Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo luật hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.69 MB, 194 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THU HỒNG

TỘI CHO VAY LÃI NẶNG
TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TỘI CHO VAY LÃI NẶNG
TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự.
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
Họ và tên
: Nguyễn Thị Thu Hồng
Lớp
: Cao học luật, Khóa 31



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của bản thân với sự
giúp đỡ của Giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, số liệu viện dẫn trong luận văn
được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc, đảm bảo tính khách quan, trung thực./.
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thị Thu Hồng


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2

BLHS

Bộ luật hình sự


3

BLHS năm 2015

BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

4

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

5

CQĐT

Cơ quan điều tra

6

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


STT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CHO VAY
LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ ..........................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự .8
1.2. Khái quát lịch sử quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.................................................................13
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự ......................................................19
1.4. Quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của một số nƣớc
trên thế giới...........................................................................................................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................36
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHO VAY LÃI
NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ..................................37
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự............................................................................................................................37
2.2. Kiến nghị về quy định của pháp luật hình sự đối với Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự .........................................................................................68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động cho vay lãi nặng của các nhóm tội
phạm đã và đang diễn ra rất phức tạp với những phương thức và thủ đoạn hết sức
tinh vi và xảo quyệt như: các đối tượng đã lợi dụng mạng viễn thơng, mạng
Internet, núp bóng dưới các doanh nghiệp có chức năng cho vay, dịch vụ địi nợ,
kinh doanh cầm đồ, tạo vỏ bọc đối phó với cơ quan chức năng để tổ chức các hoạt
động cho vay khơng thế chấp, góp vốn, góp tài sản kinh doanh với mức lãi suất rất
cao (từ 100%/năm đến 300%/năm, thậm chí lên đến 700%/năm đối với khoản tiền ở
thời điểm vay)1 nhằm thu lợi bất chính, kèm theo những hoạt động cho vay lãi nặng
là các hoạt động phạm tội khác nhằm mục đích thu hồi nợ của người vay như gây
rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, cưỡng đoạt tài sản, giết người nếu người
vay khơng trả được nợ. Riêng năm 2018, Công an các đơn vị, địa phương đã xử lý
hơn 2.500 vụ liên quan đến “Tín dụng đen”, trong đó khởi tố 34 vụ, với 66 bị can về
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Điều 201 BLHS năm 2015 và
2.353 vụ án khác có liên quan (84 vụ giết người, 855 vụ án cố ý gây thương tích,
105 vụ cướp tài sản và 1.309 vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến tín
dụng đen)2. Với thủ đoạn này các đối tượng phạm tội đã đẩy nhiều người rơi vào
hoàn cảnh phải bán nhà, bán tài sản, bỏ gia đình trốn nợ.
Để kịp thời đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh xã hội, bảo vệ
tính mạng, sức khỏe và tài sản của cơng dân, BLHS năm 2015 đã kịp thời sửa đổi,
bổ sung những quy định của BLHS năm 1999 từ “Tội cho vay lãi nặng” thành "Tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" để phù hợp với các quy định mới của
BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, quy định
tại Điều 201 BLHS năm 2015 trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc,
bất cập dẫn đến nhiều quan điểm và cách áp dụng pháp luật không thống nhất giữa
các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng làm cho cơng tác đấu
tranh, phịng chống đối với tội phạm này chưa thực sự hiệu quả.
Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 25 tháng 4 năm 2019 của Thủ tướng chính phủ về tăng cường phòng ngừa, đấu
tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”.
2

Lê Q Vương (2019) “Tình hình hoạt động “Tín dụng đen” và những vấn đề đặt ra trong công tác của lực
lượng cảnh sát nhân dân”, Hội thảo khoa học thực trạng “Tín dụng đen” và những vấn đề đặt ra đối với công
tác quản lý đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến “Tín dụng đen” của lực
lượng cảnh sát nhân dân, tr.7
1


2
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự từ giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với các vụ án về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự cịn bộc lộ những hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định như
thiếu văn bản hướng dẫn, các văn bản pháp lý liên quan đã ban hành còn chồng
chéo, mâu thuẩn, một số văn bản khơng cịn phù hợp với thực tiễn áp dụng. Từ đó
dẫn đến việc xử lý hành vi cho vay lãi nặng hết sức khó khăn, phức tạp. Vì vậy,
hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cần phải được nhận thức và áp dụng
thống nhất nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả.
Do vậy, để khắc phục những khó khăn, vướng mắc về quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, bảo
đảm cho quá trình thực thi pháp luật hình sự được chính xác, xử lý đúng người,
đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn để qua đó có những kiến nghị hồn thiện pháp
luật, và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là
điều cần thiết. Xuất phát từ những lý do đó mà tác giả chọn đề tài “Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua có một số cơng trình khoa học có liên quan đến đề
tài của tác giả đã được đề cập và công bố như:

- Giáo trình:
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam - Phần chung, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam phần các tội phạm – quyển 1, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm – quyển 1, NXB Công an nhân dân.
Nội dung các giáo trình trên phân tích về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự một cách cơ bản về các yếu tố cấu thành tội phạm: khách thể, chủ thể, mặt


