ đủ về số lượng mà còn đảm bảo về
chất lượng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử. Tòa án nhân dân hiện đã thành
lập đủ các Đồn Hội thẩm và hiện đang có 16.913 Hội thẩm nhân dân phục vụ công
tác xét xử 14. Hội thẩm thường xuyên được bồi dưỡng nghiệp vụ, về cơ bản đã đảm
bảo cơ chế Nhân dân tham gia hoạt động xét xử, hỗ trợ Tịa án hồn thành tốt nhiệm
vụ chính trị được giao, hoạt động ngày càng nề nếp, hiệu quả.
Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chỉ đạo đổi mới theo hướng
công tác xét xử phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Hội đồng

xét xử thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý. Trong hoạt động xét hỏi tại phiên
tòa, thành viên hội đồng xét xử đã chủ động và tích cực thực hiện giúp cho việc xác
Báo cáo tóm tắt của Chánh án Tồ án nhân dân tối cao về cơng tác của các Tồ án trong nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIV vecong-tac-nhiem-ky-722234.html
14
Báo cáo tóm tắt của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về cơng tác của các Tồ án trong nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIV vecong-tac-nhiem-ky-722234.html
13


16
định sự thật vụ án được thực hiện một cách khá hiệu quả. Việc chuẩn bị cho hoạt
động xét xử được thực hiện chu đáo, hầu hết các Thẩm phán, Hội thẩm đều nghiên
cứu vụ án và có đề cương xét hỏi, tạo được thế chủ động tại phiên tòa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xét hỏi của Hội đồng xét xử tại
phiên tòa còn tồn tại một số bất cập:
- Điều 307 quy định. “Chủ tọa phiên tịa điều hành việc hỏi.” nhưng khơng có
nghĩa Chủ tọa không thực hiện việc xét hỏi mà chỉ điều hành. Thực tế có trường
hợp bản án của Tịa án bị kháng nghị giám đốc thẩm, chỉ vì chủ tọa phiên tịa khơng
tham gia xét hỏi mà chỉ điều khiển để người khác xét hỏi, rồi kết luận việc xét hỏi
tại phiên tịa. Việc chủ tọa khơng tham gia xét hỏi được coi là vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng.15
- Tại một số phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử máy móc dựa vào kế hoạch
xét hỏi đã chuẩn bị sẵn mà không đặt câu hỏi phù hợp với diễn biến tại phiên tịa.
Chủ tọa có xu hướng lệ thuộc vào kết quả điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát,
chính vì vậy mà việc xét hỏi khơng sơi nổi, dân chủ vì phán quyết đã được định sẵn,
xét hỏi chỉ là hợp thức hóa những gì đã được thu thập tại giai đoạn điều tra, không
chú ý đến việc tìm các mâu thuẫn nên xét hỏi khơng cặn kẽ, chưa thẩm tra hết các
tình tiết của vụ án đã chuyển sang phần tranh luận16
- Một số trường hợp, câu hỏi của chủ tọa phiên tòa thể hiện ngay định kiến

buộc tội; hoặc trong khi xét hỏi những câu hỏi của Thẩm phán theo hướng làm sao
để cho bị cáo phải khuất phục tại phiên tịa, vơ hình trung Thẩm phán đã thực hiện
thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát; Có những trường hợp Thẩm phán, Hội
thẩm lại giáo dục bị cáo theo kiểu dụ cung nếu thành khẩn nhận tội thì sẽ giảm nhẹ
hình phạt, tạo cảm giác như Hội đồng xét xử đã có một kết luận sẵn cho việc xét xử
vụ án đó.
- Hoạt động xét hỏi của Hội thẩm trên thực tế vẫn chưa đạt được hiệu quả.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước của Hội thẩm không phải lúc nào cũng được
đảm bảo, do đó câu hỏi của Hội thẩm đơi khi khơng có tác dụng làm rõ được các
tình tiết của vụ án mà chỉ là những câu hỏi rất chung chung, vơ thưởng vơ phạt,
hoặc có trường hợp, Hội thẩm có những phát ngơn khơng phù hợp tại phiên tịa
khi thực hiện hoạt động xét hỏi, ví dụ như: Vụ án xảy ra ở Kon Tum, theo cáo
Đinh Văn Quế “Xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - https://
tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/xet-hoi-tai-phien-toa-hinh-su-so-tham-nhung-van-de-ly-luan-va-thuc-tien.
16
Nguyễn Quốc Hùng (2020), tlđd (10), tr. 45.
15


