Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN: “Quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội. Vận dụng vào xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.93 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHIẾN
TRANH VÀ QUÂN ĐỘI.............................................................................................2
1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội..................2
1.3.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh.....................................2
1.3.1.1 Khái niệm chiến tranh......................................................................................2
1.3.1.2 Nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh...................................................2
1.3.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Quân đội.......................................5
1.3.2 1. Khái niệm quân đội.........................................................................................5
1.3.2.2. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của quân đội.............................................6
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI.................8
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh................................................................8
2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội..................................................................11
III. MỘT SỐ NỘI DUNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ HIỆN NAY...............14
3.1. Tăng cường giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng
sản Việt Nam cho quân đội ta....................................................................................14
3.2. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với quân đội...........................................................................................................15
3.3. Giữ vững mục tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN cho quân đội trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế...................................................16
3.4. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của hệ thống
tổ chức đảng trong quân đội; xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức......................................................................17
3.5. Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần bản chất phản
động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”................18
KẾT LUẬN.................................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................21




1
MỞ ĐẦU
Lịch sử hơn 91 năm dưới ánh sáng của Đảng, của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa Mác - Lênin cách mạng Việt Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác, có ý nghĩa to lớn khơng chỉ đối với cách mạng Việt Nam mà cịn có ý nghĩa to
lớn đối với cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh nghiên cứu và nắm vững tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội cùng với thực tiễn sinh động của
cách mạng thế giới, Người đã vạch trần bản chất, tính chất chính trị xã hội của cuộc
chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người làm rõ nguồn
gốc, bản chất của quân đội, từ đó Người cùng với Đảng ta sáng lập, rèn luyện, giáo dục
Quân đội nhân dân Việt Nam thành quân đội của dân, do dân, vì dân. Với tư tưởng cách
mạng và khoa học của Người và chủ nghĩa Mác - Lênin cuộc chiến tranh của nhân dân
Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh chính nghĩa, quân đội nhân dân Việt Nam là quân
đội kiểu mới của giai cấp vô sản thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng của Nhà
nước trong sự nghiệp chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Tuy nhiên, sau khi Liên xô và hệ thống XHCN ở Đông âu sụp đổ, chủ nghĩa xã
hội tạm thời lâm vào thối trào, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Với
bản chất hiếu chiến xâm lược và tham vọng sen đầm quốc tế, chủ nghĩa đế quốc mà
đứng đầu là đế quốc Mỹ luôn tìm mọi cách xố bỏ chế độ XHCN ở các nước cịn lại,
trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Nhân danh chống khủng bố, nhân đạo, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo và núp dưới danh nghĩa liên hiệp quốc, đế quốc Mỹ ln tìm
mọi cách quốc tế hố các cuộc chiến tranh nhằm che đậy bản chất xâm lược, hiếu
chiến của chúng, che đậy bản chất, tính chất phi nghĩa phản động của các cuộc chiến
tranh do Mỹ tiến hành, đồng thời chúng luôn xuyên tạc, phủ nhận vai trị chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về chiến tranh và quân đội.
Thật vậy, hơn lúc nào hết phải nghiên cứu, học tập, quán triệt nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội, làm cơ sở vạch
trần bản chất, âm mưu thủ đoạn của chúng. Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận tập trung đi

sâu phân tích một số nội dung về: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội. Vận dụng vào xây dựng Quân đội vững
mạnh về chính trị hiện nay”


2
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI.
1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội.
1.3.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh
1.3.1.1 Khái niệm chiến tranh

Quan điểm tôn giáo cho rằng: chiến tranh là sự trừng phạt của Chúa Trời đối với
loài người do mắc tội tổ tông. Chủ nghĩa Đácuyn xã hội quan niệm: chiến tranh là
hiện tượng thuộc bản chất sinh tồn của con người. Mantuýt quan niệm: chiến tranh là
hiện tượng để giải quyết nhân khẩu thừa;... Những quan điểm này đều giải thích chiến
tranh mang tính chất bản năng, duy tâm, thần bí.
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm: Chiến tranh là hiện tượng chính trị - xã hội
mang tính lịch sử, là hoạt động đấu tranh vũ trang giữa các tập đoàn người trong
một nước, hoặc giữa các nước nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định.
Trước hết, chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội, xuất hiện, vận động
theo những quy luật xã hội. Vì vậy, khi giải thích hiện tượng chiến tranh quy vào tính
bản năng sinh vật, phi xã hội, phi chính trị đều khơng tránh khỏi sai lầm.
So với các hiện tượng chính trị - xã hội khác, đặc trưng cơ bản của chiến tranh là
hành vi bạo lực vũ trang. Mục đích của chiến tranh là nhằm thực hiện mục đích chính
trị nhất định. Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc về mặt nhà nước, cho
nên chiến tranh bao giờ cũng gắn với một giai cấp, dân tộc, nhà nước cụ thể. Như vậy,
chiến tranh gồm hai mặt cơ bản là chính trị và đấu tranh vũ trang.
1.3.1.2 Nguồn gốc và nguyên nhân của chiến tranh

a. Nguồn gốc của chiến tranh
Nguồn gốc của chiến tranh là vấn đề cơ bản của mọi quan điểm khi giải thích
hiện tượng chiến tranh. Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc
của chiến tranh. Thế nhưng các quan điểm trước Mác - Lênin, không xuất phát từ
những mâu thuẫn của hiện thực xã hội để tìm nguồn gốc của chiến tranh mà xuất phát
từ lực lượng siêu nhiên, từ bản năng sinh học hoặc từ ý chí chủ quan của con người.
Với các cách giải thích này, chiến tranh là khơng tránh khỏi và khơng loại trừ được
đối với lồi người.