3
chủ quan, mặt khách quan và hình phạt trên cơ sở các nội dung mà điều luật quy
định chứ không làm rõ lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật
hình sự qua các thời kỳ về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cũng như
khơng đi sâu phân tích, đánh giá những điểm tích cực, hạn chế, những khó khăn,
vướng mắc gặp phải trong quá trình giải quyết vụ án đối với hành vi cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự.
- Sách bình luận:
Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Thế Giới.
Lê Quang Thành (2020), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được
sửa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Lao động, Hà Nội.
So với nội dung về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong các giáo
trình luật hình sự, Bình luận khoa học BLHS có sự phân tích kỹ hơn về các yếu tố
cấu thành tội phạm cũng như khung hình phạt tăng nặng được áp dụng. Mặc dù vậy,
nội dung được bình luận cũng nằm trong phạm vi điều luật mà BLHS quy định chứ
không đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật để có hướng giải quyết đối với

những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.
- Bài viết khoa học:
Bài viết “Tội cho vay lãi nặng - những bất cập của Bộ luật hình sự và giải
pháp khắc phục” của tác giả Nguyễn Văn Hương đăng trên Tạp chí Tịa án nhân
dân số 19/2004.
Bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong xử lý tội phạm cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự” của tác giả Đồng Thị Lan Anh đăng trên Tạp chí kiểm sát
số 24/2019.
Bài viết “Một số ý kiến từ thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, truy tố, xét xử Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” của tác giả Lê Văn
Quang đăng trên Tạp chí kiểm sát số 04/2020.
Bài viết “Một số vấn đề về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” của
tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam số 8+9/2020.


4
Bài viết “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Kim Thơ đăng trên Tạp chí kiểm sát số 17/2020.
Bài viết “Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự của Bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017” của tác giả Hoàng Minh Đức đăng trên Tạp
chí Nghề luật số 4/2020.
Bài viết “Bàn về giải quyết xung đột pháp luật trong xử lý hành vi cho vay
nặng lãi” của tác giả Hoàng Thế Anh đăng trên Tạp chí kiểm sát số 22/2019.
Trong các bài viết này, hầu hết các tác giả đã phân tích một cách sơ lược về
tình hình tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng đen, các yếu tố cấu thành tội
phạm và chỉ ra một số hạn chế vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật của
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong BLHS. Đồng thời các tác giả
cũng đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc đó. Tuy
nhiên, dưới góc độ là một bài viết đăng trên tạp chí nên bài viết chưa phân tích các

yếu tố cấu thành tội phạm cũng như những vướng mắc, bất cập gặp phải khi áp
dụng pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ:
Trương Thị Hồng Ngân, (2016) Luận văn thạc sĩ Luật học “Nâng cao hiệu
quả phòng, chống hành vi cho vay lãi nặng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” tại
Trường Đại Học Cần Thơ. Trong cơng trình này, tác giả nghiên cứu hành vi cho vay
lãi nặng với phạm vi nghiên cứu rộng đó là hành vi cho vay lãi nặng theo pháp luật
dân sự, pháp luật hành chính và pháp luật hình sự chứ khơng tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Vì vậy, theo đánh giá của tác giả, mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu đề
cập đến Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, tuy nhiên, đa số các đề tài chỉ
giải quyết những vấn đề có liên quan dưới góc độ tài chính, tín dụng hoặc nghiên
cứu ở một khía cạnh (Định tội danh; Hành vi khách quan của tội phạm …), chưa có
cơng trình hay bài viết nào đánh giá một cách chuyên sâu, toàn diện các vấn đề liên
quan đến lý luận và thực tiễn về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Mặc
dù vậy, kết quả các cơng trình, bài viết nêu trên là một trong những nguồn tài liệu
quan trọng mà tác giả có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa và bổ sung để hoàn
thiện cho luận văn.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự, thực tiễn áp dụng pháp luật đối với Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định pháp luật hiện hành cũng như bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích đã được xác định, luận văn cần thiết phải thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:

- Làm rõ những vấn đề lý luận và phân tích quy định về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự của BLHS hiện hành.
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự qua các thời kỳ trong lịch sử.
- Nghiên cứu quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong
pháp luật hình sự của BLHS Cộng hịa nhân dân Trung Hoa, BLHS Liên bang Đức;
so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật Việt Nam so với BLHS Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, BLHS Liên bang Đức để tham khảo và vận dụng kinh nghiệm
pháp luật nước ngồi vào Việt Nam.
- Khảo sát, thu thập thơng tin, số liệu, tiến hành phân tích và đánh giá thực
tiễn áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên phạm vi
cả nước;
- Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành cũng như bảo
đảm áp dụng đúng pháp luật về tội này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tại BLHS năm 2015. Đồng
thời, đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các quy định về Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự trong pháp luật hình sự của pháp luật nước ngồi cụ thể
là BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, BLHS Liên bang Đức; đối tượng nghiên


6
cứu của đề tài là thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên cơ sở các vụ án về Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Phạm vi nghiên cứu
+ Pháp luật Việt Nam: Đề tài nghiên cứu quy định về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự tại các BLHS Việt Nam (Điều 171 BLHS năm 1985, Điều
163 BLHS năm 1999, Điều 201 BLHS năm 2015)