17
trạng, đầu năm 2018 Bùi Xuân Lợi nhờ Phạm Thanh Toàn (nhà ở huyện Đắk Hà,
Kon Tum) vận chuyển pháo đến huyện Đức Cơ, Gia Lai và hứa trả công cho Tồn
5 triệu đồng. Tồn đồng ý và mượn ơ tô của một người khác rồi chạy về nhà Lợi
để chở nhiều thùng carton và ba bao tải đựng hàng. Lợi đi trước dẫn đường cịn
Tồn chở pháo theo sau. Khi đến huyện Đức Cơ (Gia Lai), CSGT ra tín hiệu dừng
xe kiểm tra. Tồn khơng chấp hành hiệu lệnh mà tăng ga bỏ chạy đến lơ cao su thì
dừng xe, bỏ trốn. Vài ngày sau Toàn ra đầu thú. Theo kết quả giám định số hàng
Toàn chở trên xe là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và
khí đốt có gây tiếng nổ, phát ra ánh sáng màu) với khối lượng hơn 200 kg pháo.
Từ đó Tồn bị khởi tố, truy tố về tội vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 3

Điều 191 BLHS. Ngày 10-5, TAND huyện Đức Cơ (Gia Lai) đã đưa bị cáo Phạm
Thanh Toàn ra xét xử sơ thẩm về tội danh trên. Hội đồng xét xử gồm một Thẩm
phán chủ tọa và hai Hội thẩm nhân dân (HTND). Trong phần xét hỏi, vị HTND
tên LĐH đã đặt câu hỏi với Tồn: “Có ai bắt bị cáo ký vào đấy khơng?”. Bị cáo
đáp: “Khơng”. HTND tiếp: “Mình biết cái tội của mình rồi thì cứ nhận mẹ. Sao bị
cáo cứ chối quanh co làm gì?”. 17
* Đối với hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa
Trong khoảng thời gian 2016 – 2021, toàn ngành Viện kiểm sát đã thực hành
quyền công tố, kiểm sát xét xử 376.935 vụ/626.610 bị cáo theo thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm và giám đốc thẩm. Thông qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử của
Tòa án, đã phát hiện nhiều vi phạm và ban hành gần 6.000 kháng nghị phúc thẩm,
tăng 50%; trong đó, số kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận đạt tỷ lệ
78,9%, tăng 8,5% và vượt 8,9% so với chỉ tiêu Nghị quyết 96 của Quốc hội; ban
hành gần 700 kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, tăng 40% và số kháng nghị
được Hội đồng xét xử chấp nhận đạt tỷ lệ 84,8%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết 96 của
Quốc hội. Đặc biệt, các trường hợp Viện kiểm sát quyết định truy tố nhưng Tòa án
tuyên bị cáo không phạm tội chiếm tỷ lệ rất nhỏ và giảm nhiều theo từng năm (năm
2017, giảm 14,3%; năm 2018, giảm 50%; năm 2020, giảm 50% so với năm trước).18
Điều này cho thấy hoạt động của ngành kiểm sát nói chung và hoạt động xét xử nói
riêng đã có đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Ngân Nga “Luật sư „chỉnh‟ Hội thẩm nhân dân hỏi truy vấn” -nhan-dan-hoi-truy-van-834773.html
18
Báo cáo tóm tắt báo cáo tổng kết cơng tác nhiệm kỳ Quốc Hội Khóa XIV của Viện Trưởng VKSND Tối
cao (2021), đường dẫn />17