3
Trái với những quan điểm đó, chủ nghĩa Mác- Lênin tìm nguồn gốc chiến tranh
từ hiện thực xã hội, từ những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội. Chủ nghĩa MácLênin chỉ ra, nguồn gốc chiến tranh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và đối kháng
giai cấp khơng thể điều hồ. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì xuất
hiện giai cấp, đối kháng giai cấp là tất yếu.
Trước sự bóc lột của giai cấp thống trị, giai cấp bị trị không ngừng đấu tranh, lúc
ngấm ngầm, lúc công khai, nhưng xu thế chung là ngày càng quyết liệt. Trước sức
mạnh và sự phản kháng của giai cấp bị trị, giai cấp thống trị cũng dùng các thủ đoạn,
phương thức khác nhau và phương thức cuối cùng là dùng sức mạnh quân sự, sức
mạnh bạo lực để đàn áp. Giai cấp bị trị chỉ có thể đánh đổ giai cấp thống trị về mặt
nhà nước khi có lực lượng tiên tiến lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tạo nên
sức mạnh bạo lực cách mạng và tiến hành chiến tranh cách mạng giành chính quyền.
Ph.Ăngghen khẳng định, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện
và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời
và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hồn thiện thì
chiến tranh càng phát triển.
Lênin đã phát triển những luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến tranh
trong điều kiện lịch sử mới: trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc là còn
nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc.
Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản

xuất, có đối kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định
mệnh gắn liền với con người và xã hội loài người. Chiến tranh chỉ là hiện tượng xã
hội có tính lịch sử và sẽ mất đi khi tiền đề kinh tế, chính trị của nó khơng cịn. Muốn
loại bỏ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội, phải xoá bỏ chế độ tư hữu và đối kháng
giai cấp, xây dựng thành công chế độ công hữu và xã hội không giai cấp - chế độ
cộng sản chủ nghĩa.
b. Nguyên nhân của chiến tranh
Trong xã hội có chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, chiến tranh là tất yếu,
nhưng không phải lúc nào và ở đâu cũng có chiến tranh. Chiến tranh chỉ nổ ra trong
những điều kiện nhất định với những nguyên nhân cụ thể của nó.
Nguyên nhân của chiến tranh là sự tác động tổng hợp của các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan dẫn đến một cuộc chiến tranh cụ thể xuất hiện. Nguyên


4
nhân của chiến tranh được chia thành các cấp độ khác nhau, có nguyên nhân chung;
nguyên nhân đặc thù và nguyên nhân đơn nhất.
Nguyên nhân chung của chiến tranh phản ánh những mối liên hệ sâu sắc giữa
phương thức sản xuất bóc lột và những hiện tượng chính trị - xã hội do phương thức
sản xuất đó sinh ra dưới hình thức bạo lực vũ trang của giai cấp này sử dụng đối với
giai cấp khác. Phương thức sản xuất bóc lột chứa đựng mâu thuẫn đối kháng. Chiến
tranh biểu hiện sự gay gắt cực độ của các mâu thuẫn chính trị và đồng thời là phương
thức riêng để giải quyết mâu thuẫn đó. Sự bóc lột càng cao thì mâu thuẫn càng phát
triển, đồng thời đấu tranh giai cấp cũng khơng ngừng tăng. Để bảo vệ lợi ích của mình,
giai cấp thống trị, bóc lột sẵn sàng sử dụng công cụ bạo lực vũ trang để đàn áp sự phản
kháng của giai cấp bị trị. Từ đó, chiến tranh nổ ra.
Nguyên nhân đặc thù của chiến tranh là chính sách hiếu chiến, phản động của
những kẻ cầm đầu nhà nước phản động. Để đạt được tham vọng tột độ về lợi ích,
chúng sẵn sàng đàn áp bằng sức mạnh bạo lực ở bất cứ điều kiện nào. Trong quan hệ
giữa các quốc gia, dân tộc, giai cấp thống trị bóc lột ln tham vọng mở rộng bóc lột

ra nước ngồi. Những kẻ hiếu chiến ln tìm mọi cách xâm lược bằng phát động
chiến tranh.
Nguyên nhân đơn nhất là những tác động có tính đột biến, tức thì từ những nhân
tố như: tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức, diễn biến không chuẩn xác của
các thông tin và phương tiện tiến hành chiến tranh,... trong những tình huống nhất
định. Ngun nhân đơn nhất khơng mang tính phổ biến như những ngun nhân khác,
nhưng nó khơng biệt lập với các nguyên nhân khác mà là kết quả vận động tổng hợp
các nguyên nhân chung, nguyên nhân đặc thù đến trình độ nhất định và trong bối cảnh
cụ thể nó có thể xuất hiện.
Sự vận động tổng hợp các nguyên nhân chung, nguyên nhân đặc thù tạo nên
trạng thái căng thẳng giữa hai bên chuẩn bị chiến tranh đến mức đã sẵn sàng, chỉ cần
một tác động nhỏ nào đó thì chiến tranh sẽ nổ ra.
Ngun nhân đơn nhất xuất hiện và biểu hiện rất đa dạng. Bởi vì sự chuẩn bị tiến
hành chiến tranh của hai bên tham chiến đã đầy đủ, quan hệ trở nên căng thẳng thì rất
nhiều tình huống và nhân tố tác động cho xuất hiện nguyên nhân đơn nhất. Nguyên
nhân đơn nhất rất khó kiểm duyệt và đốn định. Trong bối cảnh chuẩn bị chiến tranh


5
chống xâm lược mà không muốn hay chưa muốn nổ ra ngay thì hạn chế xuất hiện
nguyên nhân đơn nhất là rất cần thiết có ý nghĩa rất lớn.
Nhận thức về nguyên nhân của chiến tranh cần phân biệt giữa nguyên nhân và
nguyên cớ. Nguyên cớ của chiến tranh là tác động của các nhân tố từ những mối liên
hệ bên ngoài, nhưng nằm trong ý đồ chủ quan của bên gây chiến. Khi bên gây chiến
đã chuẩn bị kỹ cho phát động chiến tranh, nhưng chưa có lý do, chúng thường viện ra
một cớ nào đó để dọn đường dư luận, phát động chiến tranh.
Hiện nay, với tham vọng về địa vị và lợi ích có tính tồn cầu của chủ nghĩa đế
quốc, các nguyên nhân chiến tranh vận động rất phức tạp. Nhận thức tính chất phức
tạp của nguyên nhân chiến tranh hiện nay là cơ sở chuẩn bị về tư tưởng để không bị
bất ngờ khi chiến tranh xảy ra.