+ Pháp luật hình sự nước ngồi: đề tài nghiên cứu các quy định của BLHS
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Điều 175), BLHS Liên bang Đức (Điều 291)
+ Phạm vi về thời gian và không gian đối với khảo sát về thực tiễn áp dụng
pháp luật: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở số liệu cụ thể về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự được thu thập trong phạm vi cả nước cùng với các bản án đã
được Tòa án nhân dân địa phương xét xử giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – LeNin.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp lý thuyết
luật học, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu vụ
án điển hình trong quá trình thực hiện.
+ Phương pháp lý thuyết luật học được tác giả sử dụng để giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể như làm rõ những vấn đề lý luận về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự, phân tích quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo
quy định của BLHS hiện hành; Phân tích quy định về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự trong pháp luật hình sự của một số quốc gia.
+ Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng nhằm đối chiếu các quy định
của pháp luật khi nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự để phát hiện những điểm tích cực, điểm hạn chế của
từng quy định trong từng thời kỳ. Đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp so
sánh nhằm đối chiếu các quy định của BLHS Việt Nam so với BLHS Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, BLHS Liên bang Đức.
+ Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để khảo sát, thu thập thông tin,
số liệu về cơng tác xử lý hình sự đối với tội phạm cho vay lãi nặng trong giao dịch


7
dân sự nhằm làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự ở nước ta trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

+ Đối với phương pháp nghiên cứu án điển hình: nghiên cứu 100 bản án gồm
91 bản án sơ thẩm, 09 bản án phúc thẩm nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong việc định tội, định
khung và quyết định hình phạt để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần nhất định vào việc làm phong phú thêm nhận thức chung
về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong khoa học luật hình sự Việt
Nam. Đồng thời góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự về Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh giá trị về mặt lý luận, luận văn còn có thể được vận dụng như một
tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở
giáo dục trên cả nước. Thêm vào đó, đối với các cán bộ cơng tác thực tiễn, đặc biệt
là cán bộ cơng tác trong lĩnh vực hình sự, luận văn sẽ giúp ích một phần để các đối
tượng này vận dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tế.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm hai chương. Cụ thể như sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự.
Chƣơng 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự và kiến nghị.


8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG
TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

1.1. Khái niệm và đặc điểm của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1.1.1. Khái niệm Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Trước khi đưa ra khái niệm về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì
cần phải làm rõ khái niệm “vay”, “cho vay”, “hợp đồng vay tài sản”, “lãi”, “lãi
nặng”, “Giao dịch dân sự”.
- Theo Từ điển Tiếng Việt thì vay là “hoạt động nhận tiền hay vật gì của
người khác để sử dụng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có thêm phần
lãi”3, cịn cho vay là “bên cho vay đưa tiền cho bên vay trong một thời hạn nhất
định rồi trả cả vốn lẫn tỷ suất lãi”4, Theo từ điển Tưởng giải và liên tưởng tiếng
Việt thì khái niệm cho vay là “tạm cho người khác sử dụng một khoản tiền hoặc vật
dụng và sẽ được hoàn lại theo thỏa thuận”5.
Theo từ điển Luật học thì cho vay được hiểu là “Bên cho vay giao cho bên
vay một khoản tiền hoặc vật cùng loại để làm sở hữu trong thời hạn hoặc các bên
đã thỏa thuận. Cho vay có thể có lãi hoặc khơng có lãi, người vay chỉ phải trả lãi
nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”6.
Theo Khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng “Cho vay là hình thức cấp
tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo sự thỏa
thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi”.
Dưới góc độ khoa học pháp lý thì “vay” và “cho vay” là một giao dịch dân sự
được thể hiện dưới dạng là một hợp đồng vay tài sản. Theo quy định tại Điều 463
BLDS năm 2015 thì “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho
bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Phạm Lê Biên (chủ biên) (2016), Từ điển Tiếng việt thông dụng, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 152
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, tr.371
5
Nguyễn Văn Đạm (2004), Từ điển tưởng giải và liên tưởng tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, tr.149
6

Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa, tr.143
3
4


9
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự7.
Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý dưới dạng hành vi pháp lý đơn
phương hoặc đa phương làm phát sinh hậu quả pháp lý. Trong đó, hợp đồng vay tài
sản là giao dịch dân sự được thực hiện dưới dạng hành vi pháp lý đa phương nhằm
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự, trong giao dịch dân sự
này các bên thể hiện ý chí, mục đích của mình. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vay
tài sản được phát sinh ngay sau khi các bên giao kết hợp đồng. Mỗi bên trong hợp
đồng vay tài sản có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong hợp đồng vay tài
sản ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí
của các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng8.
Từ định nghĩa của hợp đồng vay tài sản thì chủ thể của hợp đồng vay, nghĩa
vụ chính của mỗi chủ thể khi tham gia vào giao dịch, đối tượng của hợp đồng vay,
các loại hợp đồng vay tài sản. Theo đó, chủ thể của hợp đồng vay bao gồm bên
vay và bên cho vay, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, có năng lực hành vi dân
sự (về độ tuổi, khả năng nhận thức, làm chủ hành vi) hoàn toàn tự nguyện khi
tham gia giao kết hợp đồng. Nhìn chung bất kỳ chủ thể nào có quyền sở hữu hợp
pháp tài sản (tài sản thỏa mãn các điều kiện của pháp luật để trở thành đối tượng
của hợp đồng vay tài sản) đều được phép mang tài sản đó đi cho vay. Khi hợp
đồng vay tài sản được giao kết, nghĩa vụ chính của bên cho vay là giao tài sản cho
bên vay và nghĩa vụ chính của bên vay là hồn trả tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng cho bên cho vay, bên vay chỉ có nghĩa vụ trả lãi nếu có thỏa
thuận lãi suất hoặc theo pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản là
vật và tiền (không bao gồm quyền tài sản và vật đặc định). Tuy nhiên, thông

