Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu Toà án hình sự quốc tế - một thiết chế pháp lý bảo vệ các quyền con người docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.03 KB, 19 trang )




Toà án hình sự quốc tế - một
thiết chế pháp lý bảo vệ các
quyền con người
1. Khái quát lịch sử hình thành Tòa án hình sự quốc tế
Trong xã hội hiện đại, với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, những
giá trị cao quý nhất - các quyền con người - ngày càng được các nhà
nước và xã hội quan tâm và bảo vệ. Do đó, các thiết chế quốc tế được
thành lập ra nhằm bảo vệ các quyền con người (CQCN) ngày càng
phong phú, đa dạng. Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người năm 1948 (được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua và
công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) đã khẳng
định: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không
thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự
do, công bằng và hòa bình trên thế giới Điều cốt yếu là quyền con
người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải
nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp
bức Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên hiệp quốc,
phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ
bản của con người”. Do đó, một trong các thiết chế của luật hình sự
quốc tế (LHSQT) là Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal
Court, gọi tắt là ICC) được thành lập dựa trên Quy chế Rome ngày
17/7/1998(1). ICC không chỉ là hiện thân của công lý, lẽ phải, dân chủ
và lương tri toàn cầu, nó còn là tượng trưng cho sức mạnh của các dân
tộc, của cộng đồng quốc tế và xã hội loài ngoài bằng một thiết chế tố
tụng của LHSQT do chính nhân loại đặt ra - Tòa án quốc tế có thẩm
quyền xét xử các tội ác nghiêm trọng nhất trong xã hội chống lại loại
người, xâm phạm đến CQCN. Đặc biệt, điều này còn “ngăn chặn việc
trốn tội và đồng thời cũng thiết lập hệ thống thường xuyên nhằm ngăn


chặn những người có nguy cơ phạm tội trên toàn thế giới, đặc biệt liên
quan đến những người chịu trách nhiệm chính đang cố ẩn trốn sau hệ
thống thứ bậc và những mạng lưới ảnh hưởng lớn” (2).
Ý tưởng thành lập nền tư pháp hình sự quốc tế hình thành từ rất sớm,
từ những năm 20 (3) đầu thế kỷ 20, trước khi Liên hiệp quốc (LHQ) ra
đời, xuất hiện ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhằm trừng phạt
những nhà lãnh đạo Chính phủ lạm dụng quyền lực để phát động chiến
tranh, đàn áp và sát hại hàng loạt dân thường. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, các tòa án đặc biệt (Nuremberg, Tokyo) đã xét xử các nhân vật
cầm đầu Đức quốc xã và nước Nhật quân phiệt. Từ cuối thập niên 1940
đến thập niên 1990, chiến tranh lạnh làm ngưng trệ tiến trình, cho đến
khi đối đầu Đông -Tây chấm dứt. Trên cơ sở Chương VII Hiến chương
LHQ, Hội đồng Bảo an đã thành lập hai tòa án hình sự quốc tế: một về
Nam Tư (theo Nghị quyết số 808 ngày 22/2/1993) và một về Ruanđa
(theo nghị quyết số 955 ngày 8/11/1994). Năm 1998, hội nghị quốc tế
có 120 nước tham dự đã thông qua dự thảo hiệp ước thành lập ICC.
Gần bốn năm sau, ICC chính thức được thành lập. Mặc dù sự ra đời của
ICC là kết quả của một thỏa thuận quốc tế giữa các quốc gia, tuy nhiên
không thể không nhắc đến sự đóng góp to lớn của ủy ban pháp luật
quốc tế của LHQ. Ngay từ khi thành lập vào năm 1948, ủy ban pháp
luật quốc tế đã tiến hành nghiên cứu, xem xét về một thiết chế tư pháp
quốc tế - ICC thường trực - theo yêu cầu của LHQ. Kết quả làm việc
của ủy ban này chính là phần quan trọng của Quy chế Rome về ICC.
Tóm lại, ICC được hiểu là Tòa án quốc tế thường trực được thành lập
trên cơ sở hiệp ước - Quy chế Rome - để xem xét trách nhiệm hình sự
của những cá nhân phạm các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất như tội
diệt chủng, tội chống nhân loại, tội ác chiến tranh và tội xâm lược. Đây
là những tội ảnh hưởng lớn đến những giá trị chung của cộng đồng
quốc tế nên cần phải bị trừng trị nhằm ngăn ngừa tội phạm, hạn chế đến
mức tối đa sự bỏ lọt tội phạm và trốn tội, củng cố an ninh và trật tự trên