1.3.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Quân đội
1.3.2 1. Khái niệm quân đội.

Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Qn đội là một tập đồn người vũ trang có tổ chức, do
nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn cơng hoặc chiến tranh
phịng ngự". Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam viết: "Quân đội, tổ chức vũ trang
chuyên nghiệp do một tập đoàn nhà nước, tập đồn chính trị hoặc phong trào chính trị
làm chức năng nhà nước xây dựng để tiến hành đấu tranh vũ trang nhằm thực hiện
mục đích chính trị của nhà nước, tập đồn hay phong trào đó".
Trước hết, qn đội là một tổ chức vũ trang chuyên nghiệp, một tổ chức xã hội
đặc thù. Quân đội bao gồm những người có vũ trang, được tổ chức chặt chẽ; có cơ
cấu biên chế đặc biệt phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và thực hiện chức
năng bằng các vũ khí chuyên dùng. Đây là đặc trưng cơ bản của quân đội để phân biệt
tổ chức quân đội với các tổ chức xã hội khác và tổ chức vũ trang trong xã hội cộng
sản nguyên thuỷ.
Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của một giai cấp, nhà nước nhất định.
Quân đội mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong những điều kiện cụ thể, quân
đội là công cụ bạo lực vũ trang của một tập đồn chính trị đại diện cho một giai cấp
nhất định, đang có chức năng như nhà nước.
Ba đặc trưng cơ bản trên của quân đội có quan hệ biện chứng với nhau, phản ánh các
mối liên hệ tất yếu của một tổ chức đặc thù trong xã hội có giai cấp và nhà nước.


6
1.3.2.2. Nguồn gốc, bản chất, chức năng của quân đội

a. Nguồn gốc của quân đội
Trong lịch sử đã xuất hiện một số quan điểm khác nhau về nguồn gốc của quân
đội. Trên lập trường duy tâm, các nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến thời kỳ trung
đại quan niệm quân đội do Chúa Trời sinh ra để giành hoà bình và cơng bằng cho Cơ

Đốc giáo, bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến và nhà thờ.
Các nhà tư tưởng tư sản khi bàn về nguồn gốc của quân đội đã coi quân đội là
sản phẩm tất yếu, tự nhiên thuần tuý và tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử. Do ảnh hưởng
của thế giới quan duy tâm, phương pháp siêu hình và lợi ích giai cấp nên họ đã giải
thích sai lầm, phiến diện nguồn gốc của quân đội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời, vấn đề nguồn gốc của quân đội mới được xem xét,
luận giải một cách khoa học trên cơ sở các quan hệ kinh tế và giai cấp của xã hội. Đi
từ các quan hệ kinh tế - xã hội hiện thực, quan điểm mácxít cho rằng, qn đội có
nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp.
Trong đó, chế độ tư hữu là nguồn gốc kinh tế - nguồn gốc sâu xa, đối kháng giai cấp
là nguồn gốc xã hội - nguồn gốc trực tiếp của quân đội.
Chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp trong xã hội là nguồn gốc khách quan đưa tới
sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Để bảo vệ lợi ích của mình, đàn áp quần chúng
nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra quân đội. V.I. Lênin chỉ rõ: “Quân đội
chính là cơng cụ bạo lực chủ yếu của quyền lực nhà nước”. Từ khi xuất hiện bộ máy
cường bức đặc biệt là nhà nước, quân đội thực sự trở thành công cụ bạo lực để nhà nước
đàn áp nhân dân lao động, duy trì lợi ích của giai cấp thống trị trong nước; bảo vệ lãnh
thổ của nhà nước đó khỏi sự xâm lược từ bên ngồi và đi xâm chiếm các nước khác để
mở rộng lãnh thổ, áp đặt ách nô dịch đối với các dân tộc khác.
Như vậy, quân đội là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện, tồn tại gắn liền với
chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp và sẽ mất đi khi khơng cịn chế độ tư hữu và đối
kháng giai cấp.
b. Bản chất của quân đội
Các nhà lý luận ngoài Mácxít ln tìm cách che đậy và xun tạc bản chất vốn
có của quân đội, phủ nhận bản chất giai cấp của quân đội, cho quân đội là lực lượng
siêu giai cấp, của mọi giai cấp hoặc của toàn dân tộc. Họ tìm mọi cách xố nhồ sự


7
khác biệt về bản chất giữa quân đội tư sản với quân đội xã hội chủ nghĩa, hòng lừa bịp