thường đối tượng vay tài sản là tiền, nếu đối tượng của hợp đồng vay là vật thì
phải vật cùng loại, bởi vì khi hết thời hạn vay, bên vay phải trả lại tài sản đó cho
bên vay hoặc trường hợp bên vay khơng thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị
giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý9.
Hợp đồng vay tài sản có thể bao gồm các loại sau đây: hợp đồng vay tài sản có kỳ
hạn và hợp đồng vay tài sản khơng có kỳ hạn (căn cứ vào thời hạn vay), hợp đồng
vay tài sản có bảo đảm và hợp đồng vay tài sản khơng có bảo đảm (căn cứ vào tài
Điều 116 BLDS năm 2015.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb. Công an nhân dân, tr. 136
9
Khoản 2, Điều 466 BLDS 2015.
7
8


10
sản bảo đảm), hợp đồng vay tài sản có trả lãi và hợp đồng vay tài sản không trả lãi
(căn cứ vào lãi suất).
Hợp đồng vay tài sản trong giao dịch dân sự gồm 02 loại: “Hợp đồng cho vay
tài sản là tiền giữa tổ chức tín dụng với khách hàng (sau đây gọi là hợp đồng tín
dụng) và hợp đồng vay tài sản là tiền giữa cá nhân, pháp nhân khơng phải là tổ chức
tín dụng với nhau (sau đây gọi là hợp đồng vay tài sản không phải là hợp đồng tín
dụng)10. Điều 201 BLHS năm 2015 quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự chỉ điều chỉnh đối với hợp đồng vay là tiền giữa cá nhân, pháp nhân
không phải là tổ chức tín dụng với nhau tức là hợp đồng vay khơng phải là hợp
đồng tín dụng, mặt khác các vấn đề về lãi suất để tính số tiền thu lợi bất chính trong
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là lãi suất được quy định trong BLDS,
còn đối với hợp đồng vay tài sản là hợp đồng tín dụng sẽ do Luật Ngân hàng, Luật
các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn liên quan đến Luật Ngân hàng, Luật
các tổ chức tín dụng điều chỉnh mà không thuộc đối tượng điều chỉnh của BLDS.

Trong phần lớn các hợp đồng vay tài sản thì bên vay phải trả thêm một khoản
tiền ngoài tiền gốc cho bên cho vay (hay gọi là tiền lãi), tiền lãi này các bên tính
dựa trên phần trăm số tiền gốc tương ứng (hay còn gọi là lãi suất).
- Về lãi suất, hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau như: theo Từ điển
luật học thì lãi suất cho vay là “lãi suất tính trên số vốn mà bên vay phải trả kèm
theo gốc tiền vay…lãi suất cho vay thể hiện dưới hình thức tỷ lệ phần trăm trên số
tiền vay theo khoảng thời gian xác định (tháng, ngày, năm). Lãi suất cho vay là nội
dung bắt buộc các bên phải thỏa thuận khi ký kết hợp đồng tín dụng”11 lãi suất còn
được hiểu là “tỉ lệ phần trăm số tài sản tăng thêm trên số tài sản vay do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Lãi suất được dùng để xác định số lãi trên
nợ gốc và lãi nợ quá hạn mà bên vay phải trả cho bên cho vay”12, hay “Lãi suất là
phần trăm nhất định mà người vay phải trả thêm vào số tài sản đã vay tính trên đơn
vị thời gian, nếu các bên có thỏa thuận về việc trả lãi hoặc pháp luật có quy định về
việc trả lãi”13.
Điều 1 Nghị định 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
11
Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa, tr.452
12
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017) “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tr.702
13
Nguyễn Ngọc Chung (2018), Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luật văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.14
10


11
Khái niệm tội phạm được nêu tại Điều 8 BLHS năm 2015 “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của
cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Những hành vi tuy có dấu hiệu
của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng phải là
tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
Điều 201 BLHS năm 2015 quy định Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự như sau
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở
lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ
30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm.
1. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
2. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đến 100.000.000,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm.”
Từ quy định trên, có thể định nghĩa hành vi cho vay lãi nặng như sau: “Hành
vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi của bên cho vay trong hợp
đồng vay tài sản cho vay với lãi suất vượt quá mức lãi suất mà pháp luật cho phép
các bên trong giao dịch thỏa thuận nhằm mục đích thu lợi bất chính”.
Tuy nhiên tại Điều 8 BLHS năm 2015 quy định khái niệm về tội phạm cho
thấy không phải cứ hành vi cho vay lãi nặng nào đều là tội phạm. Điều 8 BLHS năm
2015 là cơ sở để xác định một hành vi có bị coi là tội phạm hay khơng, từ khái niệm
về tội phạm và quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tại Điều 201
BLHS năm 2015 ta có thể đưa ra khái niệm về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch



12
dân sự như sau “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi nguy hiểm
cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hành vi
cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS,
thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Như vậy ta thấy một hành vi cho vay lãi nặng để trở thành tội phạm phải thỏa
mãn các dấu hiệu của tội phạm đó là: tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội của hành
vi, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt14.
1.1.2. Đặc điểm của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của tội phạm nói chung và khái
niệm của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nói riêng, theo tác giả, Tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự phải thể hiện những đặc điểm sau:
Một là, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi nguy hiểm cho
xã hội bởi nó là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ mà cụ thể là trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực thuế,
tài chính, ngân hàng, chứng khốn, bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội nhưng ở mức độ khơng đáng kể thì cũng khơng phải là tội phạm “Những
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng
đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”15.
Hai là, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, tức là hành vi phải do người đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự và người đó khơng rơi vào trường hợp khơng có năng lực trách
nhiệm hình sự đã cho vay với mức lãi suất gấp từ 05 lần trở lên mức lãi suất cao
nhất quy định trong BLDS năm 2015 nhằm mục đích thu lợi bất chính từ
30.000.000 đồng trở lên hoặc; trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
hoặc bị kết án về tội này nhưng chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Ba là, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi có lỗi cố ý. Nhận

thức chủ quan của người phạm tội xuất phát từ việc họ mong muốn thu lợi bất chính.
Bốn là, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi trái pháp luật
hình sự cụ thể là hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự phải được quy
14
15

Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam - quyển 1 (Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113.
Khoản 4, Điều 8 BLHS năm 2015.


13
định trong BLHS mới bị coi là tội phạm, ngoài BLHS ra thì khơng một văn bản
pháp luật nào có thể quy định về hành vi này bị coi là tội phạm. Đây là nguyên tắc
đã được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hiệp
Quốc “Không ai bị xét xử về một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia
hay quốc tế không coi là tội phạm” và đây cũng là nguyên tắc pháp chế đã được quy
định tại Khoản 1 Điều 2 BLHS hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định là tội phạm thì mới phải chịu hình phạt” và chủ thể thực hiện
hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự phải chịu hình phạt.
1.2. Khái quát lịch sử quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Các quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trước khi
có Bộ luật hình sự năm 1985
Pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ là công cụ để Nhà nước điều
chỉnh hành vi của con người cho phù hợp khi người đó thực hiện một hành vi bị coi
là tội phạm. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là một trong những tội
phạm xâm phạm đến các quan hệ trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng
khốn, bảo hiểm mà nhà nước quy định phải có sự bảo vệ bằng pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng.
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là một trong những tội phạm được

quy định rất sớm từ thời phong kiến, là một trong những Bộ luật quan trọng nhất của
Việt Nam. Nói đến “Quốc triều hình luật” (Bộ luật Hồng Đức) là người ta nghĩ ngay
đến một bộ luật tiến bộ nhất, hồn chỉnh nhất, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là cơ sở và
nền tảng cho việc xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam từ thời Lê sơ. Bộ luật này
không chỉ là thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam nói riêng và
nền văn hiến Việt Nam nói chung mà cịn để lại nhiều giá trị, ý nghĩa to lớn và những
bài học kinh nghiệm sâu sắc trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật cũng
như trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Quốc triều hình luật khơng chỉ được đánh giá cao hơn hẳn so với những thành tựu pháp
luật của các triều đại trước đó mà cịn có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với lập pháp của
các triều đại phong kiến Việt Nam sau này. Dưới triều nhà Lê (1428-1789) khi mà nền
kinh tế của Việt Nam khá phát triển, cùng với sự phát triển của nền kinh tế sẽ kéo theo
nhiều hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng
Đức) đã ra đời như một công cụ để xây dựng và ổn định nền kinh tế đất nước.


14
Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) bao gồm 6 quyển, 13 chương,
722 điều, Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được ghi nhận tại quyển 5 của
chương Tạp luật, Điều 35 Bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) quy định như
sau “Cho vay nợ hay cầm đồ vật mỗi tháng được lấy tiền lãi mỗi quan là 15 đồng
kẽm, dù lâu bao nhiêu năm cũng khơng được tính q một gốc một lãi, trái luật thì
xử biếm một tư, mà mất tiền lãi. Nếu tính gồm lãi vào gốc, rồi bắt làm văn tự khác,
thì xử tội nặng hơn một bậc”16. Ta thấy từ thời phong kiến đã quy định về Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Ngay từ thời phong kiến, Điều 35 Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức)
đã có những điểm tiến bộ để Việt Nam kế thừa và phát triển cho quá trình lập pháp
sau này, điều luật quy định khá toàn diện các yếu tố cấu thành Tội cho vay lãi nặng
như “lãi suất” cho phép trong giao dịch (mỗi tháng được lấy tiền lãi mỗi quan là 15
đồng kẽm), hình phạt (biếm một tư, mất tiền lãi), điều luật còn quy định cả tình tiết