thế giới, và đặc biệt là bảo vệ những giá trị của xã hội văn minh -
CQCN. Có thể nhận thấy rõ rằng ICC theo Quy chế Rome là thiết chế
được thừa hưởng và hoàn thiện trên cơ sở các thành tựu của lịch sử loài
người trong việc bảo vệ CQCN như Luật quốc tế về nhân quyền, Luật
nhân đạo quốc tế, Luật xung đột vũ trang. Để đảm bảo cho việc hình
thành Tòa án, ngoài quy chế Rome còn có một số văn bản khác hỗ trợ
như Quy tắc về thủ tục và chứng cứ (Rules of Procedure and Evidence)
và các yếu tố cấu thành tội phạm (Elements of Crimes); Thỏa thuận về
các quyền ưu đãi và miễn trừ của ICC (Agreement on Privileges and
Immunities of ICC - Apic).
2. Nội dung của việc bảo vệ các quyền con người bằng Toà án
hình sự quốc tế
2.1. Những nguyên tắc quy định trong Quy chế Rome về ICC - cơ
sở quan trọng cho việc bảo vệ các quyền con người
Các nguyên tắc của luật hình sự được ghi nhận trong Quy chế Rome
về ICC đã thể hiện quyết tâm bảo vệ những giá trị xã hội cao quý nhất -
CQCN. Theo Quy chế Rome về ICC, những nguyên tắc của luật hình
sự được quy định tập trung tại Phần 3 (các điều 22-33) với những
nguyên tắc: i) Nguyên tắc pháp chế (khoản 1 Điều 22 và Điều 23); ii)
Nguyên tắc nhân đạo (Điều 24); iii) Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân
(Điều 25); iv) Nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với người dưới 18
tuổi (Điều 26); v) Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự (Điều 27);
vi) Nguyên tắc công minh (Điều 28); vii) Nguyên tắc không áp dụng
thời hiệu đối với những tội xâm phạm sự tồn tại hòa bình và an ninh
của nhân loại (Điều 29) và 8) Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi (Điều 30).
Trong số những nguyên tắc của luật hình sự, nguyên tắc pháp chế,
nhân đạo, loại trừ quyền tài phán đối với người dưới 18 tuổi và nguyên
tắc không áp dụng thời hiệu đối với những tội xâm phạm sự tồn tại hòa
bình và an ninh của nhân loại phản ánh trực tiếp tư tưởng bảo vệ
CQCN bằng luật hình sự. Theo đó, với pháp chế, không ai phải chịu

trách nhiệm hình sự trừ khi hành vi của người đó cấu thành một tội
phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án vào thời điểm thực hiện hành vi
đó, và tội phạm cần phải được giải thích chính xác và không được áp
dụng tương tự. Với nhân đạo, trong trường hợp có nội dung không rõ
ràng, định nghĩa đó phải được giải thích theo hướng có lợi cho người
đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội, tức là trong trường hợp có sự thay
đổi về luật áp dụng đối với một vụ việc trước khi có phán quyết cuối
cùng, luật nào có lợi hơn cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội
sẽ được áp dụng. Ngược lại, nếu người nào gây ra tội ác chống loài
người, thì không tránh khỏi trách nhiệm hình sự quốc tế vì thực hiện
hành vi mà theo pháp luật quốc tế là thuộc loại những tội xâm phạm sự
tồn tại hòa bình và an ninh của nhân loại (mặc dù trong pháp luật hình
sự quốc gia không quy định việc trừng phạt đối với các hành vi đó, hay
nói cách khác là những hành vi này không được tội phạm hóa trong
pháp luật quốc gia); v.v Điều này có nghĩa, một mặt, những nguyên
tắc của luật hình sự thể hiện việc tôn trọng và bảo vệ CQCN, nhưng
mặt khác, cũng bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và CQCN, nếu
như chủ thể nào đó xâm phạm đến, gây thiệt hại cho lợi ích chung của
cộng đồng quốc tế.
2.2. ICC bảo vệ các quyền con người thông qua thẩm quyền tài
phán của mình
Lời nói đầu của Quy chế Rome viết rất rõ về mục đích của việc thành
lập ICC: “Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hàng triệu trẻ em, đàn bà,
đàn ông đã trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác chưa từng
thấy, làm sửng sốt lương tri nhân loại. Nhận thấy rằng tội ác dã man đó
đe dọa hòa bình, an ninh và hạnh phúc trên thế giới. Khẳng định rằng
các tội ác nghiêm trọng nhất gây nên sự lo ngại của toàn thể cộng đồng
quốc tế phải bị truy tố và trừng trị bằng các biện pháp tầm quốc gia và
bằng việc tăng cường hợp tác quốc tế”. Theo đó thì ICC chỉ có quyền
tài phán đối với các tội phạm nghiêm trọng nhất gây sự lo ngại cho cả