nhân dân và binh lính trong quân đội của họ.
Với phương pháp tiếp cận khoa học trên lập trường duy vật biện chứng, chủ
nghĩa Mác - Lênin khắng định: bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một
giai cấp, một nhà nước nhất định nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp và nhà nước tổ
chức, ni dưỡng nó. Quân đội mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Vấn đề này đã được V.I. Lênin khẳng định: "Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ,
quân đội mới là cơng cụ đàn áp. Nó vẫn là cơng cụ đàn áp trong tất cả các chính thế cộng
hồ tư sản, kể cả những chính thể cộng hồ dân chủ nhất" Với tính cách là một hiện tượng
chính trị - xã hội, bất cứ quân đội nào trong lịch sử cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Yếu tố quyết định bản chất giai cấp của một quân đội là ở chỗ, qn đội đó là chỗ dựa của
chế độ chính trị xã hội nào; hoạt động của nó bảo vệ lợi ích của giai cấp nào và qn đội
đó mang bản chất giai cấp nào. Bản chất giai cấp của qn đội cịn được thể hiện trong q
trình xây dựng và tổ chức quân đội. Giai cấp thống trị bảo đảm sự vững mạnh, về chính trị
của quân đội, bảo đảm phương hướng phát triển và hoạt động của quân đội phù hợp với lợi
ích của mình.
Trong lịch sử chưa có một qn đội nào chiến đấu vì lợi ích chung của tất cả các
giai cấp, vì nó là cơng cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định.
Để giữ vững phương hướng chính trị và tăng cường bản chất giai cấp cho quân đội,
giai cấp thống trị tiến hành truyền bá hệ tư tưởng của nó cho quân đội bằng hệ thống
giáo dục về tư tưởng cho binh lính; thực hiện triệt để đường lối tổ chức, phương
hướng hoạt động và kiểm soát mọi hoạt động của quân đội.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của qn đội ln gắn với vai trị của giai cấp và
nhà nước. Bản chất giai cấp của quân đội được biểu hiện vai trò quyết định của giai
cấp, nhà nước đối với quân đội về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Về chính trị, giai
cấp và nhà nước quyết định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; đến các chức năng, nhiệm
vụ cơ bản của quân đội. Đồng thời, hệ tư tưởng của giai cấp đó ln giữ vai trị thống
trị đối với qn đội, chi phối đến đời sống tinh thần của quân đội. Về tổ chức, giai cấp
và nhà nước quyết định đường lối, nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội; quyết định
cơ chế lãnh đạo, thành phần chỉ huy và binh lính tham gia trong quân đội.
c. Chức năng của quân đội



8
Bản chất giai cấp và vai trò của quân đội trong một hệ thống chính trị - xã hội
cịn được biểu hiện trực tiếp ở chức năng của nó. Chức năng của quân đội là dùng bạo
lực vũ trang, kể cả tiến hành chiến tranh để bảo vệ lợi ích căn bản của giai cấp, nhà
nước tổ chức ra nó.
Mỗi quân đội có hai chức năng cụ thể là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Tuỳ theo mục đích chính trị, tính chất nhiệm vụ, khả năng và điều kiện thực hiện cũng
như quan điểm và phương hướng sử dụng công cụ bạo lực của giai cấp, nhà nước nhất
định mà dẫn đến biếu hiện chức năng của mỗi quân đội cụ thể có sự khác nhau.
Quân đội của các giai cấp, nhà nước bóc lột, về đối nội là công cụ bạo lực để đàn
áp sự phản kháng của nhân dân và phong trào cách mạng trong nước, bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị. Về đối ngoại, quân đội là công cụ tiến hành chiến tranh xâm
lược các nước khác nhằm mở rộng quyền thống trị của giai cấp thống trị ra ngoài biên
giới quốc gia, chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc,
thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, chức năng đối nội là công cụ bạo lực vũ
trang của giai cấp cơng nhân và nhà nước chun chính vô sản để đè bẹp sự phản
kháng của các thế lực thù địch, bảo vệ nền chun chính vơ sản, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, về đối ngoại, quân đội xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo vệ Tổ quốc, sẵn
sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù bên ngoài, làm nghĩa vụ quốc tế nhằm
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Như vậy, bất cứ qn đội nào cũng có hai chức năng là đối nội và đối ngoại. Hai
chức năng của quân đội có quan hệ biện chứng với nhau. Song, tuỳ theo đường lối
chính trị của giai cấp, nhà nước và trong hoàn cảnh cụ thể mà các chức năng đó được
biếu hiện và thực thi khác nhau, đồng thời ln có sự vận động, biến đổi.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI
2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh.


Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã luận giải một cách
đúng đắn khoa học về bản chất, quy luật của chiến tranh và sự tác động của nó đến
đời sống xã hội. Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, của bọn đế quốc thực dân,
Hồ Chí Minh thấy rằng: ở đâu dù chính quốc hay thuộc địa thì giai cấp tư sản với mọi
âm mưu thủ đoạn xảo trá, chúng bóc lột, hà hiếp quần chúng nhân dân lao động nhằm


9
vơ vét cho lợi ích của chúng. Chính sự phát hiện này, Hồ Chí Minh đã ví: "Chủ nghĩa
đế quốc như con đỉa có hai cái vịi, một cái vịi bám vào giai cấp cơng nhân ở chính
quốc, một vịi bám vào thuộc địa, muốn giết con vật này phải đồng thời cắt cả hai cái
vịi của nó". Rõ ràng sự ăn bám này đã dẫn đến giai cấp vô sản, quần chúng nhân dân
lao động ngày càng bần cùng, cuộc sống khổ sở, bị chúng trà đạp lên phẩm giá con
người. Với bản chất của chúng như vậy, Hồ Chí Minh đi đến kết luận: "Ngày nào cịn
bọn đế quốc thì nguy cơ chiến tranh vẫn cịn". Khi phân tích và luận giải, Hồ Chí
Minh đã vạch trần bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa. Người phê phán,
vạch mặt cái gọi là khai hoá văn minh của thực dân Pháp, thực chất là sự bóc lột, đầu
độc, dùng chính sách ngu dân.
Người phân tích và vạch mặt cuộc chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của Mỹ ở Đơng
Dương. Với bản chất thống trị bóc lột, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức
đàn áp đồng bào Miền Nam, chúng dựng nên chính phủ bù nhìn để đàn áp, bắn giết vơ cớ
đồng bào Miền Nam chúng muốn áp đặt nền văn minh kiểu Mỹ đối với Việt Nam, làm cho
nhân dân ta sống trong nỗi khổ cực. Người chỉ rõ: "Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc
Mỹ ra khỏi Miền Nam nước ta chưa giải phóng được ách thống trị tàn bạo của Mỹ diệm
thì nhân dân ta chưa thể ăn ngon ngủ yên được".
Mặt khác, nghiên cứu quá trình tiến hành chiến tranh, Hồ Chí Minh khẳng định quy
luật của chiến tranh là mạnh được yếu thua. Song, mạnh ở đây theo Người phải đánh giá
đầy đủ, toàn diện trên tất cả các mặt, và luôn quan tâm đến sự chuyển hoá trong sức
mạnh để tiến hành chiến tranh, đặc biệt là sự chuyển hoá giữa thế, thời và lực; chỉ ra mối
liên hệ giữa thế, thời, lực và khái qt thành những vấn đề có tính quy luật. Sự khái quát