tăng nặng (Nếu tính gồm lãi vào gốc, rồi bắt làm văn tự khác, thì xử tội nặng hơn
một bậc). Tuy nhiên, các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ giản đơn, các hành vi
được mô tả chưa đầy đủ nhưng cũng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý tội phạm
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, đồng thời còn thể hiện bước tiến quan
trọng, cơ bản về kỹ thuật lập pháp của Việt Nam, tạo tiền đề cho quy định về Tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự sau này.
Như vậy, trước khi ban hành BLHS năm 1985 đã có một số điểm tiến bộ như:
đã quy định được lãi suất được phép cho vay trong giao dịch, xác định rõ những
trường hợp, những đối tượng bị xử lý về hình sự và quy định về chế tài xử lý một
cách nghiêm khắc, triệt để đồng thời đã quy định các tình tiết tăng nặng một cách cụ
thể. Tuy nhiên, do thời gian đó là giai đoạn đầu trong lịch sử lập pháp hình sự của
nước ta nên kỹ thuật lập pháp cịn có phần hạn chế. Các dấu hiệu cấu thành tội
phạm chủ yếu cịn mang tính liệt kê và các quy định cịn mang tính sơ lược.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự
Bộ luật hình sự năm 1985 là BLHS đầu tiên của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được thơng qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986.
BLHS năm 1985 ra đời đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền khoa học pháp lý
16

Viện sử học (2013), Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức). Nxb. Tư pháp, tr.249.


15
hình sự nước ta. Lần đầu tiên một văn bản pháp luật hồn chỉnh, thống nhất, thể chế
hóa các văn bản pháp luật đã được ban hành trước đó, điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự được thống nhất khi mà
đất nước cịn khó khăn cả về kinh tế và chính trị, tội phạm xuất hiện ngày càng
nhiều. Đồng thời, BLHS năm 1985 ra đời cũng thể chế hóa các quy định của Hiến
pháp 1980 mới được ban hành.

Bộ luật hình sự năm 1985 quy định Tội cho vay lãi nặng tại Chương VII –
Các tội phạm về kinh tế. Điều 171 BLHS năm 1985 quy định “1. Người nào cho
vay lãi nặng có tính chất chun bóc lột thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo khơng giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt cảnh cáo từ ba tháng đến hai năm; 2. Phạm tội trong
trường hợp sử dụng cơng quỹ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.
Tội cho vay lãi nặng là tội phạm lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm
1985 đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý đối với loại
vi phạm pháp luật này. Từ quy định trên có thể xác định tội phạm này có hành vi cho
vay lấy lãi quá cao so với mức quy định của Nhà nước, có tính chất chun bóc lột,
tức là có tính chất thường xuyên, làm nguồn sống. Tội cho vay lãi nặng trong trường
hợp: hành vi cho vay lãi nặng có tính chất tương trợ, giúp đỡ nhất thời hoặc do người
đi vay mang ơn tự nguyện trả lãi hoặc biếu xén các lợi ích vật chất có giá trị so với số
tiền vay, hành vi cho vay lấy lãi đó để bổ sung thu nhập làm nguồn sống17 thì khơng
cấu thành phạm này. Hành vi “sử dụng cơng quỹ” là tình tiết tăng nặng của Tội cho
vay lãi nặng, nếu hành vi gây nên mất cơng quỹ cịn chịu trách nhiệm hình sự thêm
Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 133 BLHS năm 1985)18. Người thực hiện
hành vi cho vay lãi nặng bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại khoản 1 với khung hình
phạt cao nhất là hai năm, tội phạm trong trường hợp sử dụng công quỹ thì bị phạt lên
đến năm năm, mức hình phạt này mặc dù chưa đủ sức răn đe nhưng đã thể hiện được
quyết tâm đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta. Tuy nhiên, do điều luật quy
định hành vi khách quan không cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn khó áp dụng, với quy
định này điều luật chưa làm rõ vấn đề hành vi cho vay với lãi suất đến mức độ nào thì
bị coi là “nặng”, khơng quy định số tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu về là
bao nhiêu thì đủ căn cứ để định tội, điều này làm cho quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố gặp nhiều khó khăn, đồng thời, ở khung tăng nặng, BLHS năm 1985 chỉ tập trung
17

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1991), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb. Pháp lý, tr.272.
Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, tr.277.