18
Bên cạnh đó, Ngành kiểm sát đã đẩy mạnh phối hợp với Tòa án và đã tổ chức
gần 26.000 phiên tòa rút kinh nghiệm 19. Từ những phiên tòa này, ngành kiểm sát đã
có những đánh giá kịp thời chất lượng thực hiện thủ tục xét hỏi cũng như tranh luận

tại phiên tịa, từ đó có những giải pháp đổi mới toàn diện về mọi mặt nhằm thực
hiện tốt chức năng của mình.
Có được những kết quả như trên một phần là nhờ vào đội ngũ cán bộ, Kiểm
sát viên ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trị của ngành Kiểm sát nhân dân
trong hệ thống chính trị cũng như vai trò của Kiểm sát viên trong phiên tịa hình sự.
Các Kiểm sát viên đã nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị đề cương xét hỏi, có
chiến thuật xét hỏi tốt, dự kiến các tình huống có thể phát sinh tại phiên tịa; hỏi có
trọng tâm, trọng điểm và đã làm rõ thêm được căn cứ, cơ sở để khẳng định quan
điểm truy tố đã được nêu trong bản Cáo trạng là đúng pháp luật. Kiểm sát viên
cũng đã chủ động tích cực tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác; đã chú trọng xét hỏi những vấn đề mà Hội đồng xét xử chưa hỏi hoặc xét hỏi
chưa kỹ; Các câu hỏi cơ bản là rõ ràng, dễ hiểu, logic, không trùng lắp, bám sát nội
dung vụ án, làm rõ hành vi khách quan, ý thức chủ quan, vai trò đồng phạm của
từng bị cáo và mức bồi thường dân sự mà đại diện người bị hại yêu cầu; Giữa các
Kiểm sát viên có sự phối hợp nhịp nhàng trong việc phân công xét hỏi các bị cáo.20
Tuy nhiên, theo đánh giá, hiện nay, vấn đề xét hỏi của Kiểm sát viên vẫn còn
một số hạn chế : Kiểm sát viên khơng tích cực tham gia vào hoạt động xét hỏi, câu
hỏi còn sơ sài, lan man hoặc ỷ lại vào Hội đồng xét xử do Hội đồng xét xử đã hỏi
hết các vấn đề cần hỏi nên Kiểm sát viên khơng cịn gì để hỏi; cũng có những
trường hợp Kiểm sát viên đặt những câu hỏi trùng lặp với Hội đồng xét xử; hay
Kiểm sát viên hỏi chỉ một vài câu hỏi cho có hình thức, chủ yếu hỏi bị cáo có cảm
thấy oan sai khơng, thủ tục nhận cáo trạng có đảm bảo khơng chứ khơng hỏi gì về
nội dung vụ án.21 Một số trường hợp Kiểm sát viên chưa có câu hỏi dự phịng khi
các bị cáo thay đổi lời khai; Kiểm sát viên đặt nhiều câu hỏi buộc tội, thiếu câu hỏi
gỡ tội; Khi các bị cáo chối tội, Kiểm sát viên có đấu tranh nhưng chỉ tập trung cơng
Báo cáo tóm tắt báo cáo tổng kết cơng tác nhiệm kỳ Quốc Hội Khóa XIV của Viện Trưởng VKSND tối
cao (2021); đường dẫn />20
Thông báo tổng hợp ý kiến nhận xét về phiên tịa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017;
đường dẫn tuyen-toan-quoc-nam-2017-48642.html
21

Phạm Tiểu Thơ (2020) “Xét hỏi của Thẩm phán tại phiên tịa hình sự sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam” luận văn thạc sĩ, trường Đại học Luật Tp .HCM, tr. 29
19