trong bài thơ "Học đánh cờ" thể hiện tư tưởng quân sự của Người về tính kiên quyết,
quyết đốn, chọn thời cờ: "Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ. Kiên quyết không ngừng thế
tiến công. Lạc nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công. Vốn trước
hai bên ngang thế lực. Mà sau thắng lợi một bên giành. Tấn cơng phịng thủ khơng sơ
hở. Đại tướng anh hùng mới xứng danh".
Từ đặc điểm, điều kiện và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, với tầm
nhìn chiến lược và sự sáng tạo, Hồ Chí Minh khẳng định chiến tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân. Đây là một trong những di sản quý báu
của Người và được thể hiện sâu sắc trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.


10
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".
Mặt khác, cuộc chiến tranh nhân dân theo tư tưởng của Người không chỉ riêng về mặt
quân sự mà bao gồm tất cả các lĩnh vực khác. Người chỉ rõ: "Nhưng chiến tranh ngày nay,
không những riêng về mặt quân sự mà bao gồm cả chính trị, kinh tế, ngoại giao".
Tư tưởng về chiến tranh nhân dân Người còn thể hiện rõ trong thư kêu gọi tổng
khởi nghĩa: "Hiện nay quân Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước
Việt Nam độc lập đồng minh (việt minh), có hàng chục triệu đội viên gồm đủ các tầng
lớp sĩ, nông, công, thương, binh; gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán.
Trong việt minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ không phân việt trai, gái, già, trẻ,
lương, giáo, giàu nghèo". Điều này càng thể hiện rõ tính chất, đặc điểm, lực lượng và
sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
Người còn khẳng định vai trị nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh nhân
dân, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng; mỗi khi được giáo dục, được giác ngộ, toàn dân
nhất tề đứng lên giết giặc thì khơng có thế lực nào ngăn cản được: "Mặc dù quân Pháp
có đủ khí giới tối tân, tơi biết chắc chúng khơng bao giờ cướp được nước chúng ta đâu.

Từ Nam chí Bắc đồng bào ta luôn luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết tâm
đánh tan quân cướp nước. Không quân đội nào, khơng khí giới nào có thể đánh giá
được tinh thần hy sinh của toàn thể dân tộc". Như vậy, cho dù khó khăn nhưng với ý
chí quyết tâm cao, đồn kết chặt chẽ, đồng sức đồng lịng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn,
điều đó thể hiện sự chuyển hoá yếu tố tinh thần thành sức mạnh vật chất. Do vậy, theo
Hồ Chí Minh, muốn cuộc chiến tranh giành thắng lợi trước hết phải lấy được lòng dân,
tập hợp được lực lượng, xây dựng được ý chí quyết tâm, tinh thần quả cảm, sẵn sàng hy
sinh vì sự nghiệp cách mạng. Người còn khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự
cường của nhân dân ta: "Dân ta có một lịng nồng nàn u nước, đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiẻm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và bè lũ cướp nước".
Như vậy, trên lập trường duy vật biện chứng và sự nhạy bén sáng tạo trong hoạt
động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm rõ bản chất, quy luật của chiến tranh,
chỉ ra tính chất xã hội của chiến tranh; đặc biệt là tư tưởng về chiến tranh nhân dân -


11
một trong những di sản quý báu của Người. Khi đề cập đến chiến tranh, chính những
tư tưởng cách mạng và khoa học cùng với thiên tài thao lược, Hồ Chí Minh cùng tồn
Đảng, tồn dân và tồn qn đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân giành độc lập tự
do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc ta.
2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội
Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu lịch sử, là vấn đề
có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trên cơ sở
nghiên cứu và nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững đặc điểm xã hội và
điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định: Để xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, từ lực lượng
chính trị mà phát triển thành lực lượng quân sự, từ đấu tranh chính trị mà chuyển

thành đấu tranh quân sự.
Mặt khác, Hồ Chí Minh đi sâu phân tích bản chất của chủ nghĩa thực dân và
Người sớm chỉ ra rằng: Chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực
của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Sức mạnh vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng sức mạnh
vật chất. Vì vậy, đối với các dân tộc thuộc địa, muốn chiến thắng kẻ thù hung bạo,
khơng có sự lựa chọn nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.
Theo Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do bản chất và âm
mưu của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi: Đế quốc có chết thì chết, nết khơng chừa.
Cho nên giành được chính quyền đồng thời phải giữ chính quyền, giành được độc lập
dân tộc phải luôn cảnh giác để giữ vững nền độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, cho nên qn đội ln là nịng cốt
trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh: xây dựng quân đội
- một vấn đề có tính quy luật là phải xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải
phóng. Muốn giải phóng được thì phải có lực lượng qn sự. Muốn có lực lượng
qn sự thì phải có tổ chức…”. Quân đội nhân dân Việt Nam được ra đời từ nhu cầu
giải phóng dân tộc gắn liền với nhu cầu giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao


12
động. Là quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, do Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tổ chức ra, xây dựng nên nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, nhân
dân lao động và những thành quả của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh vạch rõ bản chất của quân đội là công cụ bạo lực của một giai cấp,
Nhà nước nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp, nhà nước. Người khẳng định:
"Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Do vậy, quân đội nhân dân Việt Nam là

công cụ bạo lực sắc bén của nhà nước Việt Nam XHCN.
Hồ Chí Minh ln coi trọng giáo dục, ni dưỡng, xây dựng phẩm chất chính trị và
coi đó là cơ sở để xây dựng đội quân cách mạng. Người đã nêu khái quát những phẩm chất
của quân đội ta. Người viết: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ
hết lịng của nhân dân, trải qua 14 năm phấn đấu, quân đội ta đã hồn thành nhiệm vụ mà
Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với
Đảng với nhân dân, chiến đấu anh dũng, cơng tác và lao động tích cực; tiết kiệm,cần cù,
khiêm tốn, giản dị; đoàn kết nội bộ; đồng cam cộng khổ với nhân dân, luôn luôn sẵn sàng
khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ". Như vậy, bản chất giai cấp cơng nhân liên hệ
mật thiết với tính nhân dân, đây là điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người
khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó là một cống hiến
lớn của Hồ Chí Minh trong sự phát triển lý luận về quân đội.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu là đặc trưng nổi bật của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta tổ chức và lãnh đạo, có mục tiêu chiến đấu phù hợp với khát vọng tự do và mưu cầu
hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân và các dân tộc Việt Nam. Do đó, q trình ra
đời và trưởng thành của quân đội ta đã thu hút rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tự
nguyện đóng góp sức người sức của để xây dựng quân đội. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội". Bởi vậy, Người luôn coi trọng giáo dục
xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân, bảo đảm cho quân đội
luôn tận tậm tận lực phụng sự nhân dân, vì nhân dân qn mình. Người cịn nhắc nhở:
lực lượng vũ trang phải giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân, đồng thời
phải biết dựa chắc vào nhân dân thì mới hoàn thành được nhiệm vụ. Người dạy: "Bất
kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám lấy dân, rời


13
dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân
mến, dân u. Như vậy bất kỳ việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi".
Theo Hồ Chí Minh: "Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột

thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ
tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngồi lợi ích của nhân dân, qn đội ta khơng có lợi
ích nào khác". Người luôn nhắc nhở quân đội ta phải biết rằng tồn bộ cơm ăn, áo
mặc, vũ khí của qn đội đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân. Tuy nhiên hiện nay
cơ cấu xã hội giai cấp có nhiều thay đổi lực lượng tham gia nghĩa vụ quân sự với mọi
thành phần giai tầng khác nhau hết sức phức tạp điều quan trọng là đặc biệt chú ý là
phải giáo dục bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân cho quân đội, để bảo đảm
cho quân đội thực sự từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu.
Quân đội của dân, vì dân theo Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở thái độ và tinh thần
phục vụ nhân dân. Người nói: Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân
mà chiến đấu, yêu nước yêu dân cho nên hy sinh kham khổ. Người ln nhắc nhở:
Mình đánh giặc là vì dân nhưng mình khơng phải là "cứu tinh" của nhân dân mà mình
có trách nhiệm phụng sự nhân dân cho nên Người luôn khuyên bảo căn dặn cán bộ,
chiến sĩ dù ở cương vị nào đều phải cố gắng tận tuỵ trung thành với nhân dân, phải
biết kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân, biết dựa chắc vào dân đồng thời
phải giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân cùng với nhân dân chiến đấu và
sản xuất thắng lợi.
Để qn đội ln hồn thành tốt nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó, Hồ Chí
Minh khẳng định Đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp mọi mặt đối với quân đội, bảo đảm
cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng với mục tiêu lý tưởng cách mạng, sự lãnh
đạo tuyệt đối trực tiếp mọi mặt của Đảng đối với quân đội là đặc trưng cơ bản nhất của
quân đội cách mạng. Quân đội nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo của Đảng là nguyên
tắc cao nhất, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Người khẳng định: "Quân đội ta có sức mạnh vơ địch và nó là qn đội nhân dân do
Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qn đội
khơng có mục tiêu chiến đấu nào khác ngồi mục tiêu cách mạng, trong đường lối chính
trị, đường lối quân sự do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân xác định. Nhờ vậy, từ
khi ra đời đến nay quân đội ta luôn giành được những thắng lợi to lớn .



14
*Tóm lại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận dụng,
phát triển sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh và quân
đội vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời thể hiện sự kế thừa và
phát triển những kinh nghiệm truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
lên tầm cao mới.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
3.1. Tăng cường giáo dục giác ngộ bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng
sản Việt Nam cho quân đội ta.

Đây là giải pháp cốt lõi thể hiện nội dung mối quan hệ bản chất chính trị - giai
cấp giữa Đảng, Nhà nước với Quân đội ta là một chỉnh thể thống nhất cùng tồn tại,
vận động và phát triển theo tiến trình cách mạng từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời cho đến nay.
Trên cơ sở khẳng định bản chất chính trị - giai cấp của quân đội; vai trị của nhân tố
chính trị tinh thần trong chiến tranh và trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, các nhà lý
luận mácxít đã giải quyết thành cơng nhiều vấn đề trong cách mạng vô sản; chỉ ra những
nguyên lý cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Từ cơ sở logic
khoa học của Học thuyết Mác - Lênin về Quân đội, Đảng ta tổ chức, lãnh đạo, giáo dục
và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam là của giai cấp công nhân Việt Nam tất yếu
phải mang bản chất cách mạng sâu sắc; từ đó, cần đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội về
chính trị, nhất là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, cói đó là vấn đề
sống cịn của qn đội cách mạng; là nguyên lý hết sức cơ bản hàng đầu trong xây dựng
quân đội ta.
Mục tiêu xây dựng quân đội ta về chính trị là nhằm làm cho quân đội "Trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến dấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,, kẻ thù nào
cũng đánh thắng". Như vậy, xây dựng Quân đội nhân dận Việt Nam về chính trị là giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của qn

đội. Qn triệt và cụ thể hóa đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản
Việt Nam vào xây dựng quân đội; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội. Trên cơ sở đó, đảm bảo cho quân đội ta luôn là đội quân cách