cộng đồng quốc tế, mà cụ thể là tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội
phạm chiến tranh, tội xâm lược. Trong bốn loại tội ác thuộc thẩm
quyền xét xử của ICC thì tội xâm lược chưa có định nghĩa, mà theo
Điều 5.2 Quy chế Rome thì “Tòa án sẽ thực thi thẩm quyền đối với các
tội xâm lược khi một quy định về định nghĩa tội xâm lược và các điều
kiện để Tòa án thực hiện quyền tài phán đối với tội này được thông qua
theo các điều 121 và 123…”. Để đưa ra được sự thống nhất về thẩm
quyền tài phán của ICC, các quốc gia thành viên đã cố gắng chắt lọc
những gì tốt nhất ở các hiệp ước sẵn có. Tuy nhiên không phải lúc nào
sự nỗ lực này cũng đi đến sự đồng thuận. Chẳng hạn khi xem xét về
định nghĩa để xét xử về tội xâm lược có thể viện dẫn tương tự như các
tội ác về hòa bình được định nghĩa trong Quy chế Nremberg là “Lập kế
hoạch, chuẩn bị, khởi sự hay bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược hay chiến tranh phá hoại các hiệp ước, các thỏa thuận, các bảo
đảm quốc tế; Tham gia vào một kế hoạch hay âm mưu chung để thực
hiện bất kỳ trong số hành động nào kể trên”. Định nghĩa về tội xâm
lược cần phải được Hội đồng bảo an LHQ thông qua (4) và cho đến nay
dù tội này được quy định trong Điều 5 của Quy chế Rome nhưng nó
vẫn chưa được thực thi trên thực tế. Như vậy ICC chưa thể bảo vệ
CQCN và mang lại công lý cho các nạn nhân trước hành vi tội ác này.
Đối với ba tội phạm còn lại là tội diệt chủng, tội chống loài người và
tội ác chiến tranh thì đã có định nghĩa và quy định các yếu tố cụ thể của
các tội phạm này trong Quy chế Rome. Cụ thể như sau: Điều 6 quy
định 5 loại hành vi cụ thể cấu thành tội diệt chủng; Điều 7 quy định 11
loại hành vi cấu thành tội chống loài người cùng với giải thích cụ thể về
mỗi hành vi; Điều 8 quy định trên 50 hành vi cấu thành tội phạm chiến
tranh (5).
Điểm b khoản 2 Điều 8 Quy chế Rome quy định ICC có thẩm quyền
tài phán đối với hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp và tập quán
được áp dụng trong xung đột vũ trang quốc tế, trong đó có hành vi: “Cố