18


16
bảo vệ lợi ích xã hội chủ nghĩa hơn là tài sản của cơng dân khi chỉ quy định tình tiết
“sử dụng cơng quỹ” làm tình tiết tăng nặng. Do đó trong giai đoạn từ năm 1985 cho
đến năm 1999 từ thực tiễn cho thấy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
cho vay lãi nặng hầu như khơng xảy ra, dù tình trạng cho vay lãi nặng diễn ra rất phổ
biến và nghiêm trọng. Thấy được bất cập đó, nên khi soạn thảo thơng qua BLHS năm
1999, nhà làm luật đã quy định cụ thể hơn hành vi cho vay lãi nặng để thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, cơ bản của cơng dân.
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X thơng qua tại kỳ họp thứ VI
ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000 bao gồm 24 chương với 344 điều với
nhiều sửa đổi, bổ sung trong đó có Tội cho vay lãi nặng. Từ khi ra đời, BLHS năm
1999 đã là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phịng ngừa tội
phạm, góp phần vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ lợi
ích Nhà nước, của tổ chức và cơng dân, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội cho vay lãi nặng tại Chương XVI
– Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Điều 163 BLHS năm 1999 quy
định “1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chun bóc lột, thì bị phạt tiền
từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số lợi bất
chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm”.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 163 thì một hành vi để được coi là phạm tội
cho vay lãi nặng khi thỏa mãn hai điều kiện sau:
- Hành vi cho vay với lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật
quy định từ mười lần trở lên.
Theo quy định tại Điều 473 BLDS năm 1995 quy định “Lãi suất cho vay do
các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân


17
hàng nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Như vậy hành vi cho vay
có bị coi là vượt quá 50% mức lãi suất cao nhất mà Ngân hàng nhà nước quy định
hay khơng thì phải căn cứ vào quy định của Ngân hàng nhà nước về lãi suất.
- Hành vi phải có tính chất chun bóc lột:
Hành vi cho vay với lãi suất cao hơn gấp 10 lần mức lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định chỉ bị coi là phạm tội cho vay lãi nặng khi hành vi đó có tính
chất chun bóc lột. Tính chất chun bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện
ở chỗ người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang
tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm nghề kiếm sống,
lấy việc thu lãi (nặng) làm nguồn thu thường xuyên của mình, thực chất, người
phạm tội thực hiện hành vi kinh doanh tiền tệ trái phép, lợi dụng việc cho vay thu
lãi để bóc lột người khác19.
So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 quy định về Tội cho vay lãi nặng
cụ thể và chặt chẽ hơn, có sự thay đổi về loại hình phạt, mức hình phạt, quy định
thêm hình phạt bổ sung cùng với việc bổ sung thêm tình tiết “thu lợi bất chính
lớn” làm tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 2 Điều 163. Đặc biệt, quy định của
Điều 163 BLHS năm 1999 đã miêu tả rõ hơn hành vi khách quan của Tội cho vay
lãi nặng “…Cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật
quy định từ mười lần trở lên và có tính chất chun bóc lột” việc miêu tả rõ hành
vi khách quan của tội phạm này thể hiện một bước tiến đáng kể trong việc xây
dựng quy định về tội phạm, nó khiến cho tội phạm được định hình rõ nét, tạo

thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tiễn, từ đó thể hiện sự quan tâm của nhà
nước đối với cá nhân hơn khi BLHS năm 1985 chỉ bảo vệ tài sản là công quỹ.
Điều này thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của nước ta và là cơ sở để xây
dựng BLHS năm 2015. Tuy nhiên, BLHS năm 1995 cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế
nhất định cụ thể:
Thứ nhất, Điều luật quy định mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định từ 10 lần trở lên thì bị coi là lãi nặng. Nếu mức lãi suất không
quá cao tức là chưa đến 10 lần trở lên mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định
thì hành vi đó khơng phải là tội phạm. Điều này dẫn đến một vấn đề là hành vi cho
vay với mức lãi suất lên đến 8, 9 lần mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định
Nguyễn Văn Hương (2004), “Tội cho vay lãi nặng - những bất cập của BLHS và giải pháp khắc phục” Tạp
chí Tịa án nhân dân (Số 19), tr.31-33.
19


18
với tính chất bóc lột người vay một cách chun nghiệp, thực hiện nhiều lần, cho
vay tài sản với giá trị rất lớn lên đến hàng trăm triệu đồng hoặc thực tế đã thu lợi bất
chính lớn cũng khơng bị coi là tội phạm20.
Thứ hai, Dấu hiệu “có tính chất chuyên bóc lột” dấu hiệu này chưa được
hướng dẫn cụ thể, có thể hiểu là “ Người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi
nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay
lãi nặng làm nghề kiếm sống, lấy việc thu lãi (nặng) làm nguồn thu thường xuyên
của mình, người phạm tội thực hiện hành vi kinh doanh tiền tệ trái phép, lợi dụng
việc cho vay thu lãi để bóc lột người khác”21, điều này dẫn đến trường hợp một
người cho người khác vay chỉ một lần với mức lãi suất rất cao, cao hơn vài chục lần
so với mức lãi suất do nhà nước quy định thì hành vi đó có được coi là “có tính chất
chun bóc lột” hay khơng.
Thứ ba, Dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn” quy định tại Khoản 2 Điều 163
BLHS năm 1999 như vậy việc thu lợi bất chính bao nhiêu thì được coi là thu lợi bất