15
mạng, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành với Đảng, Nhà nước, với dân tộc và nhân
dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội cần phải chú ý đến
tính đồng bộ và sự thống nhất lợi ích căn bản của nhân dân, dân tộc với
3.2. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội.
Đây là giải pháp giữ vị trí, vai trị nền tảng gốc quyết định đến “chất” của quân
đội cách mạng trong xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân
đội nhân dân việt Nam là nguyên tắc, quy luật cơ bản trong xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sự lãnh đạo của Đảng với quân đội
được thể hiện ở cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, đường lối của Đảng, cũng như ở Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nưóc; ở điều lệnh, điều lệ của quân đội. Sự lãnh đạo đó được,
thể hiện thơng qua cơ chế lãnh đạo bao gồm: hệ thống tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy,
hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị, các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở
và các nguyên tắc quy chế cụ thể trong lãnh đạo. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ được giao “phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
Quân đội nhân dân”.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thực chất là giữ vững
và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội; là làm cho quân đội quán triệt
sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, quan điểm, đường lối quân sự của Đảng vào quân đội; là tập trung nâng cao sức
mạnh về chính trị, tinh thần, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của

quân đội. Đảm bảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với quân đội. Quân đội tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng.
Vấn đề then chốt nhất để đảm bảo thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên là phải xây
dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, thống nhất và có sức chiến đấu cao.
Xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh, có trình độ trí tuệ, năng lực lãnh
đạo tồn diện, góp phần cụ thể hóa đường lối của Đảng, nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội. Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; kiên định mục


16
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tăng cường đồn kết nội bộ, khơng để
các thế lực thù địch thâm nhập, móc nối, phá hoại,... đang là vấn đề cấp bách đặt ra để
đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đôi tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Đồng thời,
cần thấy đựợc đây là nguyên tắc hàng đầu, có ý nghĩa quyết định quá trình xây dựng
qn đội ta vững mạnh về chính trị hiện nay.
3.3. Giữ vững mục tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN cho quân đội trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Đây là giải pháp có tính ngun tắc tạo nên nhân tố cơ bản để nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Quân đội ta là công cụ bạo lực vũ trang, cũng có nghĩa là cơng cụ chính trị sắc
bén của Đảng và Nhà nước, vì vậy, chỉ có trên cơ sở vững mạnh về chính trị làm nền
tảng và kết hợp chặt chẽ với các yếu tố khác thì qn đội mới đủ sức hồn thành mọi
nhiệm vụ được giao.
Sự ổn định chính trị của quân đội góp phần ổn định chính trị của đất nước. Giữ
vững bản chất chính trị, bản chất cách mạng của quân đội chính là giữ vững mục tiêu
chiến đấu, lí tưởng XHCN. Bản chất chính trị, bản chất cách mạng của quân đội là
“gốc” của Quân đội ta - quân đội mang bản chất giai cấp cơng nhân, thống nhất với
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta cũng là mục
tiêu chiến đấu của Đảng. Vì vậy, chỉ trên cơ sở giữ vững bản chất chính trị, bản chất

cách mạng của quân đội thì mới giữ vững mục tiêu chiến đấu, lí tưởng XHCN.
Ngày nay, trong bối cảnh tồn cầu hố, trong điều kiện hội nhập, nước ta thực
hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, những tác động tích cực, tiêu cực
đan xen. Vì vậy sự thử thách “vàng-lửa” đối với đội ngũ cán bộ trong quân đội diễn ra
gay gắt. Bên cạnh đó, kẻ thù ln chống phá quyết liệt cách mạng nước ta và chúng
rất coi trọng việc lơi kéo, làm tha hóa đội ngũ cán bộ của Đảng; việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa cho quân đội là một yêu cầu bức thiết đối với sự nghiệp xây
dựng quân đội.
Chúng ta cần coi trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là vấn đề cơ bản, xuyên suốt nhằm
xây dựng lập trường giai cấp, nâng cao bản lĩnh chính trị cho bộ đội và là cơ sở để xây
dựng các nhân tố khác. Giáo dục bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN mà Đảng và nhân


17
dân ta đang xây dựng. Tiếp tục giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
quân đội và nhân dân ta, đi đôi với chăm lo xây dựng quân đội trên các mặt khác nhằm
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ Quân đội lần thứ X đã khái quát: “…tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Phát
huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”. Những yếu tố trên là
điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” tỏa
sáng trong lòng nhân dân.
Thường xuyên bồi dưỡng lịng căm thù địch và tình u đối với Tổ quốc, với chế
độ, với nhân dân. Nếu không căm thù địch thì khơng bao giờ có lịng u nước nồng
nàn và thương yêu tha thiết chế độ. Có tư duy thực tiễn sắc sảo để nhận rõ kẻ thù của
cách mạng Việt Nam, đối tượng tác chiến của quân đội, đồng thời phân tích rõ bản chất
quân đội nhà nghề của chủ nghĩa tư bản để bộ đội có nhận thức và hành động đúng đắn,
nhất là trong điều kiện quân đội ta tham gia làm nhiệm vụ quốc tế.
3.4. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của hệ thống tổ

chức đảng trong quân đội; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.

Đây là giải pháp then chốt, vận dụng quan điểm tồn diện trong xây dựng qn
đội, đặt ra mục đích, yêu cầu và tiêu chí xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân
đội; xây dựng quân đội ta hiện nay khơng chỉ tinh nhuệ về qn sự mà cịn phải tinh
nhuệ cả về chính trị trước những điều kiện, hoàn cảnh biến động của khu vực và thế
giới hiện nay.
Trong quân đội ta, từ trước tới nay, dù trong hồn cảnh chiến tranh hay hịa bình; xây
dựng, chiến đấu hay công tác, bất kể trong thời kỳ nào, đều xác định rõ công tác xây dựng
Đảng luôn là nhiệm vụ trung tâm, then chốt, tác động chí phối, đến các mặt công tác, các
lĩnh vực hoạt động của quân đội. Những năm vừa qua, việc quán triệt và thực hiện Nghị
quyết Trung ương về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, từ Quân ủy Trung ương đến các tổ chức
đảng, các ngành, các cấp trong quân đội đã tích cực triển khai, thực hỉện và đã đạt được
những kết quả tích cực. Mặt khác, trong q trình xây dựng và thực hiện chức năng lãnh
đạo của các tổ chức đảng trong qn đội cũng cịn bộc lộ những thiếu sót, khuyết điểm.
Những khuyết điểm, thiếu sót này trong các cấp bộ đảng, các tổ chức đảng có mức độ


18
khác nhau, nhưng là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cảa các tổ chức đảng.
Để thực hiện được yêu cầu trên, phải triển khai xây dựng đồng bộ, tồn diện cả
chính trị tư tưởng và tổ chức, trước mắt cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
thường xuyên nắm chắc việc xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên kết hợp
với xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong
thời kỳ mới. Tập trung thực hiện và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong quân
đội, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm
chỉnh chấp hành nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; thực hiện
nghiêm túc, thành nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ Quân đội.

Kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng buông lỏng xây dựng tổ chức đảng, hoặc
không gắn việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện. Đồng thời, chống mọi hiện tượng tiêu cực tập thể, sự suy thoái về phẩm
chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, chỉ huy các cấp; hết sức tránh mọi biểu hiện hạ thấp
vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chi bộ, đảng bộ đối với đơn vị.
3.5. Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận, vạch trần bản chất phản
động chính trị, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa qn đội”.

Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa qn đội”, kẻ thù rất coi trọng phá hoại ta
trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận. Mục tiêu của kẻ thù phá hoại ta trên lĩnh vực này là phủ
nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân
đội kiểu mới, về bản chất cách mạng, mục tiêu, lí tưởng chiến đấu cao cả của quân đội
ta và gieo rắc, truyền bá các quan điểm tư sản sai trái phản động về “quân đội trung
lập”, “quân đội phi giai cấp”, làm cơ sở biện minh cho việc tước bỏ sự lãnh đạo của
Đảng ta đối với quân đội, gây tâm lí hoang mang, dao động trong cán bộ, chiến sĩ. Âm
mưu tạo ra những yếu tố làm mất ổn định trong quân đội tiến tới làm suy yếu về chính
trị, vơ hiệu hóa qn đội.
Do vậy, đấu tranh với các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lí luận chống
âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” có tầm quan trọng đặc biệt và là mặt trận xung
yếu, nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay.
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận chống âm mưu
“phi chính trị hóa quân đội” hiện nay là: cùng với việc đấu tranh trên lĩnh vực tư


19
tưởng, văn hóa nói chung của tồn Đảng, qn đội ta phải hết sức coi trọng, góp phần
đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng quân đội kiểu mới; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng vạch
trần bản chất phản động chính trị, phản động khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa
qn đội”. Những luận điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vơ căn

cứ, phản khoa học cả về lí luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về
chính trị; thực chất là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta, hịng
chuyển hóa lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận, cần tiếp tục khẳng định:
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta, được Đảng và Bác Hồ tổ chức và lãnh đạo. Quân đội ta khơng có mục tiêu chiến
đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc, no ấm cho
quãng đại quần chúng nhân dân lao động và của cả dân tộc, đó cũng là mục tiêu chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tiến hành đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lí luận chống âm mưu “phi chính
trị hóa qn đội” có hiệu quả, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tích cực đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng; chú trọng và
thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lí luận trong qn đội có đủ
phẩm chất, năng lực, nhanh nhạy, sắc bén trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh với kẻ thù trên mặt trận tư tưởng,
lí luận. Cơng tác tư tưởng phải góp phần đắc lực trong việc xây dựng, nâng cao bản
lĩnh chính trị cho bộ đội ở mọi lúc, mọi nơi, làm cho họ đủ sức “đề kháng” và tự
“miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội trong điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng có một tác phẩm chun biệt nào về
chiến tranh và quân đội, nhưng trong những bài viết, bài nói của Người đã thể hiện
một cách tương đối đầy đủ và sâu sắc những tư tưởng cơ bản về chiến tranh và quân
đội đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó chính là cơ sở lý luận quan trọng để tuyên
truyền, giáo dục học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh quân đội cho các đối tượng; là


20

cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán các quan điểm, tư tưởng sai trái về chiến tranh
quân đội trong tình hình hiện nay.
Xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam là phải toàn diện đồng bộ trên tất cả các
mặt trong đó xây dựng qn đội về chính trị là gốc, là cơ sở cho việc nâng cao sức
mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội. Đảm bảo cho quân đội thực sự là công cụ sắc
bén, công cụ nòng cốt chủ yếu nhất của Đảng, Nhà nước, để quân đội hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Hiện nay trước những yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
có bước phát triển mới, đòi hỏi trong xây dựng phát triển quân đội phải có những nội
dung biện pháp sát thực để nâng cao chất lượng toàn diện quân đội. Trong đó vững
mạnh về chính trị là một nội dung then chốt mang ý nghĩa quyết định. Chúng ta hoàn
toàn tin tưởng rằng Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất truyền thống anh dũng,
kiên cường, bất khuất luôn trung thành tuyệt đối với Tổ quốc với Đảng và nhân dân.
Đã từng lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử, sẽ lại làm nên những chiến
thắng huy hoàng trong thời đại mới, xứng đáng là quân đội anh hùng của một dân tộc
anh hùng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.
5.

V.I.Lênin Toàn tập, tập 19, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I.Lênin Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I.Lênin Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



21
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, XI,
XII, Nxb CTQG, H. 2001, 2011, 2016.
7. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H, 2002, tr 298, 364, 385, 385.
8. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H, 2002, tr10, 53.
9. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H, 2002, tr426, 519.
10. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H, 2002, tr274.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H, 2002, tr20, 350.
12. Hồ Chí Minh với các LLVT của Đảng, Nxb QĐND, H.1980, tr85.
13. Hồ Chí Minh với các LLVT nhân dân, Nxb QĐND H.1975, tr215.
14. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X (nhiệm
kỳ 2015 - 2020), Tạp chí Quốc phịng tồn dân, (số 11 - 2015).
15. Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, Hà
Nội, 1995, tr.260.
16. Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh, Nxb QĐND,
H 2002, tr279.



×