ý tấn công vào nhân viên, thiết bị vật chất, các đơn vị hoặc phương tiện
tham gia trợ giúp nhân đạo hoặc thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình
phù hợp với Hiến chương LHQ, trong điều kiện họ được hưởng sự bảo
hộ dành cho dân thường và các mục tiêu dân sự theo pháp luật quốc tế
về xung đột vũ trang”.
Khoản 1 Điều 5 Quy chế Rome quy định ICC có thẩm quyền xét xử
đối với các cá nhân phạm các tội ác nghiêm trọng nhất đối với cộng
đồng quốc tế. Đó là: tội diệt chủng; tội chống loài người; tội ác chiến
tranh; tội xâm lược. Những cá nhân này có thể là công dân của các
quốc gia thành viên hoặc công dân của các quốc gia phi thành viên Quy
chế (Điều 12 và Điều 13) khi:
- Họ thực hiện tội phạm trên lãnh thổ quốc gia thành viên hoặc trên
tàu bay, tàu thuyền được đăng ký tại quốc gia thành viên;
- Họ thực hiện tội phạm tại quốc gia mà họ mang quốc tịch hoặc
quốc gia nơi họ thực hiện tội phạm đã chấp nhận quyền tài phán của
ICC;
- Vụ việc do Hội đồng bảo an LHQ thông báo cho ICC theo thẩm
quyền quy định tại Chương VII Hiến chương LHQ.
Theo Điều 27 Quy chế Rome về nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật thì ICC có thẩm quyền xem xét trách nhiệm hình sự với bất kỳ cá
nhân nào, không phụ thuộc vào việc họ có được hưởng quyền miễn trừ
theo pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế.
2.3. Các hoạt động tố tụng theo Quy chế Rome do ICC thực hiện
cũng chính là việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người
Bảo vệ CQCN thông qua các hoạt động tố tụng được thể hiện trên
hai bình diện: Thứ nhất, hoạt động này mang lại công lý cho các nạn
nhân và thứ hai, đồng thời, cũng bảo đảm tối đa và đầy đủ CQCN của
chính những người bị đưa ra xem xét trách nhiệm hình sự. Các tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC (Tội diệt chủng, tội phạm
chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược) là những hành

động của con người cụ thể nhưng thường là sự thể hiện ý chí của không
chỉ một cá nhân mà của một tổ chức, thậm chí một Chính phủ. Do đó
khi xem xét trách nhiệm hình sự của cá nhân phạm tội thì thường liên
quan đến nhiều người. Chính vì vậy các hoạt động tố tụng từ điều tra,
truy tố, xét xử đến việc thu thập chứng cứ, bảo vệ nhân chứng v.v cần
phải được quy định chặt chẽ cũng như việc thực thi phải được tiến hành
hết sức nghiêm túc vì nó ảnh hưởng đến CQCN được pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế bảo vệ.
Theo Điều 17 và 20 “nguyên tắc không xét xử hai lần” và theo tinh
thần chung xuyên suốt Quy chế Rome về ICC - thẩm quyền của ICC có
tính chất bổ sung, hỗ trợ các quốc gia - thì ICC sẽ không thể tham gia
vào trường hợp nào đó nếu trường hợp này đang được xem xét trách
nhiệm hình sự bởi một quốc gia. Những trường hợp được liệt kê ở Điều
17 có ý nghĩa trong việc bảo vệ CQCN mà cụ thể ở đây là bảo vệ
những người có liên quan đến trách nhiệm hình sự khi quy trình tố tụng
không được thực hiện do quốc gia không mong muốn hoặc không có
khả năng.
Cho nên, để bảo đảm việc xử lý các cá nhân thực hiện tội ác nghiêm
trọng xâm phạm đến CQCN, nhưng cũng tránh làm oan, sai cho người
vô tội, Quy chế Rome đã quy định chặt chẽ về thủ tục tố tụng như sau:
1) Thực hiện quyền tài phán (Điều 13 Quy chế). Tòa án có thể thực
hiện quyền tài phán khi xảy ra một hay nhiều tội phạm thuộc thẩm
quyền tài phán của ICC được quốc gia thành viên hoặc Hội đồng bảo
an LHQ thông báo cho Trưởng công tố; Trưởng công tố cũng có thể tự
mình mở điều tra căn cứ vào những thông tin thuộc quyền tài phán của
ICC; 2) Tiến hành điều tra, truy tố: để tiến hành hoạt động này thì
Trưởng công tố phải xác định thông tin nhận được có đủ căn cứ để xác
định tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC hay không, có đúng theo
quy định của Điều 17 của Quy chế hay không. Sau đó Trưởng công tố
được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ cũng như các biện pháp