chính lớn, vấn đề này hiện nay chưa được hướng dẫn cụ thể, thống nhất.
Thứ tư, Việc vay tài sản trên thực tế rất đa dạng, có thể là vay tiền, vàng hoặc
vay các tài sản khác nhưng lãi suất cho vay chỉ quy định lãi suất cho vay đối với tài
sản là tiền mà chưa quy định lãi suất vay đối với các tài sản khác như vàng,
lúa…dẫn đến các vụ việc cho vay với mức lãi suất rất cao mà đối tượng khơng phải
là tiền thì khơng được giải quyết.
Từ những hạn chế đó dẫn đến thực trạng là trong thời gian BLHS năm 1999
có hiệu lực pháp luật khơng có trường hợp nào bị xử lý về Tội cho vay lãi nặng
mà đa số các trường hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ xử lý các tội phạm liên
quan từ hoạt động cho vay như: Tội giết người, Tội bắt giữ người trái pháp luật,
Tội cướp tài sản, Tội gây rối trật tự cơng cộng, Tội cố ý gây thương tích, … tức là
xử lý các tội phạm phát sinh kèm theo, mà chưa đi vào bản chất vấn đề là xử lý
Tội cho vay lãi nặng. Cùng với đó là các đối tượng hoạt động tín dụng đen ln
tìm cách để vụ án được giải quyết bằng tranh chấp dân sự, người cho vay được
bảo vệ quyền lợi với tư cách là nguyên đơn. Những bất cập nêu trên đã làm giảm
tác dụng của cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về
Tội cho vay lãi nặng.
20
21

Nguyễn Văn Hương (2004), tlđd (19), tr.31.
Nguyễn Văn Hương (2004), tlđd (19), tr.33.


19
Mặc dù BLHS năm 1999 vẫn còn nhiều điểm hạn chế, thiếu sót nhưng so với
các BLHS trước đó thì BLHS năm 1999 đã có những tiến bộ rõ rệt như đã quy định
được lãi suất cho vay là bao nhiêu thì được coi là lãi nặng, căn cứ vào số tiền thu lợi
bất chính để xác định mức hình phạt tiền, làm tình tiết định khung tăng nặng, đây
cũng là cơ sở, là tiền đề cho việc sửa đổi BLHS sau này. Điều này chứng tỏ, chính

sách hình sự của Nhà nước trong giai đoạn này chú trọng đến việc bảo vệ đến mức
tối đa lợi ích của cơng dân, tổ chức khi mà trước kia tập trung bảo vệ lợi ích của
Nhà nước. Đồng thời cũng thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật hình sự về đấu
tranh, phòng, chống tội phạm trong giai đoạn này.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1.3.1. Các dấu hiệu pháp lý của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Dấu hiệu định tội là các dấu hiệu đặc trưng phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm
của tội phạm, dấu hiệu định tội là dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm cơ bản và cho
phép phân biệt tội phạm này với tội phạm khác22. Đó là các dấu hiệu được quy định
trong cấu thành tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể được quy định trong phần
các tội phạm cụ thể của BLHS. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là tội
phạm có cấu thành vật chất, bao gồm các dấu hiệu sau:
- Khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại23, khách thể của tội phạm là một
trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, bất kỳ hành vi phạm tội nào đều gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến khách thể là trật tự
quản lý kinh tế của nhà nước về hoạt động tín dụng, mà cụ thể là trật tự trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ; xâm phạm đến lợi ích tài chính của cơng dân.
“Có ý kiến cho rằng, ngồi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự còn bao gồm cả lĩnh vực kinh doanh khác như: cho thuê tài
sản (kể cả động sản và bất động sản), vì trên thực tế khơng chỉ cho vay tiền mà còn
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr.98.
23
Trường Đại học luật Hà Nội (2020), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB Cơng an nhân
dân, tr.102.
22



20
cho thuê, mượn tài sản với số tiền thuê rất cao và cũng có tính chất bóc lột, nếu chỉ
giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì chưa đáp ứng được tình hình, nhất là
trong nền kinh tế thị trường”24.
Ý kiến trên cũng khá hợp lý, tuy nhiên đối với Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự chỉ quy định hành vi cho vay mà không quy định hành vi “cho
thuê” mặc dù xét về bản chất hành vi cho vay cũng là hành vi cho thuê nhưng khác
nhau ở đối tượng đó là tiền, đồng thời việc cho thuê tài sản không chịu sự điều
chỉnh của BLDS về lãi suất mà chỉ có hành vi cho vay.
- Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc
tồn tại trong thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng hành động hoặc
không hành động; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ giữa hành vi và hậu
quả xảy ra; các điều kiện khác cần thiết cho việc thực hiện tội phạm như: Công cụ,
phương tiện thực hiện hành vi phạm tội…25. Trong mặt khách quan của tội phạm thì
hành vi khách quan là dấu hiệu cơ bản.
Hành vi khách quan của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được
quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015 đó là hành vi cho vay với lãi suất
gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS. Tuy nhiên, để
hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên đạt đến mức độ nguy hiểm đáng kể
cho xã hội và trở thành tội phạm thì phải đáp ứng điều kiện về số tiền thu lợi bất
chính là từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án
tích mà cịn vi phạm.
Đặc trưng trong Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là mức lãi suất
do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản. BLHS quy định dấu hiệu bắt buộc
để cấu thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là “Cho vay với lãi suất

gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự”. Để
làm rõ dấu hiệu này trong mặt khách quan của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự thì chúng ta phải làm rõ quy định của BLDS về lãi suất.
Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm (tập VI), Nxb. Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.210.
25
Trường Đại học luật Hà Nội (2020), tlđd (23), tr.102.
24


×