19
bố các lời khai của bị cáo về việc không bị mớm cung, ép cung mà chưa đưa ra
được các tài liệu, chứng cứ trực tiếp để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo;
Kiểm sát viên còn đặt câu hỏi thể hiện sự gợi ý, mớm cung, chứa hàm ý trả lời, đôi
lúc vội vã kết luận đúng sai, đưa ra một số lập luận mang tính quy chụp, áp đặt;
Kiểm sát viên chưa đấu tranh làm rõ lý do các bị cáo khai khác với lời khai tại Cơ
quan điều tra, chưa xét hỏi đến cùng để làm rõ lời khai nào là đúng, chưa hỏi các bị
cáo có tài liệu, chứng cứ chứng minh các bị cáo bị ép cung, mớm cung; Thẩm phán
Chủ tọa phiên tịa xét hỏi có tính chất mớm cung, ép cung nhưng Kiểm sát viên
không phát hiện và đề nghị chấn chỉnh. Khi Luật sư đề nghị, Kiểm sát viên vẫn
không có ý kiến; Một số người làm chứng vắng mặt nhưng Kiểm sát viên không đề
nghị Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người này trong quá trình điều tra;
Kiểm sát viên xét đơi lúc làm thay quyền điều khiển của Chủ tọa phiên tịa, khơng
thơng qua Chủ tọa để hỏi các bị cáo và người làm chứng.22
* Đối với hoạt động của Ngƣời bào chữa; ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của bị hại, đƣơng sự
Trong những năm gần đây, khi vấn đề tranh tụng đã được coi trọng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, vai trị của Người bào chữa ngày càng được nâng
cao, chất lượng cũng như số lượng Người bào chữa cũng vì thế mà tăng lên rất
nhiều. Tính đến cuối năm 2020 Luật sư thành viên có số lượng 15.107. So với năm
2019 có 13.859 luật sư, số lượng luật sư đã tăng 1.248 luật sư 23. Riêng đoàn luật sư
Tp Hồ Chí minh tính đến tháng 11/2020 là 6293 luật sư; tổng số vụ Đoàn luật sư
tham gia bao chữa là 2612 vụ án, trong đó có 672 vụ án là bào chữa chỉ định.24
Tham gia vào hoạt động xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, người bào chữa
đã có những câu hỏi có chất lượng, đi vào trọng tâm, không chỉ bảo vệ được thân chủ

của mình mà cịn góp phần vào việc xác định sự thật vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử
ra bản án mang tính khách quan, chính xác. Những trường hợp “vẽ đường” cho bị cáo
trả lời sai hoặc “dựng lên màn kịch” sao cho có lợi cho thân chủ mình đã được giải
Thơng báo tổng hợp ý kiến nhận xét về phiên tịa hình sự rút kinh nghiệm trực tuyến toàn quốc năm 2017;
đường dẫn />23
Hội nghị Tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động Năm 2021 của Liên đoàn Luật
sư Việt Nam; đường dẫn />%BB%95ng-k%E1%BA%BFt-t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-ho%E1%BA%A1t-%C4%91%E1%BB%
99ng-n%C4%83m-2020-v%C3%A0-ph%C6%B0%C6%A1ng-h%C6%B0%E1%BB%9Bng-ho%E1%BA%
A1t-%C4%91%E1%BB%99ng-n%C4%83m-2021
24
Báo cáo về tổ chức và hoạt động của đồn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020; Đường dẫn http://
hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?language=&CatPK=6&NewsPK=1002
22


20
quyết. Kỹ năng xét hỏi cũng như những kỹ năng cần thiết khác của Người bào chữa
ln được liên đồn luật sư cũng như các Đoàn luật sư các tỉnh thành quan tâm, các
chương trình tập huấn, hướng dẫn được tổ chức thường xuyên hơn.
Tuy đã được cải thiện đáng kể so với trước đây, nhưng hoạt động xét hỏi của
Người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như:
câu hỏi còn vong vo, không đúng trọng tâm. Trong những vụ án có Người bào chữa
chỉ định, đặc biệt là những vụ án có bị cáo bị đưa ra xét xử với khung hình phạt tử
hình, chung thân hoạt động của Người bào chữa đơi khi chỉ mang tính hình thức,
Người bào chữa không hỏi nhiều hoặc hỏi nhưng không đảm bảo hiệu quả gỡ tội
cho bị cáo; hoặc những trường hợp mà Người bào chữa là bào chữa viên nhân dân
tham gia thì chất lượng hoạt động xét hỏi và tranh luận cũng chưa thật sự hiệu quả;
Khơng ít trường hợp, Người bào chữa đã khơng nắm được tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS và phản biện thiếu cơ sở hoặc không đúng cơ sở pháp lý, không thuyết
phục được Hội đồng xét xử và người tham dự phiên tòa.