khác theo quy định của Quy chế; 3) Giai đoạn tiền xét xử - trong một
số trường hợp (thu thập hoặc xác minh những chứng cứ có thể mất),
theo yêu cầu của Công tố viên, Hội đồng tiền xét xử có thể áp dụng các
biện pháp cần thiết như chỉ thị việc lập biên bản liên quan đến điều
tra…; 4) Giai đoạn xét xử - việc này tiến hành bởi một hội với sự có
mặt bị cáo trong suốt quá trình theo trình tự tố tụng đảm bảo được
những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự văn minh; 5) Kháng cáo -
các bên có liên quan sau khi có quyết định của Hội đồng xét xử có thể
kháng cáo đối với quyết định tha bổng hoặc kết tội hoặc đối với bản án
theo quy định tại Điều 81 hoặc kháng cáo đối với các quyết định khác
quy định tại Điều 82 Quy chế. Để bảo đảm cho các quyền của những
bên liên quan, Hội đồng kháng cáo có tất cả những quyền của Hội đồng
xét xử. Theo đó, Hội đồng kháng cáo có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi quyết
định hoặc bản án bị kháng cáo hay quyết định xét xử lại bởi một Hội
đồng xét xử khác; 6) Thi hành án - Quy chế quy định rõ ràng vai trò
của quốc gia trong việc thi hành án (Điều 103) cũng như các vấn đề
khác từ Điều 103 đến Điều 111.
2.4. ICC - thiết chế hỗ trợ Liên hiệp quốc trong việc bảo vệ các
quyền con người
Mặc dù là hai thiết chế độc lập với nhau nhưng cả ICC và LHQ đều
có chung mục đích là bảo vệ CQCN. Mối liên hệ giữa ICC và LHQ thể
hiện ở chỗ các quốc gia thành viên của ICC hầu hết cũng chính là thành
viên của LHQ, sự thống nhất giữa các nguyên tắc của Hiến chương
LHQ và Quy chế Rome, sự tôn trọng về thẩm quyền và tư cách của hai
thiết chế, hỗ trợ và hợp tác về thể chế, hoạt động và tương trợ tư pháp.
Về phương diện thể chế và hành động, hai bên thường mời các đại diện
đến tham dự các cuộc họp, trao đổi thông tin và gửi báo cáo hàng năm,
hợp tác trong các vấn đề như tuyển dụng nhân sự, hành chính, ngân
sách. Về hợp tác và tương trợ tư pháp thì các nhân viên của LHQ có thể
ra làm chứng trước tòa, LHQ cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết

theo yêu cầu của ICC (Khoản 6 Điều 87 Quy chế Rome). Hội đồng bảo
an LHQ xác định căn cứ để ICC thực hiện quyền tài phán, hoãn hoạt
động điều tra, truy tố của ICC và định nghĩa tội xâm lược. Thêm vào
đó, ICC còn là thiết chế hỗ trợ bảo vệ nhân chứng của LHQ, do LHQ
không có nhiệm vụ bảo vệ nhân chứng nên ICC cung cấp cơ chế về nhà
ở và cơ chế bảo vệ khẩn cấp mang tính lâm thời. Một số văn bản pháp
luật quốc tế, như: Luật quốc tế về nhân quyền, Luật nhân đạo quốc tế,
Luật xung đột vũ trang đã trở thành cơ sở pháp lý cho hoạt động của
lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ nhằm bảo vệ CQCN. Những luật
này là đã tạo cơ sở cho việc ra đời Quy chế Rome sau này.
LHQ đã thông qua một loạt các văn bản mà những văn bản này hợp
thành Luật quốc tế về nhân quyền như Tuyên ngôn nhân quyền tháng
12L/1948; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa thông
qua ngày 16/12/1966; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị, thông qua ngày 16/12/1966 và Nghị định thư liên quan; Công ước
về ngăn ngừa và trừng phạt tội diệt chủng (thông qua ngày 9/12/1948);
Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (thông
qua ngày 18/12/1979); Công ước năm 1984 chống tra tấn, đánh đập và
chống đối xử hoặc trừng phạt dã man, vô nhân đạo hoặc chà đạp nhân
phẩm; Công ước của LHQ về quyền trẻ em do Đại hội đồng LHQ
(thông qua ngày 20/11/1989). Ngoài ra, để cung cấp cho các nhân viên
thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình, cảnh sát dân sự của LHQ những tiêu
chuẩn, tiêu chí đánh giá tình hình thực hiện nhân quyền ở nơi họ được
phái đến, một loạt các văn bản khác do LHQ và các tổ chức do LHQ
bảo trợ ban hành như: Các luật lệ về đối xử với tù nhân; Các nguyên
tắc bảo vệ những người bị giam giữ hay bị bỏ tù dưới bất kỳ hình thức
nào; Các nguyên tắc cơ bản về sử dụng vũ lực và vũ khí nhỏ của các
quan chức thi hành pháp luật; Các nguyên tắc ngăn chặn và thanh tra có
hiệu quả các cuộc hành hình độc đoán; Các tiêu chí về hình sự đối với
cảnh sát gìn giữ hòa bình; Sổ tay cảnh sát dân sự LHQ; Sổ tay quan sát

viên quân sự LHQ; Các nguyên tắc hợp tác quốc tế về phát hiện, bắt
giữ, dẫn độ và xử phạt đối với những tội ác chiến tranh và tội chống
nhân loại.
Theo điểm b khoản 2 Điều 8 Quy chế Rome thì ICC có thể truy tố và
xét xử những hành vi nhằm cố ý tấn công vào nhân viên cũng như cơ
sở vật chấtT, phương tiện… của lực lượng gìn giữ hòa bình trong các
cuộc xung đột vũ trang mang tính quốc tế. Điều này có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc bảo vệ CQCN, vừa bảo vệ chính những người
làm đảm đương nhiệm vụ gìn giữ hòa bình lại vừa góp phần đảm bảo
cho chính hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ.
Về phương diện ngược lại thì chính những cá nhân tham gia lực
lượng gìn giữ hòa bình của LHQ cũng có thể bị ICC truy tố, xét xử nếu
như họ thực hiện tội phạm quy định tại Điều 5 Quy chế Rome và thuộc
các đối tượng quy định tại Điều 12 và 13 Quy chế Rome. Điều này
không những không cản trở hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ mà
còn góp phần làm tăng hiệu quả của lực lượng đặc biệt với sứ mệnh cao
cả này, hạn chế tiến tới loại bỏ việc các nhân viên thuộc lực lượng gìn
giữ hòa bình lợi dụng vị trí của họ để trục lợi chính trị hoặc gây tội ác.
Chính điều này như một biện pháp phòng chống những tội ác nghiêm
trọng xâm phạm đến CQCN.
2.5. ICC bảo vệ các quyền con người thông qua việc nâng cao vị
thế của các quốc gia thành viên, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia
Nếu như trước đây, luật quốc tế chỉ điều chỉnh các mối quan hệ giữa
các quốc gia thì xu thế ngày nay chủ thể của ngành luật này đã được
mở rộng với cả các cá nhân. Điều này thể hiện việc CQCN được quan
tâm và bảo vệ nhiều hơn cũng như nâng cao trách nhiệm của cá nhân.
Trước khi ICC xuất hiện thì các cá nhân đã trở thành đối tượng của luật
quốc tế, bắt đầu từ việc Tòa án Nuremberg xem xét trách nhiệm cá
nhân vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tiếp theo là sự ra đời
và phát triển của hàng loạt các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con