Điều này cũng tương tự đối với người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự. Phần lớn chủ thể này khá là thụ động khi tham gia vào hoạt động xét hỏi. Có
thể do là chủ thể được hỏi gần như cuối cùng nên những câu hỏi chủ thể này muốn hỏi
đã được hỏi trước đó, họ khơng lặp lại hoặc có hỏi thì cũng trùng lắp nội dung.
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế và giải pháp hồn thiện quy định
Pháp luật về chủ thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
1.3.1. Ngun nhân
Những tồn tại mà tác giả đã phân tích ở trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
để có những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động
xét hỏi, tác giả xin đưa ra một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, pháp luật TTHS hiện hành quy định về nội dung xét hỏi của Hội
đồng xét xử là chưa phù hợp. Điều 307 BLTTHS 2015 quy định “Hội đồng xét xử
phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng
người” đã làm cho Tòa án hay cụ thể hơn là Hội đồng xét xử chưa thực sự trở thành
trọng tài để giải quyết sự “đối đầu” giữa bên buộc tội và gỡ tội. Cũng chính điều
này đã khiến cho Kiểm sát viên tại phiên tịa khơng biết phải hỏi gì, hoặc phải hỏi
những vấn đề “phụ” “lịng vịng” thay vì hỏi đúng trọng tâm để bảo vệ cáo trạng vì
các vấn đề cần hỏi đã được Hội đồng xét xử làm rõ.
Thứ hai, pháp luật TTHS hiện hành quy định quyền được đặt câu hỏi của bị
cáo cho bị hại, đương sự, người làm chứng nhưng lại cần phải được sự “đồng ý” của


21
Chủ tọa phiên tòa là chưa đảm bảo quyền của bị cáo một cách triệt để. Thiết nghĩ
quyền được đặt câu hỏi của bị cáo chính là một cách thức để bị cáo có thể thực hiện
tốt quyền bào chữa của mình, mặc khác, với điều kiện phải có sự “đồng ý” của Chủ
tọa phiên tịa thì quyền này liệu rằng lúc nào cũng được đảm bảo không.
Thứ ba, pháp luật TTHS hiện hành chưa quy định bị hại, đương sự có quyền
được đặt câu hỏi cho bị cáo hoặc người có liên quan. Kết quả phiên tịa khơng chỉ
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của bị cáo mà cịn ảnh hưởng đến quyền lợi ích của bị

hại, của đương sự, do đó, để những chủ thể này có thể đảm bảo được quyền lợi của
mình, pháp luật TTHS nên ghi nhận quyền được đặt câu hỏi cho bị hại, đương sự.
Thứ tư, nhận thức của một số Thẩm phán còn hạn chế, việc thực hiện một số
nguyên tắc chưa được triệt để như ngun tắc suy đốn vơ tội, nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của bị cáo; việc xét hỏi cịn cứng nhắc theo đề cương có sẵn mà
khơng căn cứ vào diễn biến của phiên tịa. Chính điều này làm cho hiệu quả xét hỏi
tại phiên tòa trong một số trường hợp chưa được đảm bảo một cách triệt để.
Thứ năm, đa phần Hội thẩm hiện nay vẫn còn kiêm nhiệm, tiêu chuẩn bầu
Hội thẩm còn dễ dàng; trình độ am hiểu pháp luật cịn hạn chế; yêu cầu cần phải
nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi tham gia phiên tòa còn chưa được thực hiện
nghiêm túc; Hội thẩm vẫn chưa thật sự độc lập với Thẩm phán khi xét xử. Những
nguyên nhân này đã góp phần dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong hoạt động xét hỏi của
Hội thẩm.
Thứ sáu, nhận thức của Kiểm sát viên còn chưa đúng đắn, đầy đủ về chức
năng nhiệm vụ của mình cũng như tầm quan trọng của hoạt động xét hỏi tại phiên
tịa. Chính điều này đã tạo cho Kiểm sát viên một tâm lý ỉ lại vào Hội đồng xét xử,
họ khơng thật sự tích cực khi tham gia vào hoạt động xét hỏi cũng như tranh luận.
Thứ bảy, trình độ, kỹ năng của Người bào chữa vẫn cịn hạn chế; thái độ
thiếu tích cực trong những vụ án bào chữa chỉ định; cũng như những “rào cản”
trong những quy định của pháp luật trong hoạt động thu thập chứng cứ của Người
bào chữa... là những nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong hoạt động xét hỏi
của Người bào chữa tai phiên tòa.
1.3.2. Giải pháp nhằm hồn thiện quy định pháp luật Tố tụng hình sự về chủ
thể có quyền xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, Cần xác định lại vai trò, chức năng của Hội đồng xét xử cho phù
hợp với mơ hình tố tụng và định hướng cải cách tư pháp hiện nay. Hội đồng xét xử
muốn trở thành trọng tài thì khơng thể là “người hỏi chính” như pháp luật hiện



×