người và một số cơ quan tư pháp quốc tế như Tòa án hình sự ở Nam Tư
cũ, Tòa án hình sự Ruanđa. Đến khi ICC được thành lập thì cá nhân
không những là đối tượng mà còn trở thành chủ thể của luật quốc tế.
ICC không phải là cơ quan siêu quốc gia mà là một cơ quan tương tự
như các thể chế quốc tế hiện hành… ICC không làm gì vượt ra ngoài
những gì mà mỗi quốc gia có thể làm theo pháp luật quốc tế. Vì vậy,
ICC là sự mở rộng thẩm quyền pháp lý hình sự của quốc gia… ICC
theo đó không xâm hại đến chủ quyền quốc gia… (6). ICC là kết quả
của sự đồng thuận quốc tế, thể hiện chủ quyền của quốc gia khi tham
gia giải quyết những vấn đề quan tâm chung của các quốc gia. Vị thế
của quốc gia sẽ được nâng cao, chủ quyền quốc gia sẽ thêm vững chắc,
CQCN sẽ thêm cơ chế bảo vệ khi trở thành thành viên của Quy chế
Rome về ICC. Lý do của sự khẳng định này là: 1) trở thành thành viên
của ICC chính là sự tuyên bố hoàn thiện pháp luật quốc gia; 2) thể hiện
quyết tâm của quốc gia chống lại những tội phạm nguy hiểm nhất và
đưa chúng ra trước ánh sáng của công lý bằng việc truy tố, xét xử
những cá nhân phạm tội thuộc thẩm quyền của ICC; 3) sự cam kết của
các quốc gia thành viên về sự tuân thủ các quy định của pháp luật quốc
tế, trong đó có Quy chế Rome. Theo đó những người lãnh đạo quốc gia
trong mỗi hành động của mình đều phải cân nhắc trước nguy cơ bị xem
xét trách nhiệm hình sự nếu thực hiện những tội phạm thuộc thẩm
quyền của ICC (tội diệt chủng, tội chống loài người, tội phạm chiến
tranh, tội xâm lược); 4) Quy chế Rome không phải là thiết chế đầu tiên
và duy nhất lên án những tội phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất
đến hòa bình, an ninh và thịnh vượng của thế giới mà trước đó còn có
nhiều công ước như Công ước Geneve, Công ước về ngăn ngừa và
trừng trị tội diệt chủng cũng đã có quy định về việc ngăn chặn những
hành vi này; 5) ICC là sự bổ sung cần thiết cho những thiếu hụt của hệ
thống pháp luật quốc tế hiện hành, góp phần quan trọng vào việc giữ
gìn công lý, chấm dứt tình trạng miễn trừ đối với người phạm tội, giải

quyết xung đột ở một số quốc gia…Trong thời đại toàn cầu hóa, đòi hỏi
phải có những bộ luật và cơ chế pháp lý mang tính “toàn cầu”. Các
quốc gia sẽ không thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình đối với
công dân nếu như chỉ đơn thuần lưu ý đến luật quốc gia mà không tuân
thủ pháp luật quốc tế. Bởi vậy, việc đảm bảo chủ quyền quốc gia không
đồng nghĩa với việc tách biệt khỏi các mối quan hệ quốc tế mà ngược
lại chính sự hội nhập và hợp tác quốc tế (chẳng hạn như việc tham gia
ký kết, phê chuẩn các điều ước quốc tế) cũng là một cách để quốc gia
khẳng định chủ quyền của mình (7); 6) phòng ngừa và chống các tội ác
nghiêm trọng nhất, duy trì trật tự pháp luật quốc tế và an ninh thế giới,
góp phần củng cố chủ quyền cho các quốc gia nhằm bảo vệ CQCN.
2.6. ICC bảo vệ các quyền con người bằng việc hỗ trợ hệ thống
pháp luật quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống các loại tội
phạm đặc biệt nguy hiểm
Nếu như hệ thống Tòa án trong một quốc gia là một trong những
thiết chế quan trọng của quốc gia để bảo vệ CQCN thì đây cũng là mục
đích của ICC. Điều quan trọng là hai thiết chế này hỗ trợ nhau thế nào
trong việc đạt được mục đích chung – bảo vệ CQCN. Điều 17 Quy chế
Rome quy định về nguyên tắc bổ sung chính là nền tảng quyết định của
toàn bộ hệ thống ICC trong mối liên hệ với hệ thống tòa án quốc gia.
Như vậy phát sinh việc ICC hỗ trợ chỉ khi một quốc gia không muốn
hoặc không thể điều tra, truy tố một trường hợp cụ thể. Sự bổ sung của
ICC bao gồm hai mức:
Mức một: được thiết lập bởi các quốc gia và hệ thống luật hình sự
quốc gia. Theo nguyên tắc bổ sung của Quy chế Rome, các quốc gia sẽ
tiếp tục thực thi công lý đối với các tội phạm quốc tế;
Mức hai: được thiết lập bởi ICC. Theo nguyên tắc bổ sung, ICC sẽ
hành động như giải pháp sau cùng trên cơ sở xem xét có phải do hệ
thống tư pháp quốc gia bị sụp đổ hoàn toàn hay phần lớn hoặc do
không có hệ thống tư pháp mà quốc gia đó không thể bắt giữ được

người bị buộc tội hoặc thu thập được các chứng cứ và lời khai cần thiết
hoặc không thể tiến hành tố tụng được hay không. Một ý nghĩa nữa của
Điều 17 Quy chế Rome là tòa án đầu tiên giải quyết các vụ án có liên
quan đến thẩm quyền của ICC không phải là ICC mà là hệ thống tư
pháp ở các quốc gia. ICC chỉ có thẩm quyền trong những trường hợp
đã phân tích ở trên (quy định tại Điều 17 Quy chế Rome).
Trong mối liên hệ với Tòa án quốc gia thì ICC không có chức năng
như một tòa kháng án, cũng không có thẩm quyền đối với các tội diệt
chủng, tội chống loài người, tội phạm chiến tranh, tội xâm lược nếu
như thuộc trường hợp mà Tòa án quốc gia điều tra, truy tố. ICC có
thẩm quyền thấp hơn và trợ giúp cho việc xét xử của những Tòa án
quốc gia. Từ sự phân tích trên cho thấy ICC là một thiết chế hỗ trợ cho
hệ thống tư pháp của quốc gia trong việc đấu tranh phòng và chống các
loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm nhằm bảo vệ CQCN. Sự hỗ trợ này
thể hiện trên hai phương diện: 1) Nguyên tắc bổ sung của ICC cho hệ
thống tư pháp quốc gia và 2) Giống các toàn án quốc tế khác, ICC có
thẩm quyền xem xét tính hiệu quả của hệ thống tư pháp của các quốc
gia. Như vậy để ICC không thực hiện được thẩm quyền của mình thì
các quốc gia cần phải hoàn thiện hệ thống tư pháp của mình sao cho
hoạt động đạt hiệu quả, cũng như là thể hiện quyết tâm của quốc gia
đấu tranh chống lại những tội ác quốc tế, bảo đảm công lý và bảo vệ
CQCN.

(Kỳ sau đăng tiếp)
(1) Tội phạm khi thực hiện đều gây nguy hại cho xã hội, cho hòa
bình và an ninh của nhân loại và xâm phạm đến quyền con người.
Người thực hiện chúng đều bị xét xử theo các cấp độ khác nhau và
công việc này do Tòa án quốc gia và quốc tế thực hiện. ở tầm quốc tế,
công việc này do Tòa án nhân danh cộng đồng quốc tế xét xử như: Tòa
án quốc tế Nurrumbe, Tòa án quốc tế Tôkyo, Tòa án hình sự Ruanđa và

Nam Tư cũ, Tòa án hình sự quốc tế theo Quy chế Rome năm 1998.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xem xét riêng vai trò của Tòa
án hình sự quốc tế theo Quy chế Rome năm 1998.
(2) Xem: Hans-Peter Kaul, The International Criminal Court - Key
Features and current challenges, International Criminal Court and
Vietnam’s Accession, Science Workshop, Hanoi, 25-26 October, 2006,
p.39.
(3) Resolution of the Assembly of the League of Nations of September
22, 1924.
(4) Về Tội xâm lược, Nghị quyết 3314 năm 1974 của Đại hội đồng
LHQ tuy chỉ là sơ lược nhưng cũng đã liệt kê một số hành vi cụ thể và
việc xác định những hành vi nào cấu thành tội xâm lược do Hội đồng
bảo an xem xét.
(5) Hội Luật gia Việt Nam: Những văn bản pháp lý về Tòa án hình
sự quốc tế (Bản dịch theo tài liệu đã xuất bản), Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2006.
(6) Xem: Robert Cryer, International Criminal Law vs State
Sovereignty: Another Round?, The European Journal of International
Law Vol. 16 no. 5 c EJIL 2006.
(7) Xem: Nguyễn Thị Thanh Hải, Tòa án hình sự quốc tế và việc gia
nhập của Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học. Nxb. Tư pháp. Hà Nội.
2007, tr. 161.

TS. Nguyễn Khắc Hải - